Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Hoàn thiện công tác thanh toán đối với khách du lịch quốc tế tại Khách sạn Bình Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456 KB, 60 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Sự ra đời của những công cụ thanh toán đã tạo ra nhiều thuận lợi ích các giao
dịch kinh tế - thương mại. Song đi kèm với chúng cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp như sự giả mạo, tính không đích thực của các phương tiện cũng như của chủ sở
hữu. Vì vậy, để có thể sử dụng được các công cụ thanh toán này, cần phải tuân theo
các quy trình chung do các tổ chức tín dụng, hiệp hội ngân hàng cùng xây dựng nên.
Trong lĩnh vực du lịch, việc thanh toán không chỉ bó gọn trong phạm vi một
quốc gia mà liên quan tới rất nhiều đối tác cùng tham gia, nhiều loại ngoại tệ, nhiều
loại công cụ thanh toán. Do vậy, việc xây dựng một quy trình thanh toán hợp lý sẽ
giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh, giảm thiểu các rủi ro trong việc thanh toán.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, dựa trên cơ sở những kiến thức đã được
học về quản trị du lịch và khách sạn và thời gian thực tập tại khách sạn Bình Minh –
27 Lý Thái Tổ, em xin chọn đề tài “Hoàn thiện công tác thanh toán đối với khách
du lịch quốc tế tại Khách sạn Bình Minh”. Kết cấu bài viết sau đây gồm 3 phần.
Chương I: Nêu khái quát một số khái niệm chung về kinh doanh khách sạn,
một số lý luận cơ bản về công tác thanh toán đối với khách du lịch quốc tế.
Chương II: Tìm hiểu thực trạng công tác thanh toán đối với khách du lịch
quốc tế tại khách sạn Bình Minh.
Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác thanh toán tại khách
sạn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Tiến sĩ Trần Thị Minh Hoà cùng toàn thể
các thầy cô giáo Khoa Quản trị kinh doanh Du lịch và khách sạn - Trường đại học
Kinh tế quốc dân - những người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bản báo cáo
này. Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân
viên công tác tại Khách sạn Bình Minh đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng bài viết vẫn có nhiều thiếu sót. Rất mong sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể hoàn thiện bài viết này.

1
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC THANH TOÁN QUỐC


TẾ TRONG KHÁCH SẠN
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. NHU CẦU CỦA KHÁCH DU LỊCH
Xét về bản chất nhu cầu chính là những cái cần thiết cho con người tồn tại và
phát triển, chỉ có nhu cầu mới thúc đẩy được tính tích cực của mỗi cá nhân trong
quá trình hoạt động. Nhu cầu là cái tất yếu, tự nhiên, nó là thuộc tính tâm lý của con
người, là sự đòi hỏi tất yếu của con người để tồn tại và phát triển.
Lý thuyết nhu cầu của Maslow là một trong những lý thuyết nghiên cứu về
nhu cầu của con người một cách đầy đủ và toàn diện.
Lý thuyết nhu cầu của Maslow
Khi nghiên cứu về nhu cầu của con người, tiến sĩ Abraham Maslow đã chia
nhu cầu con người thành năm mức độ cơ bản, tầm quan trọng được thể hiện từ mức
độ thấp đến mức độ cao.
1. Nhu cầu sinh lý (ăn, ở, đi lại...).
2. Nhu cầu an ninh và an toàn.
3. Nhu cầu xã hội (giao tiếp, hội nhập).
4. Nhu cầu tự khẳng định.
5. Nhu cầu tự thể hiện.
Theo Maslow, con người sẽ cố gắng thoả mãn nhu cầu quan trọng nhất trước
tiên. Khi thoả mãn được nhu cầu quan trọng, nhu cầu đó sẽ không còn là động lực
thúc đẩy hiện tại nữa và nhu cầu quan trọng kế tiếp lại trở thành động lực của hành
động.

2
Như vậy, nhu cầu du lịch không phải là nhu cầu thiết yếu song cũng không
thể xếp vào nhóm nhu cầu thứ yếu bởi nhu cầu du lịch có những đặc trưng riêng
khác biệt so với nhu cầu thông thường.
Nhu cầu du lịch
Xét về bản chất, nhu cầu du lịch là một trong vô số nhu cầu của con người và
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhu cầu du lịch phát sinh là kết quả tác động của lực

