Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

thực trạng rối nhiễu hành vi của học sinh trường trung học cơ sở kim đồng - quận hải châu- tp. đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.77 KB, 69 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc sức khỏe tâm lý, tâm thần cho học sinh là một vấn đề cần được
quan tâm, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi mà cuộc sống công nghiệp hoá
đang ngày càng tạo ra những khoảng cách về tình cảm giữa những người
thân, những thế hệ trong mỗi gia đình. Một số hiện tượng bất ổn về tâm lý dẫn
đến các hành vi sa ngã, phạm tội của các em học sinh trong thời gian qua đã
cảnh báo các vấn đề về rối loạn phát triển tâm lý, hành vi và cảm xúc của học
sinh đang rất cần được gia đình, nhà trường và xã hội chú ý quan tâm.
Bên cạnh những trẻ mắc các chứng rối loạn tâm thần do bệnh lý, có khá
nhiều trẻ có vấn đề về rối loạn phát triển tâm lý, hành vi và cảm xúc. Biểu
hiện có thể là: rối loạn phát triển lời nói và ngôn ngữ, rối loạn phát triển kỹ
năng nhà trường, tăng động, rối loạn hành vi, lo âu, trầm cảm, tự kỷ Ngoài
ra còn có một số rối loạn khác như : có hung tính, trộm cắp, tệ nạn xã hội, đua
xe, đánh nhau, quan hệ tình dục không lành mạnh Một số em rơi vào trạng
thái stress, vướng mắc trong đời sống hàng ngày và các em có nhu cầu tư vấn
về sức khỏe sinh sản, tình bạn, tình yêu ở lứa tuổi học trò.
Nguyên nhân là do xã hội chúng ta đang ngày càng phát triển theo xu thế
hiện đại, bất kể ai cũng có thể rơi vào trạng thái stress do áp lực cuộc sống
qua lớn. Riêng ở lứa tuổi thanh thiếu niên, đa phần nguyên nhân của các rối
nhiễu tâm lý và rối loạn tâm thần là do yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội
tạo nên. Ở đây có thể kể đến một số yếu tố chủ yếu: áp lực học tập, thất bại
trong thi cử, bạo lực gia đình, gia đình ly tán, bị bạn bè xấu lôi kéo, các tệ nạn
xã hội như rượu chè, ma túy, thuốc lắc, vũ trường, phim ảnh bạo lực, khiêu
dâm Đặc biệt, giới trẻ ngày nay được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin từ
rất sớm thông qua Internet và các phương tiện hiện đại khác. Mặt trái của nó
là đã góp phần tạo nên các biểu hiện của nếp sống lệch lạc, dẫn đến các rối
nhiễu tâm lý và rối loạn tâm thần. Bên cạnh đó, các em chưa được trang bị
1
nhiều kiến thức về giới, về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tâm thần và cách
phòng tránh. Nhiều em quen được sống trong sự bao bọc nên khi rơi vào các


