Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Thực hiện kế hoạch đào tạo ngành học Lịch Sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 186 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
DỰ ÁN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN THCS - LOAN No1718-VIE (SF)

HOÀNG ANH KHIÊM
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO
NGÀNH HỌC LỊCH SỬ
(Sách trợ giúp giảng viên CĐSP)
2
NHÀ XT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ NỘI 2007

PHẦN MỞ ĐẦU
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HIỆN ĐẠI


“Hãy dạy làm sao để học sinh cảm thấy những điều được học như
một phần thưởng quý giá chứ không như một nhiệm vụ ngán ngẩm”
Albert Einstein
Đổi mới căn bản các hoạt động giáo dục hiện nay là một yêu cầu cấp thiết trong
xu thế hội nhập, phát triển. Sự đổi mới toàn diện về nội dung chương trình, đội ngũ
giảng dạy, phương pháp, kỹ thuật và phương thức tư duy của người học là một cuộc
cách mạng của ngành giáo dục nhằm đáp ứng những đòi hỏi của đất nước trong bối
cảnh mới của thời đại. Đó là một thời đại với sự thay đổi lớn lao về tri thức về hình
thức và nội dung, về ý nghóa tri thức, về trách nhiệm của tri thức và về những đặc
điểm của con người có giáo dục.
“Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” vẫn luôn là trọng tâm của sự đổi mới
phương pháp dạy học hiện đại
1
. Ở nước ta từ thập niên 60 của thế kỷ XX đã thực


hiện nguyên lý “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với xã hội” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực chất, quan điểm “Dạy
học lấy học sinh làm trung tâm” cũng đã được xác đònh từ các thập niên 70, 80, 90
và đến năm 2000 đã chính thức trở thành chủ trương của nhà nước
1
Quan điểm dạy học tích cực này đã được đề ra từ thế kỷ XVIII với tư tưởng của J.J.Rousseau (trào lưu “Triết học nh
sáng”) ở châu u và ảnh hưởng sâu rộng đến các nhà khoa học thế kỷ XIX.
3
(NQ40/2000/QH10). Đó là quan điểm “thày chủ đạo, trò chủ động” hay “dạy học
phát huy tính tích cực của học sinh”. Vấn đề là bằng cách nào gắn được những lý
luận hết sức đúng đắn đó vào thực trạng nền giáo dục hiện nay ở tất cả các bậc học.
Ngay từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu giáo dục đã
nêu ra những vấn đề bất cập về vò trí, vai trò của khoa học xã hội trong lónh vực
giáo dục – đào tạo: từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng cho đến nay, đa số
học sinh, sinh viên thích các ngành khoa học kó thuật, khoa học tự nhiên hơn khoa
học xã hội. Chỉ có một số ngành của khoa học xã hội liên quan đến kinh tế, đối
ngoại như thương nghiệp, kinh tế kế hoạch, quan hệ quốc tế, ngoại giao… được sinh
viên quan tâm. Còn các ngành như kinh tế chính trò học, chủ nghóa xã hội khoa học,
triết học thì chưa thu hút được học sinh, sinh viên vì chưa thực sự đổi mới chương
trình và đội ngũ giảng dạy các ngành khoa học xã hội còn khá bảo thủ, ảnh hưởng
của một giai đoạn dài của thời kỳ bao cấp, duy ý chí. Chúng ta muốn hình thành
nhân cách xã hội chủ nghóa nhưng uy tín của khoa học lý luận đang giảm sút, thiếu
bổ sung, còn nặng tính hàn lâm, giáo điều và minh họa. Thậm chí, theo một số nhà
nghiên cứu thì thực trạng khoa học xã hội hiện nay đã là một vấn đề trầm trọng.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, xã hội đòi hỏi bức xúc về cải cách chính trò, cải cách
hành chính nhưng trong các hệ thống trường học lại ngán ngại môn học chính trò, và
khoa học xã hội nói chung. Khoa học lòch sử và văn học cũng nằm trong bối cảnh
chung đó. Trong thực tế hiện nay, vò trí bộ môn lòch sử ở bậc học phổ thông, chế độ
tuyển sinh và chính sách ngành nghề đối với các ngành khoa học xã hội cũng tác
động không nhỏ đến việc xác đònh mục đích, động cơ học tập và chất lượng đào tạo

của đa số học sinh, sinh viên…
Dư luận, báo chí một vài năm gần đây cũng đã có những diễn đàn bày tỏ sự quan
ngại về chất lượng dạy và học lòch sử nhất là về lòch sử dân tộc của học sinh, sinh
viên ở tất cả các bậc học. Thế hệ trẻ ngày nay tự khẳng đònh mình bằng tri thức thời
đại và nền văn hoá dân tộc, song còn nhiều hạn chế về phương pháp tư duy trừu
tượng mang tính sáng tạo, khám phá. Sinh viên cần biến những tri thức hàn lâm sách
vở, kiến thức thời đại thành vốn tri thức của riêng mình mà không phải chỉ là sự sao
chép, thừa hưởng. Hiểu sâu, biết rộng những kiến thức lòch sử và kỹ năng vận dụng
vào thực tiễn phải là nhu cầu tự thân của tuổi trẻ trong hành trang vào đời. Nhà
trường, các thày cô giáo cần phải khắc phục những nhược điểm của phương pháp
dạy học truyền thống để rèn luyện cho học sinh phương pháp tư duy độc lập, năng
lực trí tuệ và sự say mê sáng tạo. Những trở lực lớn trong phạm vi rộng hiện nay về
môi trường làm việc tập thể đó là tính hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm và ý
thức tự giác - một ý thức mới trong hội nhập và phát triển. Những giá trò ảo, bệnh
4
thành tích, sự níu kéo lẫn nhau, chủ nghóa bình quân… trong công tác quản lý, trong
dạy và học hiện nay đang là một trở lực vô hình và rất nguy hiểm. Một “sức ì” khá
phổ biến trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay là sinh viên rất ngại phát biểu
(hoặc không muốn là người phát biểu đầu tiên) trong các vấn đề xêmina (seminar).
Giảng viên cũng cần có biện pháp tình thế hoặc xem lại cách nêu vấn đề của mình
đã phù hợp, lôi cuốn, hấp dẫn sinh viên chưa. Đội ngũ giảng viên lòch sử cũng cần
phải biết vượt qua sự bảo thủ của chính mình và những hạn chế của phương pháp
dạy học truyền thống. Xã hội văn minh ngày nay chính là xã hội của những con
người tự giác – theo nghóa rộng, do những con người tự giác tạo ra.
Đối với các trường đại học, cao đẳng bản chất hoạt động dạy và học là hoạt động
nhận thức đặc biệt mang tính chất nghiên cứu của sinh viên dưới sự hướng dẫn của
giảng viên. Sinh viên phải là chủ thể của hoạt động nhận thức – huy động ở mức cao
nhất tiềm năng, vốn sống để chiếm lónh tri thức, kỹ năng. Trong quá trình đó, sinh
viên không chỉ tái tạo lại tri thức mà còn tìm kiếm tri thức mới. Với những hoạt
động dạy – học tương tác và hệ thống các phương pháp tích cực, sinh viên sẽ được