lượng sản xuất trong xã hội và trình độ sản xuất xã hội. Trình độ sản xuất xã hội
ngày càng cao, các mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch của con
người ngày càng trở nên gay gắt.
Nhu cầu du lịch không giống như các nhu cầu khác, đó là một loại nhu cầu
đặc biệt và tổng hợp của con người, được hình thành và phát triển trên nền tảng của
nhu cầu sinh lý và các nhu cầu tinh thần. Nhu cầu du lịch là sự mong muốn khát
khao được rời khỏi nơi ở thường xuyên của mình để đến một nơi nào đó nhằm thoả
mãn các nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục đích kinh tế.
Nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp, khi muốn thực hiện được chuyến đi du
lịch con người cần có đủ hai điều kiện:
- Thời gian nhàn rỗi
- Khả năng thanh toán
Đây là hai điều kiện cơ bản mà con người phải có để biến nhu cầu trở thành
hành động. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì con người không thể thực hiện
được chuyến đi du lịch của mình.
Với các nhà kinh doanh du lịch thì việc đáp ứng và làm thoả mãn nhu cầu du
lịch không phải là đơn giản bởi sự đòi hỏi của nó luôn ở mức độ cao cấp như để đáp
ứng nhu cầu sinh lý về ăn uống thì không chỉ ăn no, ăn ngon mà đòi hỏi cả tính
nghệ thuật trong việc trình bày món ăn, sự cầu kỳ và khéo léo được thể hiện trên
từng sản phẩm. Khách du lịch không chỉ thưởng thức các món ăn bằng miệng mà
còn cả bằng mắt.... điều này đã tạo ra sự khác biệt giữa nhu cầu du lịch và các nhu
cầu thông thường.

3
2. KHÁCH CỦA KHÁCH SẠN
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh khách sạn
nói riêng, khách luôn là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công hay thất bại của
một doanh nghiệp. Sản phẩm mà khách sạn tạo ra trong từng giây, từng phút nếu
không được bán, được sử dụng sẽ không thể sử dụng hai lần trong cùng một thời
gian để bù lại như các sản phẩm khác. Chính vì vậy, từ khi bắt đầu hoạt động kinh

doanh, khách sạn luôn xác định rõ tầm quan trọng của khách.
Vậy khách của khách sạn là ai?
Đứng trên góc độ là những người tiêu dùng trực tiếp sản phẩm của khách sạn,
khách của khách sạn gồm:
- Khách địa phương
- Khách du lịch
Đó là những người sử dụng trực tiếp các sản phẩm trong khách sạn với nhiều
mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích kiếm tiền. Có thể thấy khách của khách sạn
rất đa dạng, không chỉ đơn thuần là những du khách theo định nghĩa mà khách sạn
còn sẵn sàng phục vụ cho tất cả những ai muốn tiêu dùng sản phẩm của khách sạn.
Họ có thể là những khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa và những người dân
địa phương cũng có thể trở thành khách của khách sạn khi họ có nhu cầu tiêu dùng
một loại sản phẩm nào đó của khách sạn.
Nếu nhìn khách của khách sạn dưới góc độ có quan hệ giao dịch mua bán sản
phẩm thì khách của khách sạn còn có đối tượng thứ ba, đó là các tổ chức trung gian.
Đây là những người có quan hệ với khách sạn dựa trên việc giao dịch làm ăn kinh
tế, họ không tiêu dùng trực tiếp các sản phẩm của khách sạn như hai đối tượng kia.
Song trong quá trình hoạt động kinh doanh đối tượng chính mà khách sạn
quan tầm nhất không phải toàn bộ khách của khách sạn mà chỉ đơn thuần là khách
du lịch. Đây chính là đối tượng mà khách sạn muốn được phục vụ.
Để có thể đem lại cho khách những phục vụ tốt nhất, chúng ta cần phải hiểu
rõ khách du lịch là ai? Họ ở đâu đến? Và họ muốn gì?. Biết được điều đó khách sạn
mới kinh doanh thành công.

4
Đã có rất nhiều các định nghĩa khách nhau về khách du lịch song tất cả các
định nghĩa đều tách khách dulịch ra làm hai loại cơ bản:
- Khách du lịch quốc tế
- Khách du lịch nội địa
Tại hội nghị Rome 1963, Liên Hợp Quốc Tế tổ chức về vấn đề du lịch quốc

