Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) ở bắc giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.57 KB, 93 trang )

THU HóT §ÇU T¦ TRùC TIÕP N¦íC NGOµI (FDI)
ë B¾C GIANG HIÖN NAY
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Ch¬ng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO PHÁT TRIỂN KINH
TẾ, XÃ HỘI
6
1.1.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kin tế, xã hội
6
1.2.
Vai trò của FDI trong phát triển kinh tế
17
1.3.
Kinh nghiệm của các tỉnh trong, ngoài nước về thu hút FDI vào
phát triển kinh tế, xã hội
36
Chương 2: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC
GIANG TRONG THỜI GIAN QUA
41
2.1.
Khái quát về đặc điểm, tiềm năng của tỉnh Bắc Giang
41
2.2.
Thực trạng tình hình thu hút Fdi trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
trong thời gian qua
47


2.3.
Những kinh nghiệm thành công và một số tồn tại, hạn chế trong
thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
65
Chương 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG
CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ
HỘI BẮC GIANG
70
3.1.
Mục tiêu và định hướng của tỉnh trong th hút FDI
70
3.2.
Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang
71
KẾT LUẬN
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87
PHỤ LỤC
90
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nhu cầu đề tài
Vốn là một mắt khâu quan trọng nhất trong vòng tròn tác động lẫn nhau
giữa vốn, kỹ thuật và tăng trưởng.
Sau hơn 20 năm tiến hành mở cửa, đổi mới mạnh mẽ nền kinh tế, đầu tư
trực tiếp nước ngoài có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước; bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển và đã tác
động trực tiếp đến việc cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân
thanh toán thông qua chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại

tệ gián tiếp. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng phát
triển, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế và thành công của công cuộc
đổi mới. Đồng thời, là cầu nối quan trong giữa nền kinh tế Việt Nam với nền
kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lcịh, dịch vụ và tạo điều
kiện để Việt Nam chủ động hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế
thế giới. Đặc biệt, trong thời gian qua, đầu tư nước ngoài đã góp phần thay
đổi cục diện, gương mặt và đời sống kinh tế, xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của nhiều địa phương từ một tỉnh thuần nông trở thành tỉnh công nghiệp
phát triển năng động và hiệu quả.
Bắc Giang năm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh- Lạng Sơn - hà
Nội - Hải Phòng và có mối liên hệ chặt chẽ với vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ; lại có vị trí nằm cạnh tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội - Hải
Phòng -Quảng Ninh) rất thuận lợi cho việc phát triển và liên kết vùng. Trung
tâm bắc Giang cách thủ đô Hà Nội 50km; cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan với
Trung Quốc 110km; cách sân bay quốc tế Nội Bài 60km; cách cảng biển Hải
Phòng, Quảng Ninh 130km. từ đây có thể dễ dàng thông thương với các nước
trong khu vực cũng như trên thế giới và là thế mạnh của Bắc Giang trong việc
thu hút đầu tư. Đồng thời, do địa hình đa dạng phong phú, Bắc Giang có
nhiều tiềm năng phát triển các khu du lịch sinh thái như: hồ Cấm Sơn, hồ
1
Khuôn Thần, Khu bảo tồn Tây Yên Tử; Suối Mỡ. Ngoài ra có thể xây dựng
các sân gôn, khu nghỉ dưỡng…vì vậy, nhu cầu về thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước của tỉnh Bắc Giang rất lớn.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang gặp khó khăn nhất
định; công tác quy hoạch còn chậm, chưa chuẩn xác… Đầu tư trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp và vào các địa bàn khó khăn còn rất hạn chế. Việc xúc
tiến đầu tư chủ yếu là tuyên truyền chính sách, chưa đi vào các dự án công
trình trọng điểm và chưa hướng mạnh vào các thị trường đối tác có tiềm lực
tài chính. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài còn
những mặt yếu kém, vừa có hiện tượng buông lỏng, vừa can thiệp quá sâu vào

hoạt động của doanh nghiệp. một số thủ tục hành chính còn phiền hà dẫn đến
tiêu cực, nhũng nhiễu của một số người thừa hành công vụ. Nhận thấy sự
“nóng ” của vấn đề, em chọn đề tài: "Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) ở Bắc Giang hiện nay". Em chọn địa danh Bắc Giang để viết bài báo
cáo này với lý do muốn góp một chút công sức làm đẹp quê hương Bắc
Giang, nơi em đã sinh ra và lớn lên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến này đã có nhiều nhà lý luận và thực tiễn ở trong và ngoài nước
nghiên cứu về thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dưới
nhiều góc độ khác nhau, nhưng được công bố dưới dạng chuyên đề, luận văn
thạc sỹ, luận án tiến sĩ, các bài viết đăng trên các báo, tạo chí…ví dụ như:
- "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đái
hoá ở Việt Nam giai đoạn 1988-2005" của tác giả Đỗ Thị Thuỷ (Luận án Tiến
sĩ Kinh tế, năm 2001) đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến FDI vào Việt
Nam, nhất là trong giai đoạn 1997-2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế trong khu vực làm giảm sút Fdi vào Việt Nam giai đoạn này.
- "Kinh nghiệm thu hút FDI của các nước đang phát triển Châu Á và
khả năng vận dụng vào Việt Nam" của tác giả Hoàng Xuân Hải (Luận án PTS
2
KHKT) đã nghiên cứu những kết quả đạt được của nước ta trong lĩnh vực thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
- "Thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia" của tác giả
Hoàng Thị Bích Loan viết về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong lưu
chuyển FDI toàn cầu, chiến lược đầu tư trực tiếp của công ty xuyên quốc gia
và viết về toàn cảnh thực trạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc
gia gần 20 năm qua, triển vọng, phương hướng, giải pháp thu hút FDI của các
công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam trong những năm tới.
- "Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam" của tác giả Lê
Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh, năm 2006 đẫ nêu ra được tác động tích
cực, tác động chưa tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự tăng

trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam.
- "Một số biện pháp thức đẩy việc triển khai thực hiện các dự án FDI tại
Việt Nam" của tác giả Bùi Huy Nhượng (Luận án TS kinh tế, năm 2006) đánh
giá việc triển khai thực hiện các dự án Fdi và đưa ra một số giải pháp nhằm
thúc đẩy việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
- "Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN và
vận dụng vào Việt Nam" của tác giả Nguyễn Huy Thám (Luận án Tiến sĩ kinh
tế, năm 1999) đã đưa ra một số kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của các nước ASEAN, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Việt Nam và đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài voà Việt Nam.
- "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển khu công nghiệp" của tác
giả Lê Xuân Trinh đăng trên tạp chí Công sản năm 1998 viết về tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển của các khu công nghiệp.
3
Và nhiều tác phẩm liên quan khác. Trong các công trình đó, các tác giả đã
có nhiều đóng góp quan trọng, làm rõ tính hai ặt của FDI, đề xuất các chính
sách, giải pháp cốt lõi của nhà nước đối với việc thu hút FDI vào nước ta.
Vấn đề thu hút FDI của tỉnh Bắc Giang cho đến nay chưa được nghiên
cứu một cách đầy đủ, thường mới được đề cập ở mức độ các báo cáo của các
cơ quan chức năng. Chẳng hạn như:
- Báo cáo công tác đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, Sở kế
hoạch và Đầu tư, 28/2/2000.
- Báo cáo đầu tư nước ngoài tại Bắc Giang, Sở Kế hoạch và Đầu tư
14/01/2001.
- Tóm tắt kết quả triển khai đầu tư trực tiếp trên địa bàn tỉnh, Sở Kế
hoạch và Đầu tư, 20/3/2003.
Nhưng chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu tình hình thu hút nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của tỉnh Bắc Giang. Vì vậy, đề tài tác giả
nghiên cứu không trùng lặp với các đề tài đã được công bố trong và ngoài nước.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn các giải pháp thu hút nguồn vốn FDI ở
Bắc Giang hiện nay, để đề ra những giải pháp nhằm cơ bản đẩy mạnh thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Giang
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
+ Làm rõ tình hình thực tế quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
+ Đề ra những giải pháp nhằm đổi mới việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4
Mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI cho phát triển
kinh tế ở Bắc Giang trong thời gian tới phải phù hợp với mục tiêu đặt ra trong
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10năm (2001- 2010)
Vốn FDI phải được thu hút từ những công ty, tập đoàn đa quốc gia trên
thế giới (TNCs ) tại các nước công nghiệp phát triển như: Hoa Kỳ, Anh, Pháp,
Nhật Bản, Đức … nhằm tận dụng năng lực về tài chính, công nghệ nguồn và
thị phần lớn của các tập đoàn đến từ những quốc gia này.
Mục tiêu sử dụng vốn FDI phải tập trung vào thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Kế hoạch và khả năng thu hút vốn đầu tư FDI ở Bắc Giang giai đoạn
2001- 2005 và 2006- 2010
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các vấn đề liên quan
tới vấn đề thu hút nguồn vốn FDI vào tình hình cụ thể của tỉnh Bắc Giang.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu từ góc độ kinh tế, chính trị học, sử dụng hệ
thống các phương pháp: phân tích và tổng hợp, lôgíc và phương pháp so sánh.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp đặc thù như thống kế,
điều tra khảo sát thực tế nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đã đặt ra.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Phân tích những xu hướng khách quan trong quá trình thu hút nguồn
vốn Fdi trong công cuộc phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta;
góp phần luận giải cơ sở khoa học về thu hút nguồn vốn FDI. Đánh giá đúng
thực trạng việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của tỉnh
Bắc Giang; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy
những lợi thế, tiềm năng của việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) trong tỉnh; có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính
5
sách và chỉ đạo thực hiện thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở
tỉnh Bắc Giang trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI
1.1. THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ, XÃ HỘI
1.1.1. Một số khái niệm và đặc điểm cơ bản về đầu tư nước ngoài
Để hiểu được bản chất của đầu tư quốc tế và các hình thức hoạt động
của nó, trước hết ta cần làm rõ khái niệm về đầu tư. Mặc dù còn khá nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng có thể đưa ra một khái niệm cơ
bản về đầu tư được nhiều người thừa nhận, đó là "đầu tư là việc sử dụng một
lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai vào một hoạt động kinh
tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận".

Ngày nay, hoạt động đầu tư quốc tế diễn ra ngày càng phổ biến và có
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các nước, kể cả nước
đầu tư lẫn nước nhận đầu tư. Đầu tư quốc tế được thực hiện chủ yếu dưới ba
hình thức cơ bản là: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng quốc tế.
1.1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số
vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia
điều hành quá trình sử dụng số vốn mà họ đầu tư. Theo luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành
6
các hoạt động đầu tư theo quy định của luật pháp Việt Nam. Đặc điểm của
hình thức đầu tư trực tiếp:
Một là, các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu, tùy
theo quy định của luật đầu tư từng nước.
Hai là, quyền hành quản lý phụ thuộc vào mức độ góp vốn, nếu đóng
góp 100% vốn thì toàn bộ do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
Ba là, lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Lời, lỗ được chia theo
tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã nộp thuế lợi tức (nay là thuế thu
nhập doanh nghiệp) cho nước chủ nhà.
1.1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: 1)Đóng góp vốn
để xây dựng xí nghiệp mới; 2) Mua lại toàn bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang
hoạt động; 3)Mua cổ phiếu để thôn tín hoặc sát nhập.
1.1.2. Các quan điểm khác nhau về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào phát triển kinh tế, xã hội
1.1.2.1. Quan niệm của các nhà khoa học Phương
Tây về thu hút FDI
FDI là một hình thức đầu tư của nước ngoài vào nước được đầu tư. Nó

