Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cải thiện ngành nông nghiệp chăn nuôi nhờ Công nghệ Sinh học(p-2) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.8 KB, 10 trang )


Cải thiện ngành nông
nghiệp chăn nuôi nhờ
Công nghệ Sinh
học(p-2)



CÂY TRỒNG BIẾN ĐỔI GIEN
LÀM GIẢM LƯỢNG PHỐT-
PHO VÀ NI-TƠ THẢI RA

Phốt-pho (P) dư thừa từ phân bón
có thể tác động nhiều đến chất
lượng các sông hồ nước ngọt. Hàm
lượng phốt-pho trong phân lợn và
gà cao do các loại vật nuôi này có
khẩu phần ăn chứa nhiều ngũ cốc
và hạt có dầu trong đó hầu hết
lượng phốt-pho, từ 60 đến 80 phần
trăm, không được hấp thụ trong
đường tiêu hóa mà bị bài tiết ra
ngoài trong phân. Hệ quả là, phải
cho lợn và gà ăn một lượng tương
đối lớn thức ăn có chứa phốt-pho
để đáp ứng nhu cầu phốt-pho của
chúng. Vấn đề này không xảy ra
đối với các loài nhai lại - gia súc,
cừu và dê - bởi vì bộ máy tiêu hóa
của chúng sử dụng phốt-pho trong
thức ăn hiệu quả hơn. Để giải quyết


vấn đề này đối với lợn và gà, một
loại ngô biến đổi gien đặc biệt được
tạo ra để làm cho lượng phốt-pho
trong thức ăn dễ hấp thụ hơn đối
với các loại vật nuôi này. Như vậy,
loại ngô biến đổi gien đó đem lại
khả năng giảm nhiều hơn nữa sự
bài tiết phốt-pho của lợn và gà. Một
giống đậu nành biến đổi gien tương
tự cũng đã được phát triển. Thức ăn
bột làm từ loại đậu nành biến đổi
gien này đem lại nhiều phốt-pho
hơn cho lợn và gà so với thức ăn
làm từ đậu nành bình thường. Các
nghiên cứu đã cho thấy chế độ ăn
uống có chứa ngô biến đổi gien và
bột đậu nành biến đổi gien làm
giảm lượng thải phốt-pho trong
phân từ 50 đến 60 phần trăm ở lợn
và gà. Việc cho các giống ngô và
đậu nành biến đổi gien nói trên vào
trong khẩu phần ăn của lợn và gà
hứa hẹn nhiều khả năng giảm mạnh
lượng phốt-pho thải vào môi
trường.

Các loại cây trồng biến đổi gien với
hàm lượng axít amin cao có tiềm
năng lớn trong việc giảm thiểu
lượng chất thải ni-tơ (N), đặc biệt

là đối với lợn và gà. Ni-tơ có thể
làm ô nhiễm đất và nước bề mặt,
góp phần tạo ra “mưa axít”, làm
tăng lượng axít trong đất, và là
nguồn gây mùi hôi. Việc nâng cao
hàm lượng các axít amin như
lysine, methionine, tryptophan,
threonine và các axít amin quan
trọng khác trong ngũ cốc có nghĩa
là nhu cầu của lợn và gà về các axít
amin chủ yếu có thể được đáp ứng
với những khẩu phần ít protein.
Những khẩu phần như thế chứa ít
lượng dư thừa các axít amin khác
mà rút cục sẽ bị chuyển hóa thành
urê ni-tơ và bị bài tiết trong nước
tiểu. Việc cho lợn và gà ăn các
giống cây biến đổi gien này sẽ làm
giảm đáng kể lượng ni-tơ - dưới
dạng urê chẳng hạn - bị thải vào
môi trường.


ĐỘ AN TOÀN CỦA CÁC
CÔNG NGHỆ SINH HỌC SẢN
XUẤT LƯƠNG THỰC

Hoa Kỳ có một lịch sử lâu dài về
việc đánh giá độ an toàn của các
loại thực phẩm được đưa ra thị

trường. Việc đánh giá các loại công
nghệ sinh học áp dụng vào cây
trồng và vật nuôi biến đổi gien
được dựa trên cơ sở khoa học và
được tiến hành rất nghiêm ngặt.
Việc khám phá và phát triển các
công nghệ sinh học mới dùng cho
cây trồng và vật nuôi là một phần
trong quá trình đưa tới sự thương
mại hóa các sản phẩm nông nghiệp
sử dụng công nghệ sinh học.

Về mặt lịch sử, sự tương đương về
thành phần của thực vật biến đổi
gien, động vật biến đổi gien hoặc
động vật có dùng các chế phẩm
công nghệ sinh học, như bST, là
một phần quan trọng trong quá
trình quản lý. Thiết lập sự tương
đương về thành phần là bằng chứng
cho thấy những thay đổi lớn không
xảy ra trong thực vật hay động vật
dưới tác động của việc biến đổi
gien. Một sự chứng thực cho tính
chất lành mạnh của quy trình đánh
giá độ an toàn tương đối sử dụng
cho thực vật biến đổi gien là hơn
223 triệu héc-ta cây biến đổi gien
đã được trồng vì mục đích thương
mại trong 10 năm qua mà không có

một tác động nào được ghi nhận
đối với con người, gia súc hay môi
trường. Cũng như vậy, không có
một ảnh hưởng xấu nào được ghi
nhận đối với thịt và sữa từ những
con bò được bổ sung bST, loại
công nghệ sinh học trong chăn nuôi
được áp dụng với tốc độ nhanh
nhất cho tới nay.


KẾT LUẬN

Nông nghiệp đang trải qua một kỷ
nguyên khoa học đáng chú ý với vô
số những quy trình và sản phẩm
được tạo ra sử dụng công nghệ sinh
học. Hơn nữa, nhiều sản phẩm mới
được tạo ra nhờ sử dụng công nghệ
sinh học đang được phát triển sẽ
làm lợi cho ngành công nghiệp
thực phẩm. Đằng sau sự cho phép
ứng dụng những sản phẩm mới này
là một quá trình đánh giá độ an
toàn nghiêm ngặt. Cho tới nay,
những công nghệ sinh học được
phép áp dụng vào cây trồng và vật
nuôi biến đổi gien được coi là có
độ an toàn tương đương với các
loại chế phẩm thông thường tương

ứng. Việc phát triển và áp dụng các
công nghệ sinh học mới sẽ đóng vai
trò rất quan trọng để đáp ứng thách
thức của việc tạo ra đủ thực phẩm
cho dân số thế giới đang gia tăng,
đồng thời, giảm thiểu tác động đối
với môi trường. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của những công nghệ này
đối với xã hội trong tương lai sẽ
phụ thuộc nhiều vào mức độ chúng
được các nhà sản xuất và cộng
đồng sản xuất nông nghiệp ứng
dụng và được người tiêu dùng chấp
nhận. Những vấn đề về tác động xã
hội và mức độ an toàn thường nổi
lên khi có thay đổi về công nghệ.
Gắn liền với việc phát triển và áp
dụng thành công các công nghệ
sinh học mới trong nông nghiệp là
sự cần thiết phải nâng cao hiểu biết
của công chúng về các vấn đề khoa
học, kinh tế, lập pháp, đạo đức và
xã hội liên quan tới các công nghệ
sinh học mới trong nông nghiệp.

×