tế đã đưa ra một định nghĩa khá đầy đủ về khách du lịch quốc tế.
“Khách du lịch quốc tế là người thăm viếng và lưu lại một hoặc một số nước
khác ngoài nước cư trú của mình với thời gian ít nhất là 24 giờ vì bất kỳ lý do gì
ngoài mục đích hành nghề để có thu nhập.”
Khách du lịch nội địa được hiểu là những người đi du lịch không qua phạm
vi du lịch nước mình. Với một khoảng cách tối thiểu nào đó, vì bất kỳ lý do nào
ngoài việc thay thế chỗ làm việc.
Để giúp các doanh nghiệp có thể hiểu rõ hơn về khách du lịch, Tổng cục du
lịch Việt Nam đã định nghĩa khách du lịch quốc tế như sau: “Khách du lịch quốc tế
là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến Việt Nam không quá
12 tháng với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, hành hương thăm thân nhân, bạn bè,
tìm hiểu cơ hội kinh doanh... trên lãnh thổ Việt Nam”
Như vậy, có thể thấy khách du lịch rất đa dạng, họ có thể là khách du lịch thuần
tuý, có thể là khách du lịch thương mại, những khách đoàn đến chờ họp hội nghị,
hội thảo thương mại..., họ đi với rất nhiều mục đích khách nhau trừ mục đích
kiếm tiền, với những nhu cầu khác nhau, những khách biệt này có khi không
đáng kể nhưng có lúc lại rất lớn. Nắm bắt nhu cầu của từng loại khách là rất
quan trọng, nó quyết định sự thành bại trong kinh doanh của một khách sạn.
3. KINH DOANH KHÁCH SẠN
3.1. Khái niệm kinh doanh khách sạn
Du khách đi ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đều cần đến các dịch
vụ về lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi... ở đâu có nhu cầu thì ở đó sẽ có nhà cung cấp.
Chính bởi vậy ngành kinh doanh khách sạn ra đời.
Định nghĩa: Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh các dịch vụ cho
thuê buồng ngủ, ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác của khách sạn nhằm thoả mãn

5
các nhu cầu về nghỉ ngơi tạm thời của khách tại các điểm du lịch và mang lại lợi ích
kinh tế cho cơ sở kinh doanh.
3.2. Đặc điểm kinh doanh khách sạn

Khác với các ngành kinh doanh hàng hoá, ngành kinh doanh khách sạn mang
các đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, kinh doanh khách sạn liên quan mật thiết đến tài nguyên du lịch.
Chúng ta cũng đã biết, nhu cầu của khách du lịch là tiêu dùng các sản phẩm mà đó
không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được. Các sản phẩm đó lại hấp dẫn họ,
muốn “sử dụng” các tài nguyên du lịch. Vì vậy khách sạn muốn kinh doanh có hiệu
quả nhất thiết phải “gắn liền” với tài nguyên du lịch. “Gắn liền” ở đây không chỉ có
ý nghĩa nhất định về mặt không gian mà còn có ý nghĩa cả quy mô, kiểu loại, kiến
trúc,... đồng thời cũng quyết định phương thức thu hút khách của khách sạn.
Thứ hai, kinh doanh khách sạn có dung lượng vốn cố định lớn, đặc biệt lượng
vốn đầu tư ban đầu. Để xây dựng, thiết kế một khách sạn không bị lạc hậu theo thời
gian, luôn luôn thoả mãn nhu cầu cao cấp của khách du lịch thì doanh nghiệp phải
đầu tư lượng vốn lớn. Hơn nữa, trong tiêu dùng khách hàng đòi hỏi những cái mới,
hiện đại của tiện nghi, hàng hoá và dịch vụ đều phải phong phú, đa dạng, cao cấp do
đó làm khách sạn luôn đổi mới dẫn đến phát sinh nhiều chi phí như hoạt động bảo
quản, bảo dưỡng, trang bị những vật phẩm thường xuyên phải thay thế, chi phí cho
khấu hao khu vực lưu trú ăn uống, cho lao động... tất cả chi phí đó chiếm lượng vốn
lớn. Để bù đắp các khoản chi phí, thu hồi vốn đầu tư, khách sạn phải bằng mọi cách
thu hút được nhiều khách vì chỉ có khách thì mới có lợi nhuận.
Thứ ba, kinh doanh khách sạn cần một lượng lao động trực tiếp lớn hơn các
ngành kinh tế khác bởi sản phẩm khách sạn chủ yếu mang tính chất phục vụ khách
trực tiếp nên đòi hỏi một sự cẩn thận, tỉ mỉ, lịch sự mà không có một loại máy móc
nào có thể thay thế được. Thời gian lao động phụ thuộc thời gian tiêu dùng của
khách thường kéo dài 24/24 giờ mỗi ngày. Đồng thời, do phải chịu một áp lực rất
lớn từ khách hàng, phụ thuộc vào tiêu dùng của khách nên cường độ lao động
thường không đều, rất căng thẳng. Như vậy, đối với ngành kinh doanh khách sạn
công tác quản trị nhân lực phải được đặt lên hàng đầu, công tác này đạt hiệu quả cao
thì chất lượng phục vụ của khách sạn được cải thiện rõ rệt, sự hấp dẫn của khách