không những mang lại hiệu quả toàn diện cho nước được đầu tư, mà đối với
các nước chủ đầu tư cũng được lợi trong việc đầu tư. Đa số các nước phương
Tây đóng vai trò chủ đầu tư. Và quan niệm đầu tư nước ngoài FDI của họ
nhằm mục tiêu lợi ích sau:
Thứ nhất, tìm kiếm tài nguyên:
Mục đích của các nhà đầu tư phương Tây thực hiện ĐTNN là muốn tìm
kiếm các nguồn tài nguyên phục vụ sản xuất, kinh doanh với chi phí rẻ hơn so
với trong nớc để thu được lợi nhuận lớn hơn cũng như nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường đang cung cấp sản phẩm và thị trường mới trong
7
tương lai. Có ba loại tài nguyên thường được các nhà đầu tư Phương Tây tìm
kiếm khi đầu tư vào một nước nào đó gồm: 1) tài nguyên thiên nhiên như là
khoáng sản, nguyên vật liệu thô, sản phẩm nông nghiệp và những tài nguyên
có hạn. Việc sử dụng các tài nguyên này sẽ giúp cho các nhà đầu tư này giảm
tối thiểu chi phí sản xuất đồng thời đảm bảo nguồn cung cấp nguyên vật liệu
cho sản xuất; 2) Nhà đầu tư Phương Tây tìm kiếm các nguồn cung cấp dồi
dào với giá rẻ cũng như nguồn lao động lành nghề và không lành nghề. Các
nhà đầu tư phương Tây thường chuyển nhà máy từ các nước có chi phí lao
động cao sang những nước có chi phí lao động thấp và 3) Nguồn tài nguyên
được các nhà đầu tư tìm kiếm là năng lực về kỹ thuật, quản lý doanh nghiệp,
chuyên gia marketing hoặc kỹ năng tổ chức quản lý.
Thứ hai, tìm kiếm thị trường:
Tìm kiếm, mở rộng thị trường và tận dụng các điều kiện tự do về thương
mại và thuế quan là động lực phổ biến thúc đẩy các công ty các nước phương
Tây thực hiện đầu tư ra nước ngoài. ở các thị trường mới nổi, với những
khách hàng là người có thể mua được những sản phẩm chất lượng cao, đang
ngày càng phát triển và hấp dẫn các nhà đầu tư từ nước ngoài.
Việc tìm kiếm thị trường để đầu tư gồm cả những thị trường đã có hàng
hoá của doanh nghiệp và những thị trường mới. Ngoài ra, dung lượng thị
trường tiềm năng và xu hướng phát triển tương lai của thị trường cũng là một

lý do thúc đẩy các nhà đầu tư phương Tây thực hiện đầu tư.
Thứ ba, tìm kiếm các nguồn lực:
Động lực về tìm kiếm nguồn lực được dựa trên cấu trúc của các nguồn
tài nguyên đã có hoặc kết quả của việc tìm kiếm thị trường đầu tư. Mục đích
tìm kiếm nguồn lực của các nhà đầu tư phương Tây là tận dụng các lợi thế các
nguồn lực đã có như văn hoá, hệ thống kinh tế, chính trị và thị trường ở một
số khu vực để tập trung sản xuất nhằm cung cấp sản phẩm cho nhiều thị
trường khác. Nguồn lực gồm hai loại: 1) Tận dụng những lợi thế khác nhau đã
8
có sẵn và các tài sản truyền thống ở các nước. Sự đầu tư của phương Tây ở
các nước phát triển và nước đang phát triển là sự đầu tư về tiền vốn, công
nghệ và thông tin làm gia tăng giá trị của các hoạt động đầu tư và sau đó là
lao động và tài nguyên thiên thiên; và 2) Tìm kiếm nguồn lực còn được thực
hiện ở các nước tương tự về hệ thống kinh tế và mức thu nhập, đồng thời
cũng tận dụng những thuận lợi của qui mô nền kinh tế và sự khác nhau về thị
hiếu tiêu dùng cùng khả năng cung cấp.
Để việc tìm kiếm nguồn lực được thực hiện, các thị trường đa biên cần
được mở và phát triển. Về thực tế, tìm kiếm nguồn lực dường như là sự cạnh
tranh của các công ty toàn cầu về yếu tố cơ bản của sản phẩm được đưa ra thị
trường và khả năng đa dạng hóa sản phẩm của công ty cũng như khả năng
khai thác lợi nhuận trong sản xuất ở một số nước.
Thứ tư, tìm kiếm tài sản chiến lược:
Là hình thức xuất hiện ở giai đoạn cao của toàn cầu hoá. Thực hiện đầu
tư với mục đích này, các nhà đầu tư phương Tây tìm kiếm khả năng nghiên
cứu và phát triển. Nhà đầu tư có thể sử dụng tài sản của các công ty nước
ngoài để thúc đẩy mục tiêu chiến lược dài hạn đặc biệt là cho việc duy trì và
đẩy mạnh khả năng cạnh tranh quốc tế. Sự tìm kiếm này giúp khám phá
những lợi thế đặc biệt hoặc lợi thế về marketing. Hơn thế nữa, chiến lược và
sự hợp lý hoá trong đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp các doanh nghiệp từng bước
cơ cấu lại tài sản nhằm đáp ứng mục tiêu kinh doanh. Chiến lược này nhằm

củng cố và nâng cao sức mạnh của chiến lược cạnh tranh lâu dài.
1.1.2.2. Quan niệm của các học giả Trung Quốc về thu hút FDI
Mục tiêu của chính sách thu hút FDI của Trung Quốc không chỉ nhằm
hướng tới thu hút được vốn, công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến mà còn
nhằm phục vụ nhiều mục tiêu chung quan trọng khác như phát triển các ngành
kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, có vai trò cốt lõi trong chiến lược phát triển
kinh tế Vì thế, trong chính sách thu hút FDI của Trung Quốc có định hướng
9
thu hút FDI, hay nói cách khác là chính sách về cơ cấu đầu tư. Đó là việc xác
định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tự
do đầu tư; những ngành, lĩnh vực, địa bàn đầu tư có điều kiện; những ngành,
lĩnh vực, địa bàn cấm đầu tư. Chính sách cơ cấu đầu tư có liên quan mật thiết
với mức độ mở cửa thị trường, tự do hóa đầu tư, sự bảo hộ sản xuất trong
nước. Đồng thời, mỗi khu vực, mỗi nước đầu tư lại có những thế mạnh riêng
về tiềm lực vốn, công nghệ cũng như trình độ quản lý nên cần phải có chính
sách về cơ cấu đối tác đầu tư, Trung Quốc xây dựng chính sách về cơ cấu đầu
tư phụ thuộc vào mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phụ thuộc
vào mức độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế và trình độ phát triển của
Trung Quốc.
Xu hướng của Trung Quốc là chuyển mục tiêu thu hút FDI từ chỗ tập
trung vào những ngành sử dụng nhiều lao động sang những ngành có giá trị
kinh tế cao và lĩnh vực dịch vụ. Trung Quốc phân chia ngành nghề đầu tư
thành bốn loại: Khuyến khích, được phép, hạn chế và cấm. Qua đó giúp các
nhà đầu tư nước ngoài biết và lựa chọn đầu tư. Trung Quốc còn có chính sách
khuyến khích đầu tư vào các vùng khó khăn như miền Trung và miền Tây,
được giảm thuế thu nhập trong 10 năm kể từ khi bắt đầu hoạt động, nới lỏng
tỷ lệ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và phát triển đô thị trong khu vực này, cho phép các địa phương được sử
dụng các biện pháp phù hợp để thu hút FDI như miễn tiền thuê đất, cho phép
thành lập doanh nghiệp liên doanh với thời hạn 99 năm. Các nước trong khu

vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia đều coi
trọng thu hút FDI từ các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Mỹ, các
nước Tây Âu để phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế tạo
1.1.2.3. Quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam về thu hút FDI
Đi lên từ con đường nghèo khó, Lại phải xoay sở chống thực dân Mỹ
và Pháp suốt hàng trăm năm, đó là những khó khắn trong việc xây dựng đất
10
nước của nước ta. Xây dựng nước đã khó, giữ nước còn khó hơn rất nhiều,
tuy sống trong cảnh hòa bình nhưng mặt sau của nó là Đảng và Chính Phủ
phải chống chọi với những thế lực thù địch. Do đó, Việt Nam rất quan tâm và
cẩn thận trong việc sử dụng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI.
Cũng giống như các nước khác, Việt Nam thu hút FDI không chỉ nhằm
hướng tới thu hút được vốn, công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến mà còn
nhằm phục vụ nhiều mục tiêu chung quan trọng khác như phát triển các ngành
kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, có vai trò cốt lõi trong chiến lược phát triển
kinh tế Nhưng Việt Nam thu hút đầu tư có chọn lọc. Nhất là hiện nay, kể từ
12/11/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
kinh tế thế giới WTO, việc thu hút đầu tư nước ngoài càng dễ dàng hơn đối
với Việt Nam, đồng thời kẻ xấu cũng có thể lợi dụng cơ hội này mà phá hoại,
mang Văn hóa xấu, tệ nạn xã hội vào Việt Nam. Chính sách của Đảng và nhà
nước Việt Nam hiện nay là học hỏi Trung Quốc, Singapo và những nước
thành công trong việc sử dụng vốn nước ngoài, đồng thời nâng cao cảnh giác
đối với các thế lực thù địch.
Hiện nay Việt Nam có sự chuyển đổi cơ cấu lớn, giảm bớt các hoạt
động nông nghiệp, nâng cao hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Việt Nam
chia đất nước thành 3 khu vực : Bắc – Trung – Nam để tiện kiểm soát và phát
huy thế mạnh của từng vùng, đồng thời Việt Nam có những chính sách
khuyến khích đầu tư vào những vùng khó khăn, từng bước xây dựng kết cấu
hạ tầng để tạo điều kiện khai thác hết những thế mạnh tìm ẩn.
Năm 1996 Việt Nam đã chỉnh sửa lại Luật Đầu tư để tăng tính lôi cuốn các

nhà đầu tư nước ngoài, năm 2000 có chính sách về đầu tư Bất Động Sản rõ
ràng hơn. Đây là những thay đổi mang tính chiến lược của Việt Nam.
1.1.3. Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn
Vấn đề mang tính quan trọng then chốt trong việc tổ chức nhằm thu hút
FDI là tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. Môi trường đầu tư là tổng thể các
11
bộ phận mà ở đó chúng tác động qua lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến
các hoạt động đầu tư. Buộc các nhà đầu tư phải tự điều chỉnh các mục đích,
hình thức và phạm vi hoạt động cho thích hợp, tạo điều kiện cho hoạt động
kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao trong kinh doanh.
Người ta có thể phân loại môi trường đầu tư theo nhiều tiêu thức khác
nhau và mỗi tiêu thức phân loại đó lại hình thành các môi trường thành phần
khác nhau:
- Căn cứ phạm vi không gian: có môi trường đầu tư nội bộ doanh
nghiệp, môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư quốc tế.
- Căn cứ vào lĩnh vực: có môi trường chính trị, môi trường luật pháp,
môi trường kinh tế, môi trường văn hoá xã hội, cơ sở hạ tầng…
- Căn cứ vào tính hấp dẫn: có môi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao,
môi trường đầu tư có tính trung bình, môi trường đầu tư có tính cạnh tranh
thấp và môi trường đầu tư không có tính cạnh tranh. Trong khuôn khổ luận
văn này, môi trường đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút FDI được thể hiện trên các
mặt sau:
1.1.3.1. Đảm bảo các quyền cơ bản của nhà đầu tư
Về quyền cơ bản và các đảm bảo cho các nhà đầu tư gồm:
Một là, đảm bảo không tước đoạt: Đảm bảo này thông thường được
quy định ở những điều khoản đầu tiên của Luật đầu tư nước ngoài cũng như
thông qua việc ký kết tham gia vào hiệp định đảm bảo đầu tư đa phương.
Hai là, đảm bảo cho những mất mát: Sự đảm bảo này diễn ra trong các
trường hợp sau: 1) Quốc hữu hoá: Các nhà đầu tư sẽ quan tâm đến việc chính
phủ một nước sẽ có thái độ như thế nào đối với vịêc quốc hữu hoá. Tại Việt