tình huống gây stress thì không thể vượt qua. Dẫn đến những hành vi sai trái,
lệch lạc như: trộm cắp, chốn học, bỏ nhà qua đêm thậm chí có những hành vi
khiêu khích, láo xược, gây gổ, xâm phạm, phá hoại và nổi khùng làm ảnh
hưởng xấu tới sự phát triển nhân cách của các em.
Như vậy vấn đề về sức khoẻ tâm thần và các rối nhiễu tâm lý ở học
sinh hiện nay là một hiện tượng đáng báo động cần phải có những phương
hướng điều chỉnh và giải quyết giúp ngăn chặn và đẩy lùi những rối nhiễu
hành vi không đáng có ở thanh thiếu niên đặc biệt là độ tuổi học sinh trung
học cơ sở. Nhận thức đây là vấn đề cấp thiết không phải của riêng ngành giáo
dục mà của toàn xã hội nên tôi tiến hành nghiên cứu tìm hiểu những rối nhiễu
hành vi của các em học sinh tại cơ sở thực tập ( trường THCS Kim Đồng-
Quận Hải Châu-TP. Đà Nẵng) để biết được thực trạng rối nhiễu hành vi và
biểu hiện rối nhiễu hành vi của các em học sinh. Từ đó đưa ra lời khuyến cáo
giúp các bậc phụ huynh cũng như cán bộ giáo dục và các cơ quan có trách
nhiệm có những biện pháp điều chỉnh và ngăn chặn hiện tượng trên. Đồng
thời giúp các em có những hành vi theo đúng chuẩn mực đạo đức và pháp
luật.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng rối nhiễu hành vi của học sinh trường trung học cơ
sở Kim Đồng - quận Hải Châu-Thành phố Đà Nẵng.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hỗ trợ cho gia đình và nhà
trường giúp đỡ các em điều chỉnh lại những hành vi lệch chuẩn.
3.Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng rối nhiễu hành vi của học sinh trường trung học cơ sở Kim
Đồng- Quận hải Châu - Thành phố Đà Nẵng.
2
3.2 Khách thể nghiên cứu
Học sinh Trường Trung học cơ sở Kim Đồng- Quận Hải Châu- Thành Phố
Đà Nẵng.

3.3 Đối tượng khảo sát
300 học sinh trường THCS Kim Đồng - Quận Hải Châu- Thành Phố Đà
Nẵng được phân loại theo bảng sau:
Khối
Số lượng Giới tính
Nam Nữ
Khối 6 100 49 51
Khối 7 100 58 42
Khối 8 100 49 51
Tổng 300 156 144
3.4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khuôn khổ của đề tài chỉ nghiên cứu 300 học sinh trường THCS Kim Đồng
- Quận Hải Châu- Thành Phố Đà Nẵng.
Về nội dung của đề tài, chủ yếu đánh giá học sinh có rối nhiễu hành vi hay
không, và thực trạng rối nhiễu hành vi .
4.Giả thuyết khoa học
Học sinh THCS Kim Đồng - Quận Hải Châu-Thành phố Đà Nẵng hiện nay
có những biểu hiện về rối nhiễu hành vi. Biểu hiện rối nhiễu hành vi chủ yếu
rơi vào những hành vi xã hội, điều này đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập,
và sự phát triển nhân cách của các em.
Đã có một số các em có biểu hiện rối nhiễu về cảm xúc, đạo đức, hoạt động
và kỹ năng xã hội.
Mức độ biểu hiện rối nhiễu hành vi cuả học sinh có sự khác nhau về thang
bậc, khối lớp ,và có sự khác nhau giữa học sinh Nam với học sinh Nữ.

3
5. Nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về rối nhiễu hành vi của học sinh
Tìm hiểu và đánh giá mức độ, biểu hiện rối nhiễu hành vi của học sinh
THCS Kim Đồng - Quận Hải Châu Thành phố Đà Nẵng.

Đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm giúp gia đình và nhà trường
có biện pháp phù hợp khắc phục và điều chỉnh hành vi cho các em, mang lại
sự phát triển toàn diện về nhân cách và sức khoẻ tâm thần cho các em học
sinh.
6. Các phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc sách, tổng hợp và phân tích tài
liệu lý luận .
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp phát test điều tra
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp quan sát.
a.Công cụ nghiên cứu
Sử dụng thang đánh giá hành vi SDQ-DN-1, SDQ-DN-2
b.Các yếu tố liên quan
- Biến số độc lập
+ Khối ( tuổi )
+ Giới tính
+ Cảm xúc
+ Đạo đức
+ Hiếu động
+ Nhóm bạn
+ Kỹ năng xã hội
- Biến số phụ thuộc
4
Tình trạng rối nhiễu hành vi của học sinh trường THCS Kim Đồng - Quận
Hải Châu – Thành Phố Đà Nẵng
6.3.Phương pháp thống kê và xử lý số liệu.
Sử dụng Microsoft Excel để thống kê số liệu
7.Cấu trúc :
Đề tài gồm 3 phần