6

sạn sẽ tăng lên. Với đặc điểm này, quản lý hiệu quả nguồn nhân lực đó là yếu tố
quyết định sự thành công trong công tác thu hút khách của khách sạn.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh khách sạn mang tính chu kỳ. Do phụ thuộc vào
tài nguyên và nhu cầu của khách nên ngành kinh doanh khách sạn không chỉ chịu sự
chi phối của các quy luật tự nhiên mà còn phụ thuộc vào các quy luật xã hội, kinh
tế, thói quen, tâm sinh lý.
Với những đặc điểm này, kinh doanh khách sạn sẽ trở nên đặc biệt khó khăn.
Khả năng thành công của các nhà kinh doanh trong lĩnh vực khách sạn không chỉ
phụ thuộc và các nhân tố như vốn, năng lực, kinh nghiệm mà còn cần phải có sự say
mê thực sự của người lao động.
3.3. Sản phẩm khách sạn
Sản phẩm kinh doanh khách sạn được hiểu là tổ hợp những nhân tố vật chất
tinh thần mà khách sạn cung cấp đáp ứng nhu của của khách hàng kể từ khi họ có
yêu cầu đầu tiên đến khi thanh toán và kết thúc quá trình lưu trú. Như vậy, nó sẽ
bao gồm các dịch vụ, hàng hoá, và các tiện nghi cung cấp cho khách.
∗ Hàng hoá là những vật phẩm hữu hình mà khách sạn cung cấp như thức ăn,
đồ uống, đồ bán kèm, hàng lưu niệm, hàng tiêu dùng thông thường,...
∗ Dịch vụ bao gồm dịch vụ lưu trú, ăn uống được xem như phần cứng của sản
phẩm. Phần mềm là các dịch vụ bổ sung, là phần tạo ra sự khác biệt của từng khách
sạn.
Đặc điểm của sản phẩm khách sạn
- Sản phẩm khách sạn không thể dịch chuyển trong không gian như các hàng
hoá thông thường khác, chỉ có sự vận động cơ học của khách hàng đến nơi có sản
phẩm. Với đặc điểm này áp dụng chính sách kéo khách hàng đến khách sạn phải
được quan tâm hàng đầu.
- Chủ yếu tồn tại dưới dạng phi vật chất, có tỷ trọng dịch vụ cao, chỉ có thể
đánh giá chất lượng sau khi đã tiêu dùng, có nghĩa là ngoài nhân viên phục vụ
khách hàng cũng là một bộ phận quan trọng trong quá trình tiêu dùng sản phẩm.
- Là sản phẩm không lưu kho cất giữ được. Với đặc điểm này, nếu một phòng
trong khách sạn không có khách thì điều đó đồng nghĩa với việc khách sạn vẫn phải


7
sản xuất nhưng không thể bán được sản phẩm. Vì vậy khách sạn phải tìm mọi cách
thu hút khách tới khách sạn mình. Để thực hiện điều đó không có cách nào khác là
phải thoả mãn tối đa nhu cầu của khách mà cơ sở chính là những nghiên cứu về
khách như đặc điểm tiêu dùng, khả năng thanh toán, yêu cầu về chất lượng phục
vụ...
- Là sản phẩm mang tính đồng thời nghĩa là quá trình sản xuất và quá trình tiêu
dùng diễn ra cùng lúc do đó không thể làm thử hoặc loại bỏ sau khi được sản xuất.
Do các đặc điểm trên, sản phẩm khách sạn chỉ đạt chất lượng tốt nếu sau bất
biến về mặt không gian, tính đồng thời về thời gian của sản phẩm khách sạn, có thể
thấy để thành công trên thị trường các nhà quản lý không có cách nào khác là phải
bám sát vào khách hàng.
II. CÁC PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN MÀ KHÁCH
DU LỊCH QUỐC TẾ THƯỜNG SỬ DỤNG KHI ĐẾN
KHÁCH SẠN:
1. TIỀN MẶT
2.4. Khái niệm về ngoại tệ - ngoại hối
- Ngoại tệ (Foreign Currency): là đồng tiền của một quốc gia này so với quốc
gia khác. Ngoại tệ bao gồm 2 loại: Ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng.
- Ngoại hối: là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị được
dùng tiến hành thanh toán giữa các quốc gia. Tuỳ theo quan niệm của luật quản lý
ngoại hối của mỗi nước, khái niệm ngoại hối có thể không giống nhau, nhưng xét
trên đại thể, ngoại hối có thể bao gồm 5 loại:
1. Ngoại tệ (Foreign Currency)
2. Các phương tiện thanh toán quốc tế ghi bằng ngoại tệ, không phải là tiền mặt.
- Hối phiếu (Bill of exchange)
- Kỳ phiếu (Promissary Note)
- Séc (Cheque)
- Thư chuyển tiền (Mail Transfer)


8
- Thẻ tín dụng (Credit Card)
- Thư tín dụng ngân hàng (Bank letter of Credit)
3. Các chứng khoán có giá trị ghi bằng ngoại tệ như:
- Cổ phiếu (Stock)
- Trái phiếu công ty (Debenture)
- Công trái quốc gia (Government loan)
- Trái phiếu kho bạc (Treasury Bill)
4. Vàng bạc, kim cương, ngọc trai, đá quý... được dùng làm tiền tệ.
5. Tiền của Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Tiền của Việt Nam ở nước ngoài dưới mọi hình thức khi quay lại Việt Nam.
- Tiền Việt Nam là lợi nhuận của người đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Tiền Việt Nam có nguồn gốc ngoại tệ khác.
Tác động của tỷ giá hối đoái
2.4.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
Κ Khái niệm
Trong chế độ bản vị vàng, tiền tệ trong lưu thông là tiền đúc bằng vàng và
giấy bạc ngân hàng được tự do đổi ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng của nó. Tỷ
giá hối đoái là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng của 2 nước với nhau hoặc là so
sánh hàm lượng vàng của 2 đồng tiền 2 nước với nhau (ngang giá vàng - gold
parity).
Ví dụ: Hàm lượng vàng của 1 bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và của 1 đôla Mĩ
(USD) là 0,888671 gam, do đó, quan hệ so sánh giữa GBP và USD là:
1 GBP = =2,80 USD
Trong chế độ lưu thông tiền giấy, tiền đúc trong lưu thông không còn nữa,
giấy bạc ngân hàng không được tự do đổi ra vàng theo hàm lượng vàng của nó, do
đó, ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái.
Có 2 khái niệm về tỷ giá hối đoái:


9
2,488281
8,888671
Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái
bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của
một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia được gọi là tỷ
giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái còn được định nghĩa ở khía cạnh khác, đó là quan hệ so sánh
giữa hai đồng tiền của 2 nước với nhau.
Việc so sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng so sánh sức mua của
2 đồng tiền trên 2 thị trường (sức mua của một rổ hàng hoá phổ biến trên cả 2 thị
trường) gọi là “ngang giá sức mua” của tiền tệ (Purchasing Power Parity).
Ví dụ: Một hàng hoá A ở Mĩ có giá là 10USD, ở Pháp có giá là 50 FPF.
Ngang giá sức mua là:
1 USD = = 5 FPF
Đây là tỷ giá hối đoái giữa đôla Mĩ và frăng Pháp.
Κ Các loại tỷ giá hối đoái
Tỷ giá thường được niêm yết tại ngân hàng là tỷ giá điện hối, tức là tỷ giá chuyển
ngoại hối bằng điện. Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định ra các loại tỷ giá
khác.
Tỷ giá thư hối là tỷ giá chuyển đổi ngoại hối bằng thư.
Tỷ giá của séc và hối phiếu trả tiền ngay được mua và bán theo một tỷ giá mà cơ sở
xác định nó bằng tỷ giá điện hối trừ đi một số tiền lãi của 1 đơn vị ngoại tệ trong giá
trị toàn bộ của séc và hối phiếu phát sinh theo số ngày cần thiết của bưu điện để
chuyển séc từ nước này sang nước khác và theo số ngày kể từ lúc ngân hàng bán hối
phiếu đến lúc hối phiếu được trả tiền.
Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát sinh tính từ lúc
ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu được trả tiền.
Khi niêm yết tỷ giá, ngân hàng công bố tỷ giá mua và tỷ giá bán. Tỷ giá mua là tỷ
giá của ngân hàng mua ngoại hối vào. Tỷ giá bán là tỷ giá của ngân hàng bán ngoại

hối ra. Tỷ giá mua bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán và khoản chênh lệch đó là lợi
nhuận kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.

10
2,488281
8,888671
Tỷ giá đóng cửa là tỷ giá của hợp đồng kỳ kết cuối cùng trong ngày. Tỷ giá của
chuyến giao dịch ngoại hối đầu tiên trong một ngày gọi là tỷ giá mở cửa.
Trong khuôn khổ chế độ quản lý ngoại hối, ở các nước kém phát triển, ngoài thị
trường ngoại hối chính thức còn hình thành thị trường ngoại hối tự do. Do đó, bên
cạnh tỷ giá chính thức do Nhà nước quy định, còn có tỷ giá chợ đen do quan hệ
cung cầu ngoại hối trên thị trường quyết định.
Nhà nước áp dụng chế độ nhiều tỷ giá chính thức để điều tiết nền kinh tế, tác động
đến cán cân ngoại thương, kích thích hoặc hạn chế hoạt động xuất nhập khẩu.
2.4.2. Tác động của tỷ giá hối đoái tới việc thanh toán của khách tại khách
sạn
Khi khách du lịch tới nghỉ tại khách sạn, họ sẽ tiêu dùng những dịch vụ lưu trú, ăn
uống... và đương nhiên, họ phải thanh toán những dịch vụ đó. Nhưng khách sạn
không chấp nhận tất cả các đồng ngoại tệ mà chỉ nhận một số loại ngoại tệ mạnh và
thông dụng hoặc là đồng nội tệ. Do vậy, khách du lịch phải chuyển đổi đồng tiền
của họ sang các loại ngoại tệ hoặc đồng nội tệ được khách sạn chấp nhận. Trong
quá trình chuyển đổi đó, sự biến động của tỷ giá sẽ gây ra tác động lớn, làm tăng
hoặc giảm sự chênh lệch giữa khoản thanh toán ghi trên hoá đơn và khoản thanh
toán thực tế khách phải trả.
Nếu đồng tiền của khách là những đồng tiền được khách sạn chấp nhận thanh toán
thì sự biến động của tỷ giá chỉ gây tác động một lần. Ví dụ, nếu tỷ giá giữa đồng
tiền của khách và đồng VND tăng, một đồng tiền của khách sẽ đổi được nhiều đồng
VND hơn, khoản thanh toán thực sự mà khách phải trả sẽ giảm đi. Ngược lại, nếu tỷ
giá đó giảm, đồng tiền của khách sẽ đổi được ít đồng VND hơn, tổng giá dịch vụ
mà khách đã tiêu dùng tăng lên, khách chịu thiệt vì phải trả nhiều tiền hơn.

Nếu đồng tiền của khách không được chấp nhận thanh toán tại khách sạn, họ sẽ phải
quy đổi ra những ngoại tệ thông dụng khác (thường là USD) và sẽ tiến hành thanh
toán. Lúc này, tỷ giá sẽ gây tác động hai lần. Nếu tỷ giá giữa ngoại tệ quy đổi và
đồng tiền của khách tăng (hoặc giảm) thì tổng số tiền của khách cần phải chi ra
cũng tăng (hoặc giảm). Khi đem đồng ngoại tệ quy đổi thanh toán với khách sạn, tỷ
giá hối đoái có thể gây ra hai tác động như trường hợp trên.

11
Tóm lại, tỷ giá hối đoái thay đổi sẽ gây tác động mạnh tới việc thanh toán nói
chung, không chỉ riêng thanh toán bằng tiền mặt. Vì vậy, để san xẻ bớt rủi ro do sự
biến động lên xuống thất thường của tỷ giá, khách sạn quy định tỷ giá của ngân
hàng công bố vào thời điểm khách thanh toán được dùng làm tỷ giá thanh toán. Còn
trong các giao dịch thương mại, người ta thường xác định tỷ giá tại một thời điểm
nào đó là tỷ giá để thanh toán hợp đồng, có thể là tỷ giá lúc ký kết hoặc lúc thanh
toán.
2.4.3. Ưu nhược điểm khi thanh toán bằng tiền mặt
Việc phát minh ra tiền giấy thực sự là một bước tiến quan trọng trong lịch sử. Khi
thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, người mua trực tiếp nhận hàng, người bán trực
tiếp nhận tiền, rủi ro trong giao dịch là rất nhỏ. Song những giao dịch lớn, người ta
cần có nhiều tiền mặt. Một khách thương gia đi tìm kiếm cơ hội kinh doanh, ở
những khách sạn đắt tiền trong thời gian dài sẽ phải mang theo rất nhiều tiền mặt.
Rủi ro có thể xảy ra trên đường đi rất lớn như mất mát, trộm cắp... Vì vậy, thanh
toán bằng tiền mặt không còn được ưa chuộng như trước nữa. Thay vào đó, khách
du lịch sử dụng những phương tiện thanh toán khác mang lại an toàn hơn cho người
sử dụng.
2. CÁC PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN KHÁC
2.5. Séc (Cheque)
Séc ra đời từ chức năng làm phương tiện thanh toán của tiền tệ và được sử
dụng rộng rãi trong những nước có hệ thống ngân hàng phát triển cao. Hiện nay, séc
là phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến trong giao lưu thanh toán nội địa

của tất cả các nước. Séc cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế về
hàng hoá, cung ứng lao vụ, du lịch và về các chi trả phi mậu dịch khác.
2.4.4. Bản chất
Séc là một mệnh lệnh thanh toán của chủ tài khoản ký phát, yêu cầu ngân hàng của
mình trích từ tài khoản của mình thanh toán một khoản tiền nhất định cho người thụ
hưởng hoặc có tên ghi trên séc hoặc theo lệnh của người này hoặc cho chính người
cần séc.
Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, do vậy séc phải có những quy định về
phát hành, nội dung và hình thức theo luật định. Năm 1931, nhiều nước như Đức,

12
Pháp, ý, Hà Lan, Thuỵ Sĩ... đã họp tại Giơnevơ để ký kết một công ước quốc tế về
Séc. Công ước này được nhiều nước áp dụng.
2.4.5. Những điều kiện để có Séc
- Mở tài khoản vãng lai.
- Có hồ sơ thanh toán tốt: khả năng tài chính tốt (có thế chấp), khả năng thanh
toán tốt (xét theo thu nhập hoặc hiệu quả kinh doanh), không bị ghi tên vào sổ đen
ngân hàng).
- Ký hợp đồng xin sử dụng séc và được ngân hàng cấp cho một quyển sổ séc
với số lượng tờ nhất định (20 đến 40 tờ).
2.4.6. Hình thức và nội dung
Séc là những bản mẫu in sẵn do những ngân hàng thuộc cấp II phát hành. Khi
cần ký phát, chủ tài khoản chỉ cần điền thêm vào những nội dung cần thiết. Về nội
dung của tờ séc, séc cần ghi đủ những điều sau đây:
- Tiêu đề séc
- Tên, địa chỉ tổ chức phát hành
- Họ tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản của chủ tài khoản
- Số seri của séc: gồm cả phần chữ và số
- Quy định về người thụ hưởng: phần quy định ai là người thụ hưởng, tên, địa
chỉ, số chứng minh thư nhân dân. Nếu trên séc không có các mục chi tiết như trên

thì gọi là “séc để trống”, người thụ hưởng chính là người cầm séc.
- Số tiền: ghi cả bằng chữ và số. Nếu 2 số này chênh lệch thì sẽ chọn số tiền
nhỏ hơn.
- Ngày tháng ký phát séc.
- Chữ ký của chủ tài khoản.
2.4.7. Ưu nhược điểm khi sử dụng phương tiện thanh toán này
Séc thực chất là một công cụ tiền bút toán, phạm vi dùng và đối tượng dùng
rộng, mệnh giá do chủ tài khoản quyết định và có thể chuyển nhượng cho nhiều
người liên tiếp bằng phương pháp ký hậu chuyển nhượng.

13
Tuy nhiên, đặc điểm của séc là có tính chất thời hạn, tức là chỉ có giá trị tiền
tệ hoặc thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết. Thời hạn này tuỳ thuộc
vào phạm vi không giam mà séc lưu hành và luật pháp các nước quy định. Đối với
séc dùng để trả tiền ngay, thời hạn hiệu lực của séc là 8 ngày làm việc kể từ ngày
phát hành séc, nếu là séc lưu thông trong một nước (Việt Nam quy định thời hạn
này là 15 ngày); 20 ngày làm việc nếu lưu thông ngoài nước cùng châu lục; 70 ngày
làm việc nếu lưu thông ngoài nước khác châu lục. Quá thời hạn trên nếu séc không
quay trở lại ngân hàng sẽ mất hiệu lực. Người phát hành séc cũng chịu rủi ro khi
mất séc hoặc bị đánh cắp.
Séc du lịch (Traveller’s cheque)
Là loại séc đích danh. Nhờ loại séc này mà khách du lịch có thể không cần
tiền mặt mang đi vì séc du lịch có thể được thanh toán một cách chắc chắn ở khắp
nơi.
2.4.8. Bản chất
Là một công cụ thanh toán đặc biệt, mệnh giá được in sẵn bằng đồng tiền
mạnh, giá trị có thể lớn hơn giá trị tiền mặt (Ví dụ: 200 USD, 500 USD) và do một
số tổ chức tín dụng, mạng thanh toán lập hoặc tập đoàn du lịch phát hành. Séc du
lịch chỉ được đưa vào lưu thông khi ngân hàng thành toán đã nhận được số tiền
tương ứng của séc cộng thêm mức phí 1%.

2.4.9. Thanh toán bằng Séc du lịch
Séc du lịch chỉ được chấp nhận thanh toán tại các khách sạn đã ký hợp đồng
với một tổ chức là đại lý của mạng thanh toán. Tổ chức này sẽ cấp cho khách sạn
một mẫu thẻ (Specimen) và danh mục những thẻ du lịch bị đình chỉ thanh toán.
Khi tiếp nhận Séc du lịch từ khách, nhân viên thu ngân phải kiểm tra kỹ tính
hợp lệ của nó: về hình thức (không tẩy xoá, rách nát...), hiệu lực thanh toán, chữ kỹ
của chủ sở hữu... Sau khi nhận séc, trong thời hạn 7 ngày làm việc phải đem đến đại
lý ký hợp đồng nhờ thu hộ theo nguyên tắc ký hậu.
2.4.10. Ưu nhược điểm khi thanh toán bằng Séc du lịch
Ở một số nước phát triển như Anh, Đức... việc sử dụng séc du lịch rất phổ biến.
Khách du lịch có thể thanh toán trực tiếp với khách sạn hoặc đổi séc thành tiền mặt

14
qua ngân hàng. Trong trường hợp bị mất, người hưởng thụ séc phải khai báo một
sóo thủ tục và được hoàn trả khoảng 80% giá trị tờ séc.
Đối với khách sạn, việc thanh toán bằng séc du lịch đơn giản hơn thanh toán bằng
séc. Séc du lịch có tính đảm bảo hơn song lại kém linh hoạt vì không thể tự do
chuyển nhượng được.
Thẻ tín dụng (Credit Card)
2.4.11. Bản chất
Thẻ tín dụng là một công cụ tiền bút toán cho phép chủ tài khoản thanh toán
không phải bằng tiền mặt trên một địa bàn rộng với nhiều mục đích. Thẻ tín dụng
được dân sử dụng nhiều.
2.4.12. Hình thức
Thẻ tín dụng là một tấm nhựa plastic, kích thước 6 × 9 cm. Mặt trước có ghi
biểu tượng của mạng thanh toán (VISA, JCB...), nơi phát hành (đại lý của mạng) và
phần in nổi bao gồm số thẻ, thời hạn hiệu lực, họ tên chủ sở hữu. Phần in nổi này
được dùng khi cà thông tin để lưu lại trên hoá đơn.
2.4.13. Một số điểm cần lưu ý khi thanh toán bằng thẻ tín dụng
Đối với chủ sở hữu muốn được sử dụng thể phải có đẩy đủ 3 điều kiện: Mở

tài khoản vãng lai, có hồ sơ thanh toán tốt và phải ký hợp đồng với đại lý của một
trong số mạng thanh toán VISA, MASTER CARD, JCB, AMERICAN EXPRESS.
Khách sạn nhận thanh toán bằng thẻ cũng cần phải ký hợp đồng với một đại
lý của mạng thanh toán. Đại lý này sẽ cấp cho khách sạn một mẫu thẻ, chỉ dẫn về
việc thanh toán, hạn mức thanh toán của từng loại thẻ, danh mục các thẻ bị đình chỉ
(Stoplist), những tập hoá đơn tương ứng và máy cà (nếu là thanh toán cơ học).
Khi khách thanh toán, cần phải kiểm tra một số yếu tố ghi trên thẻ như mạng
thanh toán, họ tên chữ ký của chủ sở hữu, hiệu lực thanh toán, hạn mức thanh
toán...Sau đó, lấy một liên hoá đơn (4 hoá đơn) cà các thông tin cần thiết và đưa lại
một hoá đơn cho khách.
Trên thực tế, sau khi tiếp nhận các công cụ thanh toán trên, khách sạn không
thể tự truy đòi các ngân hàng nơi khách du lịch mở tài khoản mà phải thông qua một

15
ngân hàng trong nước nhờ thu hộ. Đây được gọi là phương thức nhờ thu hộ có kèm
chứng từ.
Mua thẻ Ký hợp đồng
Séc, séc du lịch, thẻ tín dụng chỉ do một số mạng ngân hàng nhất định phát
hành. Do vậy, các ngân hang tham gia vào quy trình trên đều phải là đại lý cho các
mạng ngân hàng này. Giữa các ngân hàng này thường có mối quan hệ trực tuyến,
đối ứng tài khoản để quá trình thanh toán thuận lợi nhất.
Khi khách du lịch thanh toán với khách sạn (2), khách sạn sẽ chuyển các
chứng từ thanh toán tới ngân hàng đại lý trong thời hạn 7 ngày làm việc (3). Ngân
hàng đại lý 2 tổ chức phân loại, tập hợp một số lượng đủ lớn rồi mới gửi tới ngân
hàng đại lý 1 (4). Ngân hàng đại lý 1 sẽ kiểm tra, chứng minh các chứng từ đó hợp
lệ. Bất kể tài khoản của khách du lịch trong ngân hàng đại lý 1 có còn số dư không
thì ngân hàng đại lý 1 đều phải thanh toán toàn bộ các chứng từ hợp lệ (5). Ngân
hàng đại lý 2 sẽ chuyển tiền mặt cho khách sạn. Trong trường hợp chứng từ thanh
toán không hợp lện, ngân hàng đại lý 1 sẽ gửi trả chứng từ cho khách sạn qua ngân
hàng đại lý 2. Quy trình thanh toán tương đối lâu, từ lúc khách sạn nhận công cụ

thanh toán tới lúc nhận được tiền mặt có thể kéo dài 2 tuần đến 1, 2 tháng. Vì vậy,
trong một số trường hợp, khách sạn chấp nhận chi mức hoa hồng cao cho ngân hàng
để thu hồi tiền nhanh.
Voucher
2.4.1. Bản chất
Voucher là những hoá -->

×