Nam, Luật qui định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị
quốc hữu hoá; có nước lại qui định rằng trong những trường hợp đặc biệt sẽ
quốc hữu hoá và có khoản đền bù xứng đáng; 2) Phá huỷ do chiến tranh:
Thông thường những thiệt hại gây ra bởi chiến tranh từ bên ngoài không được
12
đền bù nhưng những thiệt hại tạo ra từ các vấn đề của quốc gia đó như nổi
loạn, khủng bố…thì sẽ được đền bù; và 3) Tính không chuyển đổi được của
tiền tệ: Đối với đồng tiền không chuyển đổi được, nhà đầu tư nước ngoài sẽ
được hướng dẫn cách cân bằng ngoại tệ cần thiết cũng như chuyển đổi từ
đồng nội tệ sang ngoại tệ.
Ba là, chuyển (gửi) ngoại hối: Đối với các nhà đầu tư nước ngoài khả
năng tốt nhất vẫn là không có một qui định gì từ phía nước nhà. Từ đó họ có
thể chuyển các khoản tiền về nước một cách tự do. Những khoản sau đây
trong mọi trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài phải được chuyển về nước
nếu họ muốn: lợi nhuận, các khoản kiếm được khác, lợi tức đầu tư, vốn đầu
tư, gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài, lương cho nhân viên nước ngoài,
tiền bản quyền, phí kỹ thuật…
1.1.3.2. Thực thi các chiến lược bảo hộ và các ưu tiên dành cho các
nhà đầu tư và người nước ngoài
Bao gồm các vấn đề sau:
- Việc tuyển dụng người nước ngoài: Việc tuyển dụng người nước ngoài
là đảm bảo lợi ích cho các bên đầu tư. Một số quy định mà các nước thường sử
dụng để qui định để qui định việc tuyển dụng người nước ngoài như:
+ Qui định tổng số lao động nước ngoài không được vượt quá một mức
qui định nào đó.
+ Ban hành các thể cư trú cho lao động nước ngoài hay thẻ lao động
nước ngoài cũng như những quy định về đối tượng bắt buộc phải có các thẻ
đó mới được làm việc ở nước bản địa.
+ Quy định những nghành nghề cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài.
+ Quy định việc thết kế các chương trình đào tạo để thay thế lao động

nước ngoài bằng các lao động trong nước.
- Quyền sở hữu trí tuệ: Sự đảm bảo quyền sở hữu về sáng chế, nhãn
hiệu thương mại cũng là một điều kiện kích thích các nhà đầu tư.
13
- Sự ưu tiên với các nhà đầu tư chính phủ
Các khoản vay hay nguồn trợ giúp từ phía chính phủ được coi là một trong
những động lực khuyến khích đầu tư.
- Đảm bảo cho một môi trường cạnh tranh bình đẳng .
Các nhà đầu tư mong muốn việc đảm bảo cho một môi trường cạnh tranh bình
đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước với nước ngoài, giữa các nhà đầu tư
nước ngoài với nhau, giữa khu vực tư nhân và công cộng. Bao gồm:
+ Cạnh tranh nhập khẩu: Chính sách nhập khẩu của nước bản địa cần
phù hợp và tạo điều kiện cho chính sách công nghiệp của nước đó phát triển.
Các hàng hoá sản xuất trong nước thuộc những ngành đườc coi là non trẻ nên
có một thời gian được bảo hộ để cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu.
+Cạnh tranh Chính Phủ: Các chương trình của Chính phủ về hỗ trợ các
doanh nghiệp Nhà nước không được vi phạm tính cạnh tranh. Điều này đòi
hỏi Nhà nước phải phân biệt rõ ràng những ưu đãi dành cho từng khu vực.
Khu vực công cộng không được phép xâm phạm khu vực tư nhân.
+Cạnh tranh nội địa thông qua việc đánh thuế từ các hàng rào chắn
thâm nhập vào ngành công nghiệp.Điều này liên quan đến việc tạo ra sự cạnh
tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước.
1.1.3.3. Cho phép Sở hữu bất động sản của các nhà
đầu tư nước ngoài
Đây cũng có thể coi là một trong những khuyến khích đầu tư, bởi vì nó
làm cho các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng cào khẳ năng ổn định của khoản
đầu tư cũng như những quyền khác. Nói chung, đối với các nhà đầu tư thì
thuận lợi nhất vẫn là đuợc sở hữu bất động sản. Nếu việc sở hữu bất động sản
không được luật pháp cho phép thì các nhà đầu tư đòi hỏi phải được sử dụng
bất động sản trong một thời gian hợp lý.

1.1.3.4. Miễn giảm thuế
14
- Miễn thuế vốn: Chính phủ không thu thuế trên các khoản chuyển
nhượng hay phần kiếm được từ cổ phiếu.
- Miễn giảm thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp:
Sau khi kinh doanh có lãi, trong một thời gian các nhà đầu tư được
hưởng ưu đãi không phải nộp thuế. Sau một thời gian miễn thuế, các nước
tiến hành giảm thuế.
- Miễn giảm các loại thuế thu nhập khác:
Chính phủ cho phép các nhà đầu tư không phải nộp các khoản thuế địa
phương như thuế doanh thu, lợi tức.Ngành được miễn giảm có thể là ngành
định hướng xuất khẩu, hay ngành thu về nhiều ngoại tệ cho đất nước.
- Miễn giảm thuế hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu (vốn):
Chính phủ không thu thuế nhập khẩu tư liệu sản xuất (bao gồm máy
móc và các linh kiện, phụ tùng thay thế, nguyên nhiên vật liệu) phục vụ các
ngành khuyến khích như ngành hướng vào xuất khẩu, hay các ngành thực
hiện chiến lược hoá công nghiệp đất nước, các dự án khuyến khích đầu tư.
- Miễn thuế bản quyền: Việc miễn thuế bản quyền nhằm khuyến khích
các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ vào nước bản địa. Tuy
nhiên các Chính phủ cũng cân nhắc xem nên miễn thuế bản quyền trong suốt
thời gian hợp đồng hay chỉ miễn thuế cho một số năm.
- Miễn các loại thuế và chi phí khác: Các loại thuế và chi phí khác
đựơc miễn bao gồm nhiều dạng như thuế thu nhập cá nhân đối với chuyên gia
kỹ thuật nước ngoài làm việc trong các khu vực được ưu tiên; các khoản thuế
doanh thu hay các mức thuế đặc biệt khi mới khởi sự kinh doanh…Việc ký
kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần cũng là một khuyến khích đối với
các nhà đầu tư bởi vì nó miễn trừ việc nộp thuế thu nhập cá nhân trong một
khoảng thời gian nhất định nào đó.
15
Trong một số dự án khuyến khích đầu tư, các nhà đầu tư còn được

hưởng ưu đãi về giá cho thuê đất và các chi phí khác trong quá trình triển khai
và vận hành dự án.
1.1.3.5. Thực hiện những khoản trợ cấp của chính phủ
- Các chi phí tổ chức và tiền vận hành: Chính phủ nước bản địa có thể
cho phép tính này vào chi phí của dự án trong một thời gian nhất định.
- Tái đầu tư: Nếu dùng lợi nhuận để tái đầu tư thì sẽ được hưởng những
ưu đãi nhất định.
- Trợ cấp đầu tư: Là cho phép một tỷ nhất định của khoản vốn đầu tư
không phải chịu những nghĩa vụ về đầu tư trong khoảng thời gian nhất định.
- Các khoản khấu trừ khác: Các khoản khấu trừ này có thể tồn tại dưới
có những quy định đặc biệt đối với một số ngành như cho phép được miễn trừ
gấp 2 lần về giá trị cũng như về mặt thời gian ban hành những quy định ưu
đãi chỉ riêng cho một dự án nào đó.
- Tín dụng thuế đầu tư: Đây thực chất là biện pháp mà chính phủ sử
dụng nhằm khuyến khích và cũng để giúp các nhà đầu tư tăng vốn đầu tư như
trợ cấp đầu tư, trả lại những nghĩa vụ về thuế đã phải nộp cho nhà đầu tư nếu
nhà đầu tư phải tái đầu tư
- Các khoản tín dụng thuế khác:
Để khuyến khích các nhà đầu tư, một khoản thu nhập có nguồn gốc từ
nước ngoài mà đã chịu thuế ở nước ngoài có thể được đưa vào để xin miễn
giảm ở trong nước có thể sử dụng như những khoản tín dụng đầu tư
1.1.3.6. Tiến hành các khuyến khích đặc biệt đối với nhà đầu tư
- Đối với các công ty đa quốc gia:
Các công ty này là một nguồn cung cấp vốn đầu tư lớn trên thế giới nên
việc có những khuyến khích đặc biệt với các công ty đa quốc gia là cần thiết.
16
Tuy nhiên các chính phủ phải cân nhắc xem nên thực hiện những khuyến khích
đặc biệt đó như thế nào để vẫn đảm bảo nguyên tắc “ sân chơi bình đẳng ”.
Một sồ trường hợp đã sử dụng các khuyến khích đặc biệt:
+ Coi những công ty đa quốc gia như những công ty được ghi tên ở thị

trường chứng khoán và cho hưởng những ưu đãi tương tự
+Cho phép các công ty đa quốc gia được thành lập các công ty cổ phần
+ Khuyến khích các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ và
thực hiện mua sắm trong nội bộ hãng cũng như khuyến khích việc thiết
lập các trụ sở chính bằng việc cho phép thành lập các trung tâm mua sắm
của công ty đa quốc gia đó ở nước bản địa và đơn giản hoá các thủ tục hải
quan, các đòi hỏi về quản lý ngoại hối, đăng ký làm thẻ cho nhân viên …
Việc thành lập các khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ tập
trung cũng là một biện pháp khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt
động ở nước bản địa.
- Đối với các cơ quan tài chính hải ngoại. Việc khuyến khích thành lập
các công ty này cũng có nghĩa là khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư vào bản địa. Do đó chính phủ nước bản địa có xu hướng miễn giảm các
khoản thuế và nghĩa vụ tài chính cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra
đời và hoạt động của các cơ quan tài chính hải ngoại .
1.1.3.7. Xây dựng và thực thi các luật tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài
Đây là những qui định riêng nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư
nước ngoài tiến hành công việc kinh doanh ở nước bản địa. Nhóm này bao
gồm những khuyến khích phi tài chính như cho phép tuyể dụng nhân công
nước ngoài không hạn chế, đảm bảo việc chuyển nhược và hồi hương của vốn
và lợi nhuận ; ký kết các hiệp định ; sự cho phép bán hàng tiêu dùng đến
người tiêu dùng cuối cùng không phải thông qua các đại lý hay công ty
thương mại, sở hữu đất đai .
17
1.2. VAI TRÒ CỦA FDI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Hầu hết các nước ĐPT có trình độ kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật
lạc hậu hoặc mới có sự phát triển, năng suất lao động và mức sống dân cư còn
thấp, tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng dân số cao, kinh tế còn bị phụ thuộc
tương đối vào các nước phát triển. Khi thực hiện CNH, các nước ĐPT đã vấp

phải những thách thức, mâu thuẫn gay gắt giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế
với sự hạn hẹp về nguồn nội lực; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển bền vững
với tình trạng đói nghèo, bất bình đẳng và suy thoái môi trường; mâu thuẫn
giữa nhu cầu ổn định để phát triển với tình hình phức tạp về an ninh, chính trị
và xung đột; mâu thuẫn giữa nhu cầu giao lưu, tiếp thu nền văn minh thế giới
với bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống
Do vậy, để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, hội nhập KTQT, bên
cạnh việc phát huy mọi tiềm năng nội lực, các nước ĐPT còn phải tranh thủ
tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, trong đó nguồn vốn FDI có những ưu thế
hơn so với các nguồn vốn nước ngoài khác. Xét trên giác độ là nước nhận đầu
tư, FDI có những tác động tới các nước ĐPT như sau:
1.2.1.Vai trò tích cực của FDI đối với phát triển nền kinh tế
1.2.1.1. Thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức
Thứ nhất, cung cấp vốn:
Bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều phải tăng cường vốn đầu tư,
nhất là quá trình thực hiện CNH. Vốn đầu tư có thể huy động từ hai nguồn
chủ yếu từ trong nước và ngoài nước. Các nước ĐPT do xuất phát điểm và
quy mô nền kinh tế còn thấp nên việc huy động vốn từ trong nước rất hạn chế.
Nguồn vốn huy động bên ngoài có thể thông qua viện trợ, vay thương mại,
đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp. Nhưng trong điều kiện ngày nay, nguồn vốn
viện trợ có rất nhiều hạn chế, vay thương mại thì sẽ dẫn đến gánh nặng nợ nần
đồng thời làm cho nền kinh tế phát triển không ổn định và luôn tiềm ẩn nguy
18
cơ khủng hoảng, lạm phát, chưa kể bị thua thiệt bởi tình trạng bất bình đẳng
và các điều kiện áp đặt từ bên ngoài. Do đó, thu hút FDI là giải pháp hữu hiệu
để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển đất nước.
Trong những thập kỷ qua, dòng vốn FDI vào các nước ĐPT không
ngừng được tăng lên. Nếu trước những năm 1985, tổng dòng FDI vào các
nước ĐPT chỉ đạt bình quân 6,5 tỷ USD/năm (tăng bình quân 1,7%/năm), thì