A. Mở đầu
B. Nội dung
Chương I.Những cơ sở lý luận về vấn đề
Chương II.Các kết quả cụ thể
C. Kết luận
5
B. NỘI DUNG
Chương I.Những cơ sở lý luận về vấn đề
1.Tổng quan nghiên cứu về rối nhiễu hành vi
1.1.Lịch sử phân loại các rối nhiễu tâm bệnh
Rối nhiễu tâm bệnh đã được nghiên cứu từ rất lâu và đến cuối thế kỉ XVIII,
đầu thế kỉ XIX đã có những bảng phân loại rối nhiễu tâm bệnh của Pháp và
Nga.
Từ năm 1960 đến nay, tố chức Y tế thế giới đã quan tâm cải tiến việc chẩn
đoán và phân loại các rối nhiễu tâm bệnh. Tổ chức Y tế thế giới đã tiến hành
hai công việc lớn là:
- Đưa ra một bản danh pháp với nội dung các thuật ngữ và xắp xếp phân
loại các rối nhiễu tâm lý.
- Kết quả đã cho ra đời bảng phân loại bệnh quốc tế, chỉnh lí lần thư 8
( PLBQT-8, năm 1968).Trong đó chương V giới thiệu về các rối nhiễu
tâm bệnh.
Năm 1974 tổ chức Y tế thế giới xuất bản tập “Chú giải các rối nhiễu tâm bệnh
và hướng dẫn phân loại” để dùng cùng với bảng phân loại bệnh quốc tế 8.
Năm 1978 cải tiến PLBQT-9, và tập chú giải.
Năm 1987 dự thảo bảng PLBQT -10. Trong đó phần trình bày về các rối
nhiễu tâm bệnh. Bảng PLBQT- 10 dự thảo được thử nghiệm tại hơn 100 trung
tâm nghiên cứu lâm sàng tại 40 nước.
Năm 1992 Bảng PLBQT -10 chính thức được xuất bản. Đây là kết quả
nghiên cứu nhiều năm của 915 nhà Tâm bệnh học có trình độ chuyên môn cao
của 52 quốc gia. Bảng phân loại bệnh này mang tính quốc tế vì phản ánh được

hầu hết các trường phái và truyền thống chủ yếu về Tâm bệnh học trên thế
giới.
6
* Bảng PLBQT- 10 (F) có nhiều ưu điểm cụ thể là:
- Không dùng từ “bệnh” ( diesases) để tránh gán ghép mức độ trầm trọng
và phức tạp có thể do từ “bệnh” gây ra .Thay từ bệnh bằng từ “rối nhiễu”
( disorders).
- Mô tả lâm sàng chi tiết, có nhiều mục chính xác cho trẻ em và thanh thiếu
niên
- Hướng cẫn các tiêu chuẩm chẩn đoán cụ thể.
- Sử dụng dễ dàng, tiện lợi, làm ngôn ngữ chung trong thực hành lâm sàng
nghiên cứu và giảng dạy ở trong nước và trên thế giới.
Tuy nhiên bảng PLBQT-10 (F) còn có những tồn tại là chưa phân định rạch
ròi tính độc lập bệnh lý do chưa hiểuu rõ bệnh căn , bệnh sinh, mà điều này
đòi hỏi phải có một thời gian dài tập trung nghiên cứu.
Song song với bảng phân loai bệnh quốc tế của Tổ chức Y tế thế giới, còn
có bảng phân loaị tâm bệnh của Hội Tâm thần học Mỹ DSM. Vào khoảng đầu
năm 1970 Hội Tâm thần học Mỹ đã xây dựng bảng phân loại tâm bệnh ( DSM
II).Năm 1980 xất bản bảng phân loại DSM II với nhiều chi tiết sửa đổi bổ
xung cho DSM II.
Năm 1987 ra đời DSM III R đã đưa ra nhiều tiêu chuẩn làm tăng độ tin cậy
trong chẩn đoán .Trong những năm của thập kỷ 90, Hội Tâm thần học Mỹ
đưa ra bảng phân loại DSM IV.
Các nhà Tâm bệnh học Pháp cũng luôn tiến hành nghiên cứu hoàn thiện các
bảng phân loại tâm bệnh.
Năm 1993 Pháp đã xây dựng bảng phân loại rối nhiễu tâm lý trẻ em và
thanh thiếu niên. Năm 1996 Trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻ em của bác sĩ
Nguyễn Khắc Viện (N-T) đã sử dụng bảng phân loại của Pháp để phân loại
trong nghiên cứu các rối nhiễu tâm lí ở Việt Nam .
Như vậy, trên thế giới có nhiều bảng phân loại rối nhiễu tâm lí. Việc phân

