Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Về tính đa dạng sinh học vùng Ba tơ - Đức Phổ (p-1) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.09 KB, 14 trang )




Về tính đa dạng
sinh học v
ùng Ba tơ
- Đức Phổ (p-1)




Trước đây vùng Ba Tơ - Đức
Phổ, tỉnh Quảng Ngãi là nơi có
tính đa dạng sinh học khá cao,
nhưng do nhiều nguyên nhân
khác nhau nên đến nay tính đa
dạng sinh học nơi đây đã bị giảm
sút nghiêm trọng. Những kiến
nghị của tác giả nhằm bảo tồn
tính đa dạng sinh học trong vùng
là rất đáng quan tâm đối với các
cơ quan chức năng, đặc biệt là
các cấp chính quyền v
à nhân dân
địa phương.

Vùng Ba Tơ - Đức Phổ là các
huyện tận cùng phía tây - nam của
tỉnh Quảng Ngãi. Đây cũng l
à vùng
bán sơn đ


ịa với nhiều sinh cảnh đặc
trưng, chủ yếu là rừng già, rừng tái
sinh, vùng đồi, nương rẫy - bản
làng, khe suối, rú đất, đá vôi, đầm
nước mặn, và biển.

Trong vùng thường có lượng mưa
hàng năm khá lớn (2 600 mm) và
thường muộn hơn các tỉnh phía
bắc, tập trung vào ba tháng mùa
đông (tháng 10 đến tháng 12). Địa
hình không bằng phẳng do sự hình
thành những triền núi theo hướng
từ dãy Trường Sơn ra Biển Đông.

Do mang đặc tính khí hậu và thổ
nhưỡng của vùng Trung Trung Bộ,
ở đây có nhiều cây bản địa riêng,
nhiều thảm thực vật có các loài
phân bố rộng và chứa trong mình
nhiều loại động vật có ích, quý
hiếm.

Đặc điểm cấu trúc thảm thực
vật:

Sự đa dạng và phức tạp của địa
hình đã tạo cho vùng thảm thực vật
khá phong phú. Theo tài liệu
nghiên cứu về thảm thực vật rừng

Việt Nam của Thái Văn Trừng
(1978), rừng vùng Ba Tơ trước đây
thuộc kiểu rừng kín thường xanh
mưa mùa nhiệt đới. Tuy nhiên, do
quá trình tác động lâu dài, do chiến
tranh, do khai thác, chặt phá rừng
của con người mà từ kiểu rừng kín
thường xanh mưa mùa nhiệt đới
trong khu vực đã phân hóa thành
các hệ sinh thái và sinh cảnh khác
nhau. Ngoại trừ các khu rừng già
nguyên sinh còn sót lại tại vài đỉnh
núi cao ở phía tây - nam huyện Ba
Tơ, phần còn lại của khu vực
nghiên cứu có thể chia thành các
loại thảm thực vật sau:

· Thảm thực vật thứ sinh: Phần
lớn rừng phía tây - nam khu vực
(Ba Tơ, Mộ Đức, Đức Phổ) bị tàn
phá mạnh và hiện nay đang độ
phục hồi. Rừng thứ sinh được hình
thành với thành ph
ần thực vật phức
tạp, gồm các loài cây thân gỗ, thân
thảo đủ các cỡ chiều cao, các cấp
đường kính, nhiều dây leo, tạo nên
một cấu trúc hỗn độn, phân tầng
cây không rõ rệt. Thành phần các
loài cây chủ đạo thuộc các họ

Euphorbiaceae, Moraceae,
Elaecarpaceae, và xuất hiện các
loài trong vài họ dây leo thân thảo
(Cucurbitaceae,
Vitacencovolrnolaceae, ).

Các yếu tố tạo thành các tầng cây
ưu thế đã hình thành được 5 tầng
thảm thực vật rừng tái sinh, song
độ che phủ thấp, thường không
khép kín tán như rừng già. Mật độ
cây trong rừng kiểu này rất lớn,
nhưng thành phần loài không
nhiều, chứng tỏ khả năng tái sinh
của rừng rất nhanh chóng. Các loại
rừng này ước tính có tuổi phục hồi
khoảng 10 - 15 năm.

· Hệ thực vật thảm cỏ - cây
bụi: Do sự tàn phá của chiến tranh,
do khai thác đất đai để trồng trọt v
à
đốt nhiều lần để làm nương rẫy của
người dân trong một thời gian dài,
đến khi đất bị cằn cỗi không thể
tiếp tục trồng trọt được nữa, người
ta bỏ hoang để rồi sau đó thảm cỏ -
cây bụi hình thành. Đây là kiểu
thảm thực vật phổ biến của các
huyện phía nam tỉnh Quảng Ngãi.

Khảo sát trảng cây này ở vùng núi
Ba Tơ và Đức Phổ chúng tôi thấy
thành phần chủ yếu tạo nên chúng
trước hết là họ Poaceae, mà đại
diện ưu thế là các loài: Impereta
cylindrica, Chrysopogon aciculatus,
Eupatorium odoralum Ưu hợp
phát triển mạnh vào mùa mưa chủ
yếu là các loài cây cỏ tranh
(Impereta cylindrica) và cỏ lào
(Eupatorium odoratum); sau đó kéo
theo những cây ưa sáng chịu hạn
như: Sida corlfolia, Urena lobata,
Melaa sp., Randia sp.

Thảm cỏ và cây bụi được xem như
các quần xã tiên phong trong các
dạng hệ sinh thái này. Nhờ chúng
phát triển mà giữ được độ ẩm cho
đất, tạo điều kiện cho các loài cây
gỗ khác sinh trưởng.

Nhìn chung các tr
ảng cỏ, cây bụi có
mật độ cây rất lớn, nhưng số loài
lại rất nghèo. Do đó việc khôi phục
lại thảm cây rừng ở những khu vực
nương rẫy bỏ hoang là r
ất khó khăn
và lâu dài.


· Cấu trúc thảm cây rừng hỗn
giao: Vùng đồi núi cao trên 300 m
thuộc huyện Ba Tơ còn tồn tại các
vạt rừng hỗn giao, chủ yếu là các
nhóm tre - nứa - gỗ, với diện tích
không nhiều (vài ba chục hecta),
phân bổ rải rác ở các xã Ba Vinh,
Ba Nam, Ba Vì, Ba Tiêu. Thành
phần loài chủ đạo ở đây là
Bambusa sp., Dendrocamus sp.
và tập đoàn cây gỗ xen kẽ thuộc
các họ Fagaceae, Melaceae,
Fabaceae,

Nhìn chung rừng hỗn giao thành
phần loài cây nghèo, giá trị kinh tế
thấp.

· Hệ thực vật vùng đồi - bản làng
- khe suối: Diện tích dạng hệ sinh
thái này khá lớn, với thảm thực vật
thưa gồm nhiều cây bản địa và hệ
cây trồng tương đối phát triển.
Vùng ven suối, bản làng g
ặp những
loài cây bản địa ít có giá trị về kinh
tế, sinh thái. Đó là những trảng cỏ,
cây bụi có tuổi hình thành rất trẻ v
à

phát triển trên cơ sở cạnh tranh với
các cây trồng phủ đồi, cây lương
thực, cây màu của nhân dân trong
vùng. Thực vật hoang dại còn lại là
những cây bụi như loài me
(Tarmarindus indicus), mua
(Melastoma dodecandrum), lau
(Saccharum arundinaeum). Các cây
thân gỗ có giá trị chỉ gặp các loài
xoan (Archis hypogaca), bời lời
(Lisea umbellata) với số lượng
không nhiều. Các cây hoang dại
thuộc họ Poaceae, Arteracae h
ình
thành nên thảm che phủ bề mặt l
àm
tăng độ ẩm, chống xói mòn và tạo
màu xanh cho vùng đất.

Đáng kể nhất là các loài cây trồng
v
ới nhiều mục đích khác nhau. Cây
trồng lấy gỗ và tạo tán cho vùng
đồi là các loài phi lao (Casuarina
equisetifolia), bạch đàn trắng
(Eucalyptus camphora), bạch đàn
cú (Eucalyptus camaldulensis),
tràm hoa vàng (Melalenca
leucadendra), Nhiều loài cây ăn
quả và cây màu của nhân dân trong

vùng dân cư cũng được trồng rộng
khắp trong khu vực.

Trong số các loài th
ực vật chúng tôi
điều tra được chưa thật đầy đủ,
song nhiều loài trong chúng cho gỗ
quý (gõ - Sindora tonkinensis, lim
xanh - Erythrofeum fordii, kiền
kiền - Hopea pierrai, chò chỉ -
Parashorea stellota, táu - Vitica
sp., ), các loài khác cho tinh dầu,
làm thuốc, cây cảnh và một số
loài là nguồn gen quý hiếm.

Thảm thực vật ở vùng Ba Tơ - Đức
Phổ không những chỉ có giá trị về
kinh tế mà còn là rừng đầu nguồn
có vai trò điều tiết nước cho sông
Vệ, đập thủy điện Thạch Nham,
đảm bảo giao thông đường thủy
cho đồng bào dân tộc vùng cao.

Nhận thức được những giá trị của
rừng, chính quyền và nhân dân các
huyện Ba Tơ, Đức Phổ đã và đang
tiến hành bảo vệ các khu rừng già,
rừng tái sinh, trồng thêm rừng
phòng hộ, phủ xanh các vùng đất
trống đồi núi trọc và các vùng cát

ven Biển Đông. Đó là những việc
làm rất thiết thực, cần phải tăng
cường nhằm góp phần bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ nguồn
gen đa dạng sinh học và b
ảo vệ môi
trường sống.




×