năm 1985 đạt 15 tỷ USD ; năm 1995 đạt 100 tỷ USD; năm 2000 đạt 274 tỷ
USD (chiếm 19,5% tổng FDI thế giới); các năm 2001, 2002, 2003 bị giảm sút
cùng với tình trạng chung của dòng FDI thế giới với số vốn tương ứng là 232
tỷ USD, 193 tỷ USD, 187 tỷ USD; từ năm 2004 đã phục hồi và bắt đầu tăng
nhanh, đạt 230 tỷ USD năm 2004 (tăng 22,8%, chiếm 30% tổng dòng FDI thế
giới); năm 2005 đạt 255 tỷ USD và đến năm 2008 con số này đạt 385 tỷ USD.
Nguồn vốn FDI chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư xã hội cũng
như GDP, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng kinh tế của các
nước ĐPT đạt 5,6% năm 2000, tiếp theo các năm từ 2001 – 2003 lần lượt là
2,4%, 3,6%, 4,9%, năm 2004 đã tăng trưởng cao trở lại với mức 6,6,%, năm
2008 là 10,8%. (Nguồn: http:/www.vneconomy.com.vn/số liệu thống kê).
Nguồn vốn FDI được đầu tư vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế,
không chỉ vốn bằng tiền mà phần lớn biểu hiện dưới dạng tài sản cố định,
thời gian đầu tư dài nên đây là nguồn vốn khá ổn định, các nhà đầu tư
không dễ gì rút vốn nhanh được. Do đó, các nước tiếp nhận nguồn vốn này
không sợ tình trạng vốn "ào đến, ào đi" như một số hình thức đầu tư khác,
chưa kể trong quá trình hoạt động nhiều dự án FDI còn tăng vốn, tái đầu tư
từ lợi nhuận để mở rộng sản xuất Tiếp nhận vốn thông qua FDI, nước
nhận đầu tư tránh được khoản nợ nước ngoài, đồng thời cùng với việc tiếp
nhận vốn làm tăng lượng tiền và tài sản cho nền kinh tế, dưới sự tác động
của FDI nguồn vốn đầu tư trong nước cũng được huy động một cách có
hiệu quả tạo nên tổng nguồn vốn lớn thúc đẩy tăng GDP, cải thiện cán cân
19
thanh toán quốc tế, tạo nguồn thu cho ngân sách, tạo cơ sở kinh tế để củng
cố sức mạnh của đồng bản tệ.
Thứ hai, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến
Khoa học công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế, nhưng hầu hết các nước ĐPT trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn
chung còn thấp kém, chủ yếu là công nghệ cổ truyền, lạc hậu, năng suất thấp.
Trong khi đó, khả năng tự nghiên cứu rất khó khăn và hiệu quả thấp vì thiếu

vốn nên rất cần sự chuyển giao công nghệ từ bên ngoài. Tiếp nhận công nghệ
từ bên ngoài có thể thông qua các kênh nhập khẩu công nghệ, viện trợ và trao
đổi khoa học. Một số nước trước đây như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo đã
thực hiện việc mua bằng phát minh, sáng chế từ nước ngoài. Con đường này
giúp các nước chủ động tạo lập được công nghệ, ít phụ thuộc vào nước ngoài,
nhưng không phải quốc gia nào cũng làm được vì đòi hỏi phải có lượng vốn
lớn. Vì thế, hầu hết các nước ĐPT phải tìm đến con đường tiếp nhận công
nghệ thông qua các dự án FDI để phục vụ quá trình CNH đất nước. Trên thực
tế, hoạt động FDI là kênh quan trọng trong việc chuyển giao cũng như nâng
cao trình độ công nghệ của các nước ĐPT.
Thực tiễn cho thấy, để khai thác lợi thế độc quyền và đạt hiệu quả kinh
tế cao, cùng với việc bỏ vốn đầu tư, các TNCs phải sử dụng công nghệ hiện
đại như: công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công
nghệ quản lý, công nghệ Marketing, kể cả độc quyền về phát minh sáng chế,
mẫu mã sản phẩm, bí quyết kinh doanh Từ đó tạo cơ hội cho các nước ĐPT
không chỉ tiếp nhận được công nghệ đơn thuần mà còn nắm vững cả kỹ năng,
nguyên lý vận hành, sửa chữa, hơn nữa còn tiếp cận được cả những công nghệ
hiện đại mới, giúp cho việc rút ngắn khoảng cách về công nghệ so với các
nước phát triển.
20
Hoạt động FDI còn có vai trò thúc ép các doanh nghiệp trong nước đổi
mới công nghệ để cạnh tranh, tồn tại và phát triển, nó cũng tạo cơ hội cho
doanh nghiệp trong nước tiếp thu công nghệ từ doanh nghiệp FDI thông qua
hoạt động liên doanh, hợp tác, tiếp xúc, phổ biến công nghệ, di chuyển lao
động giữa các doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện ngày nay, các phát
minh công nghệ, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) không chỉ được
thực hiện ở các nước phát triển mà các TNCs đã thực hiện nghiên cứu những
công nghệ không đòi hỏi trình độ hiện đại, chi phí không lớn tại các nước
ĐPT để khai thác lợi thế về nguồn lao động rẻ, thời gian ứng dụng nhanh.
Như vậy, doanh nghiệp FDI có nhiều lợi thế, nhanh nhạy hơn trong việc đổi

mới công nghệ, làm cho trình độ công nghệ của nước ĐPT được nâng lên.
Cùng với việc chuyển giao công nghệ, nhất là kỹ năng sử dụng dây chuyền
công nghệ, công nghệ phần mềm đã đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải nâng
cao trình độ kỹ năng và kinh nghiệm công tác. Hiệu quả này được thể hiện rõ
nhất trong các doanh nghiệp liên doanh, ở đó cán bộ quản lý phía nước chủ
nhà có điều kiện học hỏi kinh nghiệm, nâng cao năng lực quản lý và kiến thức
kinh doanh hiện đại thông qua việc đánh giá và xây dựng dự án, tổ chức điều
hành doanh nghiệp, nghiên cứu mở rộng thị trường và tổ chức mạng lưới dịch
vụ tiếp thị, phân phối sản phẩm
Thứ ba, vai trò của FDI đối với xây dựng kết cấu hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là một vấn đề mà kể cả các nước đầu tư hay nước nhận
đầu tư đều trú trọng đến. Đối với nước đầu tư, kết cấu hạ tầng tốt sẽ tạo điều
kiện dễ dàng cho họ đầu tư và khai thác, tiết kiệm được chi phí nguyên nhiên
liệu, giảm bớt phí đầu tư và dễ dàng sử dụng lao động. Ngoài ra, các lĩnh vực
về Giao thông vận tải, y tế, giáo dục… cũng mang lại cho các nước đầu tư
một khoảng thu khổng lồ. Ngoài những lợi nhuận mà các nước đầu tư đạt
được, thì đâu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cũng biểu hiện tính hữu nghị giữa
hai quốc gia.
21
Đối với nước nhận đầu tư, được đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng,
góp phần xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp, kết cấu hạ tâng phát triển
đồng thời kéo theo sự phát triển kinh tế của đất nước, tiếp thu những ý
tưởng của nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận nền khoa học của
các nước phát triển.
Đối với nước ta, sau khi Đảng và nhà nước ban hành luật đầu tư nước
ngoài 1996 đã đa dạng hoá các hình thức đầu tư theo loại hình này. Đó là hình
thứ BOT, BTO, BT. Trong nghị định 62/1998/NĐ- CP ngày 15/8/1998 ban
hành quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh – chuyển
giao, hợp đồng xây dựng- chuyển giao-kinh doanh và hợp đồng xây dựng –
chuyển giao áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Theo quy chế này những điều kiện ưu đãi nhất đối với hoạt động FDI
đã được giành cho nhà đầu tư dưới hình thức này.
Do những điều kiện ưu đãi và đa dạng hoá hình thức đầu tư cùng với
những điều kiện khác về đầu tư, ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư theo hình thức BOT.
Thứ tư, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, sử dụng vốn nội địa linh hoạt và có
hiệu quả hơn:
Hầu hết các nước ĐPT khi bước vào CNH đều có nền kinh tế lạc hậu,
nông nghiệp là chủ yếu. Trong quá trình tiến hành CNH, thu hút FDI ở thời
kỳ đầu chủ yếu tập trung vào các ngành sử dụng nhiều lao động như công
nghiệp chế biến, công nghiệp may mặc đồng thời cũng tập trung vào các
ngành, lĩnh vực có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao. Mấy thập kỷ gần đây
khu vực công nghiệp và dịch vụ có xu hướng thu hút FDI nhanh và nhiều hơn
khu vực nông nghiệp và nhiều ngành khác, làm cho nền kinh tế chuyển dịch
theo mục tiêu CNH. Từ năm 1985 đến 2008, tỷ trọng ngành nông nghiệp
trong tổng sản phẩm trong nước của Thái Lan giảm từ 15,8% xuống còn
5,9%; Inđônêxia giảm từ 23,2% xuống 10,4%; Philippin giảm từ 24,6%
22
xuống 12,3%; Việt Nam giảm từ 40,2% xuống 15,8%; các nước Đông Á -
Thái Bình Dương giảm từ 26,7% xuống 11,6%; các nước Mỹ Latinh và
Caribê giảm từ 10,9% xuống 4,7% [23].
Trong mỗi ngành kinh tế, FDI có vai trò thúc đẩy các ngành kinh tế
mũi nhọn. Đối với ngành công nghiệp và dịch vụ, dòng vốn FDI đầu tư chủ
yếu tập trung vào các KCN, KCX, khu CNC, từ đó chẳng những làm tăng
nhanh tỷ trọng sản lượng công nghiệp, dịch vụ mà còn tạo ra những sản phẩm
hàng hóa kết tinh hàm lượng tri thức cao. Hay trong nông nghiệp, FDI tăng
nhanh vào công nghiệp chế biến tạo ra những sản phẩm có giá trị kinh tế cao
đã làm thay đổi cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng tích cực.
Các nước ĐPT còn có những chính sách khuyến khích thu hút FDI vào những
ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế theo mục tiêu phát triển cân đối giữa các ngành,

vùng kinh tế, đồng thời đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hạ
tầng giao thông đã tạo cơ hội cho những vùng khó khăn có điều kiện phát
triển đời sống kinh tế. FDI cũng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu
vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Nhiều nghiên cứu cho
thấy, FDI còn có tác động lan toả kích thích nguồn vốn trong nước hoạt động
có hiệu quả hơn.
1.2.1.2. Phát triển nền kinh tế hội nhập quốc tế
Một là, thúc đẩy tiến trình hội nhập, hoàn thiện hệ thống luật pháp
Hoạt động FDI chẳng những có vai trò gắn kết quan hệ giữa quốc gia
có vốn đầu tư và quốc gia nhận đầu tư mà còn góp phần mở rộng quan hệ với
các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực. Để cạnh tranh thu hút FDI, cùng với
việc tham gia vào các tổ chức, thể chế quốc tế và khu vực, các nước phải tìm
hiểu thể chế, luật pháp quốc tế và thực hiện các cam kết về tự do hóa thương
mại và đầu tư. Hợp tác và cạnh tranh để phát triển vừa là yêu cầu, vừa là điều
kiện để hội nhập KTQT ngày một sâu rộng hơn.
23

×