loại các rối nhiễu tâm lí phụ thuộc vào sự tiến bộ của Tâm thần học, vào quan
7
điểm tiếp cận các cấu trúc Tâm bệnh lí. Tuy nhiên công việc tiên quyết đối
với các nhà Tâm bệnh học là việc chẩn đoán nhận dạng các triệu chứng rối
loạn một cách rạch ròi. Muốn làm được điều đó đòi hỏi có sự hiểu biết về
Tâm bệnh học, phải có trình độ lâm sàng.
1.2.Lịch sử nghiên cứu rối loạn hành vi trong và ngoài nước
1.2.1.Lịch sử nghiên cứu rối loạn hành vi trên thế giới
Từ cuối thập kỉ 60, rối loạn hành vi ở thanh -thiếu niên đã là một vấn đề
tâm lý xã hội làm bối rối xã hội Phương Tây
Năm 1940, Hewitt và Jenkins, khi nghiên cứu những vị thành niên phạm
pháp, đã bắt đầu phân loại chúng theo những nhóm rối loạn khác nhau. Đến
các thập kỉ 60 và 70, Quay và cộng sự đã hoàn chỉnh việc mô tả và phân loại
các rối loạn hành vi của thanh thiếu niên phạm pháp. Những kết quả nghiên
cứu của các tác giả trên được phản ánh một phần trong danh mục rối loạn
hành vi ( 321) của bảng phân loại bệnh quốc tế 9 ( 1979) gồm các mục nhỏ
sau:
* 312-0: Rối loạn hành vi riêng lẻ ( khiêu khích, láo xược, gây gổ, xâm
phạm, phá hoại, nổi khùng, nói dối, thô bạo, rối loạn tình dục )
*312-1: Rối loạn hành vi theo nhóm ( trộm cắp, trốn học, bỏ nhà qua đêm )
* 312-2: Rối loạn hành vi xung động ( xung động, trộm cắp).
* 312-3: Rối loạn hành vi và rối loạn cảm xúc hỗn hợp ( lo âu, tuyệt vọng , sợ
ám ảnh).
Theo dự thảo bảng phân loại bệnh quốc tế 10(1988), mục rối loạn hành vi
được sửu đổi như sau:
• F91-0 : Rối loạn hành vi khu trú trong môi trường gia đình
• F91-1 :Rối loạn hành vi ở những người kém thích ứng xã hội
• F91-2 :Rối loạn hành vi ở những người còn thích ứng xã hội
8
1.2.2.Lịch sử nghiên cứu rối loạn hành vi ở Việt Nam