học và tìm kiếm tri thức, kỹ năng trong điều kiện sư phạm.
Đổi mới phương pháp dạy học lòch sử theo hướng tích cực (active method) ở các
trường Cao đẳng sư phạm, Đại học sư phạm là sự vận dụng, tích hợp các lý thuyết
dạy học hiện đại với hệ thống các phương pháp tích cực và có sự trợ giúp của công
nghệ mới. Muốn vậy, cần đổi mới nhận thức về 4 nhiệm vụ dạy học của hệ đào tạo
sư phạm hiện nay đối với ngành học lòch sử: dạy tri thức khoa học lòch sử, dạy kỹ
năng dạy học bộ môn lòch sử; dạy phương pháp lưu trữ, xử lý thông tin, sử dụng
thông tin và phương pháp nghiên cứu khoa học lòch sử…; hình thành thái độ, thế giới
quan khoa học, đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên. Các nhiệm vụ dạy học này phụ
thuộc vào sự đổi mới, hoàn thiện 4 yếu tố trong cấu trúc hoạt động dạy - học tương
tác: chương trình, giáo trình; giảng viên; phương tiện, thiết bò dạy học hiện đại và
sinh viên. Trong đó, giảng viên, sinh viên là hai yếu tố chính (hai yếu tố động) các
yếu tố khác chỉ trở nên có ý nghóa khi đặt trong tác động tương hỗ của hai yếu tố này
vì nó đònh hướng cho những tác động của giảng viên và những đáp ứng của sinh viên
trong suốt quá trình học tập.
Tuy còn nhiều vấn đề bất cập, song điều kiện quyết đònh và quan trọng hàng đầu
trong công cuộc đổi mới hiện nay vẫn là sự tự hoàn thiện đổi mới của giảng viên.
Giảng viên phải được hoàn thiện chu đáo để thích ứng với những thay đổi chức năng,
với những nhiệm vụ đa dạng phức tạp của hướng dạy học theo phương pháp tích cực
và có tâm huyết với công cuộc đổi mới giáo dụ. Giảng viên phải thực sự có tri thức
khoa học sâu rộng về chuyên môn, có trình độ nghiệp vụ tiên tiến để có được sự ứng
5
xử tinh tế trong mọi tình huống.Ngoài sứ mệnh của khoa học xã hội là ngành khoa
học dẫn đường, khoa học lòch sử nói riêng còn có ý nghóa to lớn trong giáo dục
truyền thống và những giá trò nhân văn cao quý.Chính tri thức khoa học sâu rộng của
giảng viên sẽ quyết đònh phương pháp khoa học trong giảng dạy, truyền thụ tri thức.
Trong thời đại bùng nổ thông tin và cách mạng khoa học – công nghệ, giảng viên
cũng cần phải có khả năng nhất đònh về ngoại ngữ, tin học để khai thác, cập nhật
thông tin khoa học và các nguồn tư liệu phong phú trên mạng internet, làm chủ được
các phương tiện công nghệ thông tin, thiết bò hiện đại, vận dụng sáng tạo trong giảng

dạy.
Mục tiêu chính của kế hoạch đào tạo ở cao đẳng, đại học ngành sư phạm không
phải là thông tin lại toàn bộ tri thức lòch sử nói chung mà là truyền thụ các vấn đề,
chuyên đề lòch sử mang tính khoa học của chương trình đồng tâm. Đó là các vấn đề
về phương pháp luận sử học, những quy luật phát triển của lòch sử xã hội, phương
pháp tư duy và những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết… Chính vì vậy, trong quá trình
giảng dạy chương trình, giáo trình lòch sử cần phải được tinh giản vững chắc, phải
chủ động, dày công thiết kế các kòch bản dạy học, tạo điều kiện cho thày, trò tổ chức
những hoạt động học tập tích cực mà không cắt xén chương trình, dạy dồn, dạy ép
hoặc thường xuyên bò “cháy giáo án”. Nhóm phương pháp thuyết giảng và lượng tri
thức khoa học của giáo trình, sách giáo khoa là mặt mạnh của khoa học xã hội song
cần giảm bớt những thông tin áp đặt buộc sinh viên phải thừa nhận và ghi nhớ máy
móc. Với cách dạy theo vấn đề, trong một ý nghóa nhất đònh, giáo trình sẽ chỉ còn
chức năng lưu trữ hệ thống các dữ liệu tra cứu. Giảng viên nên tăng cường các bài
tập nhận thức về phương pháp luận sử học, giảm bớt những câu hỏi tái hiện lòch sử,
tăng cường các câu hỏi phát triển thông minh, giảm bớt những kết luận áp đặt và
tăng cường phương pháp gợi mở để sinh viên tự nghiên cứu phát triển bài học.
Trong thực tế không có hai cách lựa chọn phương pháp dạy học giống nhau và
cũng không có hai phong cách giảng dạy giống nhau. Ngành tâm lý học sư phạm có
rất nhiều lý thuyết học tập khác nhau như “thuyết hành vi”, “thuyết nhận thức”,
“thuyết kiến tạo”, “thuyết tự lập”… Mỗi lý thuyết đều có những ưu điểm và giới hạn
riêng. Các nhà khoa học ngày nay không tìm kiếm một lý thuyết tổng quát toàn
năng mà xu hướng chung là chỉ xây dựng những mô hình riêng lẻ cho từng chuyên
ngành từng chuyên đề khoa học. Đó là việc vận dụng kết hợp một cách thích hợp
các lý thuyết học tập khác nhau với sự trợ giúp của công nghệ mới nhằm đáp ứng
những yêu cầu của cơ chế học tập. Chính vì vậy, những phương pháp, giải pháp nêu
ra trong các phân môn, học phần lòch sử trong tài liệu này chỉ mang tính minh họa,
gợi ý để cùng tìm ra các hình thức dạy học tốt nhất, hiệu quả nhất.
6
Phương pháp dạy học đối với khoa học lòch sử ở bậc cao đẳng, đại học thích hợp

nhất là dạy học theo vấn đề lòch sử và theo các chuyên đề khoa học. Điều kiện tiên
quyết là xác đònh được những vấn đề trọng tâm, bao trùm hết được các mục tiêu đào
tạo về nội dung, kỹ năng… trong từng phân môn, học phần và từ đó lập ra kế hoạch
thực hiện. Hệ thống các phương pháp hiện đại sẽ là sự kết hợp linh hoạt giữa các
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp diễn giảng, phương pháp xêmina, phương
pháp điều phối, phương pháp dự án (project method hoặc project based learning)…
và sẽ đặc biệt có hiệu quả khi kết hợp với các phương tiện dạy học hiện đại. Các
phương pháp này có khả năng vận dụng và tích hợp nhiều lý thuyết học tập khác
nhau. Yếu tố tích cực là cách dạy học giải quyết vấn đề, dạy học đònh hướng hành
động, dạy học khám phá

và làm việc theo nhóm (thuyết nhận thức). Giảng viên giữ
vai trò “người điều phối“ (một ứng dụng lý thuyết kiến tạo) tổ chức sự tương tác
giữa sinh viên và đối tượng học tập, giúp sinh viên xây dựng thông tin mới vào cấu
trúc tư duy đã được sinh viên tự điều chỉnh. Sinh viên học không chỉ là khám phá mà
còn là sự giải thích, cấu trúc mới tri thức
2
(thuyết tự lập). Các phương pháp nhỏ như
“tia chớp”, “philip xyz”, “công não”, “bể cá”… là những giải pháp tình huống để
thay đổi động hình và kích thích tư duy người học nhằm tập trung sự chú ý vào nội
dung chính. Các thể loại phương pháp này tuỳ thuộc vào sự vận dụng linh hoạt, sáng
tạo của giảng viên và sẽ có hiệu quả cao trong việc phát huy trí lực sinh viên.
Cơ sở lựa chọn phương pháp dạy học trên phải căn cứ vào bản chất công việc
hoặc tài liệu sẽ học, bản chất mục tiêu học tập cần đạt đến, khả năng, năng lực của
sinh viên và khả năng, kiến thức của giảng viên cùng các nguồn lực sẵn có (thời
gian, nguồn tư liệu, thiết bò, phương tiện multimedia có thể sử dụng để phát huy hiệu
quả nhất…)
Khi lựa chọn phương pháp cần kết hợp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau sao
cho sinh viên được tham gia nhiều nhất trong các hoạt động nhận thức. Sinh viên
phải được tự học ít nhất 30% học phần hoặc các môn học (giảng viên cần hướng dẫn

chu đáo phương pháp tự học, sinh viên nắm được nhiệm vụ và cách học, giảng viên
cũng cần có các biện pháp để kiểm tra chất lượng nội dung tự học một các thiết
thực…); sắp xếp sao cho trong một bài giảng lòch sử thời lượng giảng viên diễn giảng
là ít nhất. Với hệ thống các phương pháp dạy học hiện đại giảng viên cần thử
nghiệm nhiều kó thuật khác nhau.
Phương pháp dạy học theo vấn đề, theo từng chuyên đề giúp sinh viên ghi nhớ sự
kiện, nhân vật, đòa danh con số, ngày tháng (sẽ là rất nhiều)… một cách khoa học,
2
Việc dạy học nhằm phát triển tư duy, giải quyết vấn đề. Dạy học khám phá đòi hỏi nhiều thời gian, đòi hỏi cao ở sự chuẩn
bò cũng như năng lực của giảng viên. Cấu trúc quá trình tư duy không quan sát trực tiếp được nên chỉ mang tính giả thuyết.
7
logic và vận dụng đúng vò trí, vai trò của chúng trong từng nội dung, từng vấn đề.
Sinh viên không chỉ thuộc sự kiện, hiện tượng lòch sử mà còn hiểu sâu sắc quy luật
phát triển mang tính toàn cục của các vấn đề, các giai đoạn lòch sử. Trong quá trình
truyền thụ sinh động các nội dung khoa học, giảng viên phải đònh hướng được sự
phát triển của sinh viên theo mục tiêu giáo dục. Đồng thời cũng phải đảm bảo được
sự tự do của sinh viên trong các hoạt động nhận thức. Các phương pháp giảng dạy
theo vấn đề, chuyên đề trong các phần phương pháp đào tạo cho một số học phần cụ
thể trong sách này cũng được biên soạn theo hướng mở để giảng viên có thể sáng
tạo lựa chọn các phương pháp nhỏ giải quyết vấn đề lòch sử một cách tốt nhất, phù
hợp nhất và hiệu quả nhất tuỳ theo từng điều kiện hoàn cảnh, đối tượng sinh viên.
Theo nguyên lý: thày say mê khoa học, trò tiếp nhận tri thức một cách hứng thú,
thông minh, sáng tạo, chủ động thì phương pháp tích cực mới xảy ra. Một giờ học
thành công là giờ học duy trì được sự hào hứng trong suốt quá trình dạy và học.
Muốn vậy, trong mọi hoàn cảnh phải tạo được môi trường tương tác (thuyết kiến tạo)
giữa giảng viên và sinh viên, giữa khối lượng tri thức và phương tiện, thiết bò có thể
có được. Ngay từ đầu giảng viên phải khơi dậy được sự hứng thú, ham muốn hiểu
biết ở sinh viên về các vấn đề lòch sử, nội dung khoa học vừa được đặt ra. Giảng
viên nêu rõ cái đích học tập cần phải đạt được để sinh viên nhìn thấy ý nghóa của
việc học, cách thức và điều kiện cần sử dụng và những giai đoạn học phải trải qua.

Các bước lên lớp (không nhất thiết phải theo 5 bước một cách máy móc) giảng
viên tiến hành bài giảng theo logic của trình tự phương pháp nêu vấn đề, sử dụng
các kỹ thuật minh hoạ, mô phỏng, hệ thống hoá, khắc sâu những vấn đề quan trọng,
kết luận, chuyển tiếp… Trong suốt giờ học, giảng viên buộc sinh viên tham gia bài
học bằng hệ thống câu hỏi, tham gia thảo luận hoặc thuyết trình trên bảng… Giảng
viên phải duy trì được kết cấu bài giảng, tốt nhất là tóm tắt được nội dung bài giảng
trên bảng, nếu có điều kiện trên màn hình với các kỹ thuật máy chiếu overhaed
hoặc slideshow project. Cuối cùng giảng viên phải gây được niềm tin vững chắc vào
tri thức khoa học, thông thái, nhiệt tình đối với sinh viên trong suốt bài giảng. Giảng
viên thể hiện những ý đònh này ở trong kế hoạch dạy học bộ môn và kế hoạch bài
học. Điều kiện tiên quyết là giảng viên phải chuẩn bò tốt về kiến thức, tài liệu, các
kênh tư liệu, thiết bò cần thiết và phù hợp. Sau mỗi tiết học cần nắm được những
thông tin phản hồi từ lớp học về chất lượng tri thức và kỹ năng của sinh viên. Cuối
cùng điều không thể thiếu là sự tự tin của giảng viên và phải hết sức nhiệt tình với
phương pháp của mình.
LOGIC HOẠT ĐỘNG DẠY LOGIC HOẠT ĐỘNG HỌC
8
1- Kích thích hứng thú học tập, nêu vđ
2- Tổ chức hoạt động học của sinh viên
3- Hợp tác - giúp đỡ
4- Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh
1- Hứng thú học tập - học tích cực xảy ra
2- Tham gia tích cực vào hoạt động học
3- Chòu trách nhiệm đến cùng việc học
4- Tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh
Bài học kinh nghiệm Bài học kỹ năng
Phương tiện dạy học hiện đại (multimedia) không phải là giải pháp toàn năng và
cũng không phải là phương pháp dạy học hiện đại, nhưng hành động sử dụng những
phương tiện dạy học này lại là hành động phương pháp.
ng dụng multimedia trong các hoạt động dạy học đang là xu hướng mới tích cực

trong việc phát huy trí lực học sinh, sinh viên. Đó là một hệ thống kỹ thuật dùng để
trình diễn các dữ liệu và thông tin, sử dụng đồng thời các hình thức chữ viết, âm
thanh, hình ảnh, động hình, film, vidéo clip, các hiệu ứng… qua hệ thống computer,
trong đó tạo khả năng tương tác giữa người sử dụng và hệ thống. Từ đó khả năng
tương tác giữa hoạt động dạy và hoạt động học có hiệu quả cao
3
.
Học tập với đa phương tiện theo nghóa rộng cũng là sự sử dụng kết hợp những
phương tiện truyền thống như giáo trình, sách giáo khoa, phấn trắng bảng đen (có
thể thay bảng mica để tiện trình chiếu), máy chiếu bản phim trong (overhaed), máy
chiếu vật thể, phim và các phương tiện nghe - nhìn khác.
Trước mắt, sử dụng multimedia trong giảng dạy đã khắc phục được tình trạng
dạy “chay” phổ biến, phụ thuộc hoàn toàn vào “chữ viết” và phương pháp “thuyết
giảng” truyền thống hiện nay. Phương tiện hiện đại cho phép thể hiện linh hoạt
những kênh thông tin khoa học phong phú như phim khoa học, ảnh tư liệu, bản đồ,
video clip minh họa, mô phỏng thực tế, những hiệu ứng động… khiến bài giảng rất
hấp dẫn, sinh động và đã được học sinh, sinh viên tiếp nhận hào hứng. Một lợi ích
đáng kể nữa đó là tiết kiệm được thời gian giảng viên phải trình bày bảng, kẻ vẽ,
treo bản đồ, mô phỏng, miêu tả… và thời gian cho các hoạt động tương tác có được
nhiều hơn. Tuy nhiên, giảng viên phải đầu tư nhiều công sức, thời gian thiết kế các
slide show trình diễn. Thông thường, nếu thiếu kinh nghiệm thì cũng khó tránh được
tình trạng lạm dụng kỹ thuật, các hiệu ứng âm thanh, hình ảnh, font chữ, màu nền
3
Ở các nước tiên tiến, văn hoá nghe nhìn cũng cạnh tranh với văn hoá đọc. Nền công nghiệp xuất bản sách giáo khoa cũng
kìm hãm sự phát triển của giáo dục điện tử. Theo kinh nghiệm Mỹ, giải pháp hợp lý và hiệu quả nhất là kết hợp phương
pháp tryền thống với hiện đại. Hiện thực ảo trong giáo dục cho phép gia tăng tới 20% năng lực trí tuệ của học sinh. Tuy vậy,
nhân tố quan trọng nhất vẫn là thày giáo – yếu tố không máy móc nào có thể thay thế được
9
Anytime Anybody
Anywhere

thiếu hài hoà, chưa đảm bảo tính sư phạm, kết cấu hệ thống bài giảng tản mạn hoặc
thiếu thẩm mỹ nghệ thuật…
Phòng Bộ môn là một giải pháp bước đầu hết sức quan trọng trong việc ứng dụng
multimedia. Các khoa, các tổ bộ môn cần được lãnh đạo nhà trường đầu tư thỏa đáng
về phòng ốc, thiết bò nghe, nhìn hiện đại. Tối thiểu cũng phải có một máy tính nối
mạng, máy chiếu (projecter), amply, loa, màn hình… Phòng Bộ môn sẽ là nơi lưu trữ,
xử lý thông tin khoa học và thuyết trình, hội thảo các vấn đề khoa học. Trong tương
lai cần số hoá chương trình, giáo trình, đồng bộ cơ sở dữ liệu khoa học, đồng bộ các
phương tiện thiết bò, tiến tới dạy học sử dụng mạng điện tử e-Learning với các hình
thức dạy học kết hợp sử dụng mạng thông tin điện tử (mạng nội bộ hoặc internet), sử
dụng đa phương tiện để trình bày các thông tin khoa học và tổ chức các hoạt động
dạy - học tương tác. Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, mạng thông tin điện tử với
giáo trình điện tử các chương trình dạy học, thư viện điện tử… đã được xây dựng như
một cổng hành chính quốc gia (gateway) cho phép hoạt động dạy và học áp dụng
mọi thời gian (anytime), cho mọi người (anybody), khắp nơi (anywhere) một cách
thuận tiện.
Cùng với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành giáo dục-đào tạo một
số tỉnh đã đònh hướng sẽ đưa CNTT vào ứng dụng rộng rãi trong mọi hoạt động dạy,
học và quản lý của ngành trong giai đoạn 2006-2010. Xây dựng mô hình trường điện
tử ở các cấp học, ngành học. Các trường đều đã có website riêng. Mạng e-Learning
và Internet ADSL sẽ kết nối, phủ kín tại các cơ sở ngành giáo dục-đào tạo. Trước
hết, các cơ sở của ngành cần hoàn thiện hạ tầng cơ sở đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế,
sử dụng được công nghệ cao và thông dụng nhất. Tất cả các phòng học đều được
trang bò hệ thống máy tính và màn hình (tốt nhất là bảng điện tử và màn hình plasma
monitor từ 42” trở lên), trang bò hệ thống các phương tiện multimedia nghe, nhìn,
nghe - nhìn với hệ thống máy chiếu Projecter, Projection monitor, laptop, hệ thống
truy cập internet không dây, hệ thống thẻ từ (ID card), hệ thống camera quan sát
phục vụ quản lý và giảng dạy… Chương trình, nội dung giảng dạy sẽ được số hoá
trên mạng e-Learning, mạng nội bộ, cải tiến phương pháp, hình thức trên nền công
nghệ thông tin và truyền thông; thay đổi phương thức học tập của học sinh, sinh viên

như học trên mạng, học với thư viện điện tư.û
Hiện nay ở một số tỉnh như Đà Nẵng, tp Hồ Chí Minh, Bà Ròa-Vũng Tàu, Đồng
Nai… một số trường (kể cả ngoài công lập), đã chứng tỏ năng lực hội nhập trong lónh
vực công nghệ thông tin và truyền thông đã đầu tư hàng trăm máy tính nối mạng với
mạng cục bộ hỗn hợp tốc độ 1 Gbps và 100 Mbps đường truyền ADSL. Có trường đã
thiết lập webserver riêng với dòch vụ DNS động qua băng thông ADSL và các
10
mailserver sử dụng phần mềm Kerio của Mozilla… Tất cả các tác nghiệp quản lý,
giảng dạy đã được thực thi với những cơ sở dữ liệu chính xác.
Phương pháp dự án (project method & project-based learning) là một phương
pháp mới. Thực chất dạy học theo dự án đã được áp dụng trong các hình thức hướng
dẫn sinh viên làm tiểu luận hoặc khoá luận, luận án tốt nghiệp từ trước đến nay. Vấn
đề mới ở đây là có thể vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong mọi học
phần, mọi phân môn của chương trình đào tạo.
Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học hiện đại. Đây là một phương pháp
vận dụng thuyết tự lập và là cách sinh viên tự học tốt nhất. Dự án là một nhiệm vụ
học tập phức hợp nhằm giải quyết một nội dung, một vấn đề quan trọng hay một giai
đoạn lòch sử. Với sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên sẽ tự lực gắn lý luận với
thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá
kết quả công việc. Hình thức chủ yếu là làm việc theo nhóm, kết quả dự án sẽ là
những sản phẩm hành động (có thể là một đề tài, một chương trình lòch sử được số
hoá hay là những sơ đồ, biểu đồ, sa bàn lòch sử… ) có thể giới thiệu, trình diễn được.
Về phương pháp kiểm tra, đánh giá:
Thông thường, các hình thức thi, kiểm tra, đánh giá như hiện nay sẽ quyết đònh
cách học, cách dạy theo kiểu truyền thụ một chiều. Để đổi mới phương pháp kiểm
tra đánh giá cần tiến hành từng bước theo cách dạy tích cực. Hiện tại vẫn phải duy
trì các hình thức bài kiểm tra như: kiểm tra viết gồm bài tự luận, bài tập nhận thức,
kiểm tra vấn đáp và gần đây, thêm hình thức thi trắc nghiệm khách quan…
Dù áp dụng hình thức kiểm tra, đánh giá nào khi ra đề cũng phải chú ý đề ra các
mục đích, yêu cầu cụ thể như:

- Kiểm tra cả quá trình và kết quả học tập các học phần lòch sử.
- Kiểm tra nhằm phát hiện lỗi để sửa chữa hơn là để xếp loại sinh viên
- Kiểm tra sự giải thích và ứng dụng khái niệm khoa học, kiến thức lòch sử hơn
là nhớ lại khái niệm, sự kiện lòch sử.
- Kiểm tra và đánh giá để mở ra một qui trình dạy học mới chứ không chỉ kết
thúc một qui trình dạy học đã thực hiện và cũng là một hình thức tự học của sinh
viên.
- Hướng đến tự kiểm tra và tự đánh giá của sinh viên.
Ngân hàng đề thi : Các khoa hoặc phòng Đào tạo nên xây dựng nhiều bộ đề thi
cho các môn học hoặc học phần. Khi thi học kỳ, Phòng Đào tạo sẽ chọn các bộ đề
ngẫu nhiên để đảm bảo tính khách quan trong đánh giá kết quả giảng dạy, học tập.
Đề thi tự luận nên thêm nhiều dạng “đề mở”, sinh viên được sử dụng tài liệu,
giáo trình làm bài nhưng với những yêu cầu cao về mục tiêu đào tạo, phù hợp về
11
đònh lượng, đònh tính kiến thức, thời lượng làm bài. Đặc biệt là đánh giá được khả
năng sáng tạo trong diễn đạt, trình bày và nhất là khả năng khái quát tổng hợp theo
từng vấn đề, từng chuyên đề lòch sử. Sinh viên không chỉ nắm được những nội dung
đơn lẻ của sự kiện, khái niệm mà nắm được toàn cục của các vấn đề lòch sử. Biểu
điểm chấm nên cấu trúc theo mặt bằng chung về chất lượng học tập và có những
yêu cầu cao về nội dung phân loại.
Ví dụ về một dạng “đề mở” (thời gian 90’):
“Đảng ta ra đời là sự kết hợp giữa ba yếu tố: chủ nghóa Mác-Lênin, phong trào
yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là hiện thân của sự kết hợp đó và là người thực hiện sự
kết hợp đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.”
Bằng những sự kiện lòch sử từ 1911 đến 1930 anh (hay chò) hãy chứng minh nhận
đònh trên.
Kiểm tra bằng phương pháp “trắc nghiệm khách quan”:
- Trắc nghiệm là một dạng trong nhiều dạng đặc biệt của đánh giá. Một bài trắc
nghiệm thường bao gồm tập hợp các câu hỏi được đặt ra cho tất cả các học sinh làm

trong một khoảng thời gian cố đònh với một số điều kiện tương đối nào đó.
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan có yêu cầu rất cao đối với việc xây dựng 1 bộ
đề với các thể loại đơn tuyến, song tuyến và đa tuyến. Câu hỏi phải đầu tư nhiều
thời gian và công sức nhưng cần tránh các câu quá đơn giản hoặc quá dài, phức tạp.
Tránh các câu phát biểu có hai ý tưởng, trừ phi đo lường khả năng sinh viên nhận ra
mối quan hệ nhân quả của sự vật, hiện tượng.
- Số lượng, độ khó của các câu hỏi và thời gian làm bài tuỳ thuộc vào yêu cầu
kiểm tra đánh giá của từng học phần. Kiểu nhận dạng câu thể hiện ý kiến đúng nên
dựa vào một cơ sở suy luận kiến thức thật chính xác nhưng không mang tính đánh đố
hoặc chỉ kiểm tra sự ghi nhớ máy móc. Trong phần đáp án a, b, c, d, e… nên có
khoảng 3 - 4 đáp án gần đúng, không nên có đáp án sinh viên dễ dàng loại trừ.
- Hình thức thi trắc nghiệm khách quan chỉ nên vận dụng thử nghiệm khoảng 30%
trong toàn bộ chương trình các học phần các phân môn. Cần hạn chế những câu hỏi
chỉ kiểm tra được việc ghi nhớ con số, sự kiện hoặc những kiến thức từ chương, sách
vở mà chủ yếu là kiểm tra được khả năng phân tích, suy luận, vận dụng kiến thức
lòch sử vào thực tiễn. Hình thức Hội thi nghiệp vụ sư phạm với việc kiểm tra kiến
thức tổng hợp vận dụng trắc nghiệm khách quan là phù hợp nhất. Nên tổ chức
thường xuyên các hình thức show games, tạo các sân chơi trí tuệ cho sinh viên mô
phỏng theo các chương trình truyền hình Việt Nam và thế giới. Nếu có phòng máy
12
tính nối mạng nên thiết kế các bộ đề có khả năng thay đổi thứ tự các câu hỏi cho
từng thí sinh và thiết kế chương trình máy tính để có thể chấm bài tự động.
Đánh giá là một thuật ngữ chung bao gồm các qui trình đầy đủ dùng để thu thập
thông tin về việc học của học sinh (chẳng hạn quan sát, xếp hạng, hay các bài kiểm
tra viết) và sự hình thành các phán đoán giá trò có liên quan đến sự tiến triển của
việc học tập.
Tóm lại, trong lý luận dạy học tích cực, để hoàn thiện 4 cấu trúc hoạt động dạy
học và 4 nhiệm vụ dạy học ở bậc đại học, cao đẳng thì nhà trường nhất là các hệ đào
tạo sư phạm phải từng bước tự chủ hoàn thiện nội dung chương trình đào tạo, môi
trường sư phạm và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Quan trọng hơn, giảng viên đại

học, cao đẳng phải tự hoàn thiện, dám nghó, dám làm, năng động, sáng tạo trong
từng chuyên môn của mình để trong mọi hoàn cảnh phải phấn đấu sao cho mỗi tiết
học bình thường, sinh viên được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo
luận nhiều hơn và quan trọng hơn là được suy nghó nhiều hơn trên con đường chiếm
lónh nội dung học tập.
Cuối cùng, phương châm đổi mới phương pháp dạy học chính là việc đơn giản
hoá các vấn đề phức tạp. Kiến thức nào cũng cần cũng quan trọng song phải chọn
lọc và trở thành nhu cầu hiểu biết thực sự với từng đối tượng sinh viên. Cái mới của
phương pháp là dạy ít nhưng học nhiều và chuyên sâu. Giảng viên phải coi sinh viên
như là những đối tác và được đối thoại, đề xuất yêu cầu trong quá trình truyền thụ,
tiếp nhận tri thức. Sinh viên cần được giảng viên khơi gợi sự ham muốn hiểu biết
khoa học và được hướng dẫn phương pháp để chiếm lónh tri thức - biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo.

13
PHAÀN II
14
KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO MÔN HỌC HOẶC HỌC PHẦN
PHẦN CỨNG
1. Tên học phần : NHẬP MÔN SỬ HỌC
2. Mã số : CĐCM (Sử) 01
3. Thời lượng : 2 (24,6)
4. Mục tiêu :
* Về kiến thức:
Nắm được - Những quan điểm chủ nghóa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về những vấn đề cơ bản có liên quan việc học tập, nghiên cứu lòch sử ở Cao Đẳng Sư
Phạm.
- Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ của khoa học lòch sử.
- Sơ lược lòch sử, khoa học lòch sử (Việt Nam – chủ yếu và thế giới).
- Phương pháp học tập và nghiên cứu lòch sử ở CĐSP.

* Về tư tưởng :
- Nhận thức đúng đắn về Lòch sử với tư cách là một khoa học, về vai trò, ý nghóa
của môn Lòch sử trong công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ.
- Vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghóa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào học tập, nghiên cứu và giảng dạy Lòch sử.
- Xác đònh thái độ đúng, đổi mới phương pháp khoa học trong nghiên cứu, học tập
để đạt chất lượng đào tạo cao.
* Về kó năng:
- Rèn luyện tư duy khoa học trong việc phân tích, khái quát, đánh giá về các vấn
đề đang học.
15
- Nâng cao khả năng thực hành trong độc lập nghiên cứu, học tập bộ môn, thông
qua các hoạt động trên lớp, ngoài trường, thực tế xã hội …
5. Chương trình chi tiết
Chương I
NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ KHOA HỌC LỊCH SỬ
(5 tiết)
1.Lòch sử là một khoa học
1.1.Về khái niệm “lòch sử” và “khoa học”.
1.2. Hiện thực lòch sử và nhận thức lòch sử. Mối quan hệ giữa hiện thực lòch sử
và nhận thức lòch sử.
1.3. Lòch sử là một khoa học, một môn học ở trường. (chủ yếu ở trường phổ
thông)
2.Đối tượng, Chức năng – Nhiệm vụ của khoa học Lòch sử.
2.1. Đối tượng sử học là gì? Các quan niệm khác nhau về đối tượng sử học. Đối
tượng sử học Mác xít.
2.2. Chức năng của sử học: Chức năng khoa học và chức năng xã hội (theo
quan điểm Mác xít- Lêninnit).
2.3. Nhiệm vụ của sử học (Chủ yếu là sử học Mác xít).
2.4. Bộ môn Lòch sử ở trường Trung học cơ sở: vai trò, ý nghóa trong đào tạo thế

hệ trẻ.
Chương II
SƠ LƯC SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC LỊCH SỬ
(4 tiết)
1. Khái quát về lòch sử sử học Việt Nam.
1.1. Về bộ môn Lòch sử khoa học lòch sử: Nội dung, ý nghóa việc học tập.
1.2. Sự phát triển của sử học Việt Nam qua các giai đoạn: bối cảnh lòch sử, các
quan điểm, phương pháp nghiên cứu và thành tựu sử học Việt Nam trước cách mạng,
sử học Mácxít – Lêninnít Việt Nam.
2. Đôi nét về lòch sử sử học thế giới.
2.1. Sử học thời cổ đại.
2.2. Sử học thời trung đại.
2.3. Sử học thời cận đại.
2.4. Sử học thời cận đại.
3. Sơ lược về việc phát triển giáo dục lòch sử ở Việt Nam.
16
3.1. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945.
3.2. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.
Chương III
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LỊCH SỬ VÀ NHẬN THỨC LỊCH SỬ
(10 tiết)
1. Chủ nghóa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh – cơ sở phương pháp luận nhận
thức lòch sử của chúng ta.
1.1. Chủ nghóa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với việc nhận thức lòch
sử.
1.2. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghóa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh được vận dụng vào công tác sử học.
2. Tính khoa học và tính đảng trong sử học Mác-xít.
2.1. Tính khoa học trong công tác sử học.

2.2. Nguyên tắc tính đảng cộng sản trong nghiên cứu lòch sử của chúng ta.
2.3. Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính đảng trong sử học Mác-xít.
3. Phương pháp lòch sử và phương pháp logic trong nghiên cứu và học tập lòch sử.
3.1. Phương pháp lòch sử và phương pháp logic: Nội dung và mối quan hệ giữa
hai phương pháp này trong nghiên cứu, dạy học lòch sử. Những sai lầm thường gặp
do vận dụng không đúng hai phương pháp này.
3.2. Vận dụng phương pháp lòch sử và phương pháp logic trong giải quyết một
số vấn đề chủ yếu trong công tác sử học. Những sai lầm mắc phải khi vận dụng
không đúng hai phương pháp lòch sử về logic.
3.2.1. Xử lý mối quan hệ giữa tài liệu sự kiện và khái quát lý luận.
3.2.2. Xử lý mối quan hệ giữa quan điểm lòch sử và quan điểm giai cấp.
Chương IV
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
(5 tiết)
1. Nhiệm vụ – Yêu cầu của việc học tập Lòch sử ở trường Cao Đẳng Sư Phạm.
1.1. Quan niệm về học tập Lòch sử ở trường CĐSP.
1.2. Những yêu cầu đối với sinh viên CĐSP.
2. Phương pháp học tập lòch sử ở CĐSP.
2.1. Trên lớp.
17
2.2. Hoạt động ngoại khóa.
2.3. Kiểm tra, đánh giá.
3. Phương pháp nghiên cứu khoa học đối với sinh viên CĐSP.
3.1. Tiến trình nghiên cứu khoa học.
3.2. Phương pháp nghiên cứu lòch sử.
6. Đánh giá
• Hình thức đánh giá:
- Hoạt động trong giờ học trên lớp và xêmina.
- Bài tập nhỏ giữa học phần, được xem là điều kiện thi hết học phần.

- Cuối học phần thi viết ( có tính đến kết quả bài tập để cộng thêm điểm).
• Tiêu chí đánh giá:
- Nắm vững các khái niệm khoa học, nội dung các vấn đề cơ bản.
- Thể hiện kiến thức và phương pháp trong học tập và nghiên cứu Lòch sử.
7. Hướng dẫn thực hiện chương trình.
- Cần cung cấp kiến thức mới, tổ chức hướng dẫn sinh viên làm việc và trao đổi
trên lớp.
- Tổ chức xêmina sau khi học một vài chương và tổng kết 6 tiết
(Chương I + II – 2 tiết; Chương III + IV – 2 tiết; Tổng kết – 2 tiết)
- Chú ý việc vận dụng kiến thức về nhập môn sử học vào việc học tập các học
phần về Lòch sử và Phương pháp dạy học Lòch sử vào làm bài tập, nghiên cứu khoa
học.
8. Tài liệu tham khảo.
1. Lê Văn Sáu, Trương Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên: Nhập môn sử học, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1986.
2. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trònh Đình Tùng: Nhập môn sử học (Giáo trình
đào tạo giáo viên Trung học cơ sở hệ Cao đẳng sư phạm), NXB Giáo dục, Hà Nội
1989.
3. Viện sử học: Sử học Việt Nam trên đường phát triển, NXB Khoa học xã hội
Hà Nội,1989.
4. N.A rơphêêp: Sử học là gì? NXB Giáo dục, Hà Nội, 1981.
5. Phan Ngọc Liên (chủ biên): Những vấn đề lòch sử trong tác phẩm Hồ Chí
Minh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000.
***
PHƯƠNG PHÁP ĐÀO TẠO
18
Nhập môn sử học gồm phần mở đầu, 4 chương và phân bố thành 2 đơn vò học
trình. Mục tiêu đào tạo đặt ra mang tính quyết đònh cho việc thành công của cả quá
trình giảng dạy, học tập và nghiên cứu các học phần, phân môn khác của toàn bộ
chương trình lòch sử. Đó là những kiến thức cơ sở, nền móng của khoa học lòch sử,

phương pháp học tập, nghiên cứu và thái độ khoa học, tình cảm nghề nghiệp cần
phải truyền thụ cho sinh viên. Kế hoạch đào tạo vì thế cũng đòi hỏi phải thực sự
khoa học, thiết thực và thu hút được sự chú ý của sinh viên. Kiến thức khoa học về
phương pháp luận, phương pháp học tập, nghiên cứu lòch sử và thái độ, tình cảm
khoa học của sinh viên sẽ còn tiếp tục được hoàn thiện trong suốt quá trình đào tạo
sau này qua nhiều học phần, phân môn.
Cách dạy theo vấn đề và kết hợp các hình thức dạy học mới sẽ đáp ứng yêu cầu
một cách hiệu quả nhất. “Nhập môn sử học” có thể khái quát qua 3 vấn đề lớn quan
hệ mật thiết với nhau:
- Kiến thức cơ bản về khoa học lòch sử.
- Quan điểm của chủ nghóa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lòch sử.
- Phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học lòch sử.
- Vấn đề thứ nhất: “Kiến thức cơ bản về khoa học lòch sử” bao gồm phần mở
đầu, chương I và chương II. Đây là sự tổng hợp của một hệ thống kiến thức của
nhiều ngành học với rất nhiều khái niệm lòch sử cơ bản, những vấn đề về lòch sử sử
học và phương pháp luận sử học. Nhiệm vụ giảng dạy sẽ rất nặng nề và khó hoàn
tất nếu chỉ áp dụng cách dạy theo từng chương mục. Ở phần này, giảng viên cần chú
ý không nên quá cầu toàn trong việc giảng giải toàn bộ hệ thống các khái niệm một
cách quá chi tiết hoặc những đi sâu vào những kiến thức quá trừu tượng về phương
pháp luận sử học.
Nhóm phương pháp thuyết trình sử dụng trong nội dung kiến thức cơ sở bao gồm
các phương pháp giảng thuật, giảng giải, giảng diễn… cần phải thực hiện linh hoạt cả
hai kiểu thuyết trình: thuyết trình thông báo – tái hiện (nên hạn chế) và thuyết trình
đặt – giải quyết vấn đề (phương pháp chủ yếu).
Thuyết trình thông báo - tái hiện, giảng giải nhằm hình thành những khái niệm cơ
sở ban đầu và những kiến thức sơ giản về phương pháp luận trong nội dung chương I.
Thuyết trình đặt – giải quyết vấn đề áp dụng trong nội dung chương II - Sơ lược
lòch sử phát triển của khoa học lòch sử - giảng viên sẽ không thông báo những tri
thức khoa học lòch sử dưới dạng có sẵn mà phục hồi (ở mức độ nhất đònh) con đường
mà các nhà sử học từ cổ đại đến ngày nay đã và đang trải qua để hoàn thiện khoa

19
học lòch sử. Giảng viên sẽ phải lần lượt nêu các vấn đề (ơrixtic) cơ bản và trình bày
cách giải quyết vấn đề, phân tích những mâu thuẫn trong từng cách giải quyết đó và
đưa ra những cách giải quyết khác hợp lý hơn, khoa học và hiệu quả hơn. Giảng viên
cũng có thể minh hoạ cụ thể về các quan điểm sử học cổ đại, phong kiến hay tư sản
để nêu bật sự ưu việt của quan điểm sử học mácxit.
Nếu kết hợp tổ chức được những hoạt động xêmina hay thảo luận nhóm nhỏ theo
những vấn đề nêu ra thì hiệu quả đạt được rất cao vì sinh viên sẽ được dẫn đắt, theo
dõi quá trình phát hiện ra chân lý khoa học và có được cảm xúc thực sự của một
người nghiên cứu khoa học.
Ví dụ: Nêu nhận đònh của F. Enghels: “Lòch sử loài người từ khi thành văn đến
ngày nay là lòch sử đấu tranh giai cấp” hoặc đánh giá về khoa học lòch sử “Trong tất
cả các khoa học, chúng tôi chỉ công nhận có một khoa học đó là khoa học lòch sử”.
Như vậy, với sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên sẽ phải vận dụng những tri thức
về khảo cổ học, khoa học tự nhiên, lòch sử, triết học… để chứng minh lòch sử là khoa
học của mọi khoa học.
Chú ý: những nội dung về phương pháp luận hay những khái niệm phức tạp (như
hình thái kinh tế – xã hội, ý thức hệ, chủ nghóa duy vật lòch sử, phương thức sản xuất
…) sẽ được sinh viên sư phạm đặc biệt quan tâm, giảng viên cần sử dụng những thuật
ngữ quen thuộc, giải thích thật kỹ những thuật ngữ mới, khái niệm mới. Chính những
vấn đề, những nội dung lòch sử phức tạp hoặc những kiến thức mang tính hàn lâm,
kinh điển, những quy luật lòch sử, cấu trúc vấn đề, mối liên hệ giữa sự kiện, hiện
tượng lòch sử, các kết luận khoa học mà sinh viên tự chiếm lónh, nắm bắt được lại
đem đến sự say mê, hứng thú trong học tập. Đó chính là chìa khoá mở ra nguồn gốc
mọi hiện tượng lòch sử và những vấn đề lớn của lòch sử.
Nội dung sinh viên tự học sẽ là những nội dung, những tiêu mục chưa có điều
kiện đi sâu phân tích và khả năng sinh viên có thể vận dụng kiến thức đã học để tự
tìm hiểu, giải quyết. Giảng viên cần hướng dẫn phương pháp nghiên cứu và thông
qua bài tập nhận thức để đánh giá, cho điểm điều kiện thi hết học phần.
- Vấn đề thứ hai: Chủ nghóa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơ sở nhận

thức lòch sử và vận dụng nghiên cứu, học tập lòch sử. Đây là nội dung trọng tâm của
toàn bộ học phần “Nhập môn sử học”. Chủ nghóa duy vật lòch sử và tư tưởng Hồ Chí
Minh sẽ là kim chỉ nam cho mọi chương trình phân môn của khoa học lòch sử.
Phương pháp thuyết trình đặt – giải quyết vấn đề sẽ là giải pháp chủ yếu để
trình bày các luận cứ lòch sử: Giảng viên cần chứng minh chủ nghóa Mác-Lênin là sự
phát triển đỉnh cao của khoa học xã hội và đề ra phương pháp khoa học nhất để
nghiên cứu, học tập lòch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu và vận dụng sáng
20
tạo chủ nghóa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam và tình
hình thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là cơ sở phương pháp luận của khoa học xã
hội với những đặc trưng mới đó là sự kết hợp tài tình chủ nghóa duy vật lòch sử với
những nhân tố duy vật và biện chứng của triết học phương Đông, kết hợp hài hoà
giữa các nhân tố hiện đại và truyền thống.
Nội dung những quan điểm chủ nghóa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được
vận dụng vào nghiên cứu, học tập lòch sử. (Sẽ cụ thể hoá trong phần hướng dẫn
phương pháp học tập, nghiên cứu lòch sử)
4
Giải quyết vấn đề lòch sử xã hội loài người là lòch sử của các phương thức sản
xuất và là lòch sử đấu tranh giai cấp, giảng viên nên dùng phương pháp sơ đồ hoá
các vấn đề lòch sử để trình bày quá trình phát triển của lòch sử qua 5 hình thái kinh tế
– xã hội. Hệ thống các sơ đồ đơn giản nhưng chứa đựng hàm lượng tri thức cao sẽ
giúp sinh viên có khả năng hệ thống, khái quát các vấn đề lòch sử và rèn luyện các
kó năng tư duy lòch sử.
Vấn đề nêu ra để giải quyết là một nội dung tổng hợp và có thể tổ chức xêmina
theo từng nhóm vấn đề như sau:
“Nội dung học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của chủ nghóa Mác-Lênin. Ý
nghóa của nó đối với việc nhận thức các thời kì lòch sử. Dẫn chứng cụ thể về phần
chương trình lòch sử thế giới, lòch sử Việt Nam đang học”.
4
Tham khảo “Những vấn đề lòch sử trong tác phẩm Hồ Chí Minh”- Gs Phan Ngọc Liên - NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội – 2006.
21
Với slideshow sơ đồ trên, giảng viên sử dụng những hiệu ứng về kênh chữ, kênh
hình, hoặc click vào các biểu tượng (icon) liên kết (hyperlink) tìm đến các trang tư
liệu khác để dẫn dắt sinh viên chứng minh các quan điểm cơ bản: lòch sử xã hội là
lòch sử sản xuất, lòch sử của các hình thái kinh tế xã hội kế tiếp nhau và lòch sử đấu
tranh giai cấp. Lòch sử diễn ra theo quy luật thông qua các hoạt động của con người.
Vai trò quần chúng và cá nhân trong lòch sử…
Hệ thống các sơ đồ có thể thiết kế theo logic, trình tự phát triển của lòch sử:
Ví dụ: Khái quát các nội dung cơ bản hai mô hình xã hội cổ đại phương Đông
và phương Tây. Giảng viên có thể dựa vào sơ đồ phân tích mối quan hệ qua lại giữa
các vấn đề để làm rõ tính hệ thống của chúng và cũng dễ dàng làm nổi rõ sự khác
biệt giữa hai mô hình này về nền tảng kinh tế, thể chế chính trò và cơ cấu xã hội:
Các hình thái kinh tế – xã hội tiếp theo sẽ là sự phát triển của kinh tế (nền sản
xuất, quan hệ sản xuất ) chi phối sự phát triển của chính trò, văn hoá, xã hội. Giảng
22
viên sẽ hướng dẫn sinh viên thiết kế các sơ đồ về hình thái kinh tế – xã hội phong
kiến, tư bản chủ nghóa, chủ nghóa tư bản hiện đại…

Dạng sơ đồ này cũng có thể giải quyết những vấn đề lòch sử trừu tượng, phức tạp
khác như cơ sở hình thành phong trào văn hoá phục hưng:
23

Hoặc trình bày về nguyên lý cách mạng vô sản:

- Vấn đề thứ ba: “Vận dụng lý luận trong học tập, nghiên cứu khoa học lòch sử”.
24
Đây chính là mục đích và yêu cầu chủ yếu của học phần “Nhập môn sử học”.
Sau khi giới thiệu khái quát toàn bộ chương IV, giảng viên xây dựng cho sinh viên
kế hoạch tự học thông qua một số dự án nhỏ và các bài tập nhận thức với các yêu

cầu cụ thể:
+ Trình bày có hệ thống các khái niệm khoa học, nội dung các vấn đề cơ bản
của phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học lòch sử.
+ Vận dụng kiến thức và phương pháp trong học tập và nghiên cứu lòch sử.
Nhận xét, đánh giá các bài tập nhận thức và tổng kết, giảng viên cần nhấn
mạnh nội dung về rèn luyện năng lực tự học, năng lực dạy học của sinh viên sau này
và đặc biệt khả năng biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
***
1. Tên học phần : KHẢO CỔ HỌC ĐẠI CƯƠNG
2. Mã số :
3. Thời lượng : 2 (24,6)
4. Mục tiêu :
* Về kiến thức
- Cung ấp cho sinh viên một số kiến thức cơ bản về khảo cổ học để minh họa
và bổ sung cho những kiến thức về lòch sử thế giới và lòch sử dân tộc, đặc biệt phần
về xã hội nguyên thủy và cổ đại.
- Trang bò cho người học một số khái niệm về các phương pháp nghiên cứu cơ
bản của khảo cổ học nhằm góp phần hình thành các kỹ năng thực hành trong nghiên
cứu lòch sử, nhất là phần lòch sử đòa phương.
- Trang bò cho giáo sinh những kiến thức cơ bản liên quan đến dạy học các
khóa trình Lòch sử ở trường THCS.
* Về tư tưởng:
Bồi dưỡng cho sinh viên ý thức trân trọng, bảo vệ các di vật khảo cổ.
* Về kỹ năng:
Bồi dưỡng các kỹ năng xem xét, phân loại, vẽ lại các hiện vật khảo cổ: kỹ
năng sử dụng các tài liệu khảo cổ học để học tập, giảng dạy ở THCS và nghiên cứu
lòch sử.
5. Chương trình chi tiết:
PHẦN I: ĐẠI CƯƠNG
25

×