Hiện nay ,vấn đề rối loạn hành vi đang phát triển ở Việt nam và đã trở
thành mối lo ngại của từng gia đình và cả xã hội .
Nghành tâm thấn học Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu rối loạn hành vi
trên các đối tượng từ 10-17 tuổi, trong phạm vi nghiên cứu cả nước , dựa theo
các tiêu chuẩn chẩn đoán của mục F91, Bảng dự thảo phân loại bệnh quốc tế
10 .Tỉ lệ thanh-thiếu niên có rối loạn hành vi ( nghiên cứu 21.960 thanh- thiếu
niên từ 10-17 tuổi trong số 24.134 người) là 3,7%. Đó là hiện tượng đáng lo
ngại.
Ở nước ta , rối loạn hành vi là rối loạn tâm lý xã hội, xuất hiện rõ nét từ sau
1975. Tháng 11-1989 một số công trình gnhiên cứu đã được trình bày trong
Hội thảo quốc gia về rối loạn hành vi ở thanh – thiếu niên tại Hà Nội.
2.Lý luận về rối nhiễu hành vi
2.1.Khái niệm hành vi
* Sinh học: Hành vi là cách sống và hoạt động trong một môi trường nhất
định, dựa trên sự cần thiết để cơ thể thích nghi với môi trường .
* Phân tâm học: Hành vi là cách hợp lực, cách thoả hiệp bắt nguồn từ sự xung
đột giữa nguyên lý khoái cảm và nguyên lý thực tế, là những xung lực của cái
ấy và những cấm kỵ của cái siêu tôi được thống hợp trong bản thân cái tôi.
* Tập tính học: ( Pavlốp và những người kế tục ở Nga, Watson và những
người kế tục ở Mỹ) đã cho ra đời thuật ngữ hành vi. Hành vi bao hàm một
loạt các hành vi giác động do các phản xạ có điều kiện tạo nên và quan sát
được từ bên ngoài.
Học thuyết này nhấn mạnh tính khách quan tức là các yêu tố bên ngoài có thể
quan sát được. Tâm lý học hành vi không lấy việc quan sát nội tâm làm cơ sở
và chỉ nghiên cứu những hành vi có thể đứng ngoài mà quan sát như bất kỳ
một hiện tượng tự nhiên nào.
* Từ điển Tâm lý học (Nguyễn Văn Lũy- Lê Quang Sơn)
9
Hành vi là hình thức biểu hiện tính tích cực vận động có thể quan sát được
từ bên ngoài của những thực thế sống, bao gồm từ những thời điểm cử động

đến mắt xích thực hiện ở trình độ cao sự tác động qua lại của cơ thể với môi
trường xung quanh.
Hành vi là một hệ thống có mục đích rõ ràng được thực hiện liên tiếp.
Những hành động này tiến hành sự tiếp xúc thực tế của cơ thể với những điều
kiện xung quanh tạo ra những mối liên hệ của thực thể sống với những tính
chất của môi trường. Sự bảo toàn và phát triển cuộc sống của chúng phụ thuộc
vào những tính chất này. Những điều kiện xung quanh chuẩn bị thỏa mãn nhu
cầu của cơ thể, đảm bảo sự đạt được những mục đích nhất dịnh.
Nguồn gốc của hành vi là những nhu cầu của thực thể sống, hành vi được
thực hiện như một thể thống nhất của các mắt xích tâm lý – kích thích, điều
khiển, thể hiện ( thể hiện trong điều kiện những đối tượng nhu cầu và đam mê
của thực thể ) và những hành động thực hiện bên ngoài làm cho cơ thể liên hệ
với những đối tượng xác định hoặc làm cho cơ thể tách biệt khỏi chúng cũng
như cải tạo chúng.
Sự thay đổi hành vi trong quá trình phát sinh loài là do sự phức tạp hóa
những điều kiện tồn tại của những thực thể sống, chuyển chúng từ môi trường
thuần nhất sang môi trường có đối tượng, sau đó là môi trường xã hội . Những
quy luật chung của hành vi – đó là những quy luật hoạt động phản xạ phân
tích – tổng hợp của thực thể sống. Những quy luật này dựa trên những quy
luật sinh lý hoạt động của não, nhưng không đồng nhất với chúng. Hành vi
của con người luôn bị chế ước bởi xã hội và mang những đặc tính của hoạt
động có ý thức, tập thể, hữu ích, chủ định và sáng tạo.
Ở mức độ hoạt động bị quy định bởi đời sống xã hội, thuật ngữ “ hành vi”
có nghĩa như những hành động của con người trong mối quan hệ với xã hội,
với những người khác và thế giới đối tượng. Nó được xem xét như là những
hành động được điều khiển bởi những chuẩn mực xã hội về đạo đức và quyền
10
lợi (ví dụ những hành vi đạo đức cao cả, tội lỗi và nông nổi). Những đơn vị
của hành vi là những hành động, trong đó hình thành và đồng thời thể hiện vị
thế của nhân cách, niềm tin đạo đức của nhân cách.

2.2.Rối nhiễu hành vi
2.2.1.Một số tiếp cận RNHV
Lối tiếp cận RLHV từ góc độ xã hội học
Đối tượng của xã hội học là nghiên cứu những hiện tượng xã hội gắn với
cấu trúc xã hội. Xã hội học nghiên cứu hành động, sự kiện không phải chỉ
nằm ở cấp độ cá nhân - những gì mà cá nhân thực hiện, mà còn ở đâu đó
trong hệ thống cấu trúc xã hội - trong gia đình, thành phố, vùng, trong một tổ
chức, một đất nước. Vì đặc thù của ngành này, những luận thuyết về RLHV
chỉ được rút tỉa dưới một khái niệm khác là “hành vi sai lệch chuẩn mực xã
hội”.
Ví dụ, thuyết chức năng xã hội nghiên cứu hành vi lệch chuẩn đề cập đến
chức năng xã hội của nó. Thuyết này cho rằng trật tự xã hội dựa trên sự tương
hợp chuẩn mực tự nguyện. Ở đây hành vi lệch chuẩn cũng là hiện tượng "bình
thường". Nó không chỉ có tác động tiêu cực, mà cũng có cả tính tích cực đối
với xã hội. Hành vi lệch chuẩn sẽ là bình thường nếu tần suất tương đối của
nó còn giữ trong khuôn khổ trung bình cho tất cả các xã hội loại này và trình
độ phát triển tương ứng của chúng. Tần suất tương đối của hành vi lệch chuẩn
sẽ nhắc chúng ta nhớ tới những chuẩn mực xã hội và củng cố uy tín của
chúng. Nó còn là tiền đề cho biến đổi xã hội .
Các thuyết xã hội học không quan tâm đến từng cá nhân mà coi cá nhân
như là thành viên của một tổ chức trong một cơ cấu xã hội nhất định.
Dukheim từ nhiều năm trước đã ghi nhận rằng mỗi thành phố, mỗi vùng và bộ
phận dân cư đều có một tỷ lệ tự tử nhất định và tỷ lệ này tương đối ổn định,
mặc dù qua một thời gian hai thành phố có thể thay đổi vị trí tương đối trong
bảng thứ hạng về tỷ lệ tự tử. Tỷ lệ và sự phân bố này của nạn tự tử là một tính
11
chất của hệ thống; có nghĩa là nó là một cái gì đó của xã hội, của vùng và của
nhóm dân cư được khái quát thành đặc điểm tỷ lệ tự tử. Các nhà xã hội học
phải đối mặt với câu hỏi: Những tính chất khác nào của hệ thống có thể giải
thích cho tính chất này ? Bằng ví dụ về một loại tự tử mà Dukheim gọi là “tự

tử vị kỷ”, ông cho rằng đó là thuộc tính của những mối liên kết xã hội lỏng
lẻo hoặc mức độ đoàn kết thấp giống như trạng thái của một mạng lưới các
mối quan hệ xã hội giữa các thành viên của hệ thống. Mặt khác, ông còn cố
gắng giải thích tại sao sự khác nhau giữa mối liên kết xã hội sẽ tạo ra sự khác
nhau của tỷ lệ tự tử .
Tóm lại, các thuyết xã hội học cho chúng ta một cách nhìn về RLHV dưới
góc độ xã hội, có tính đến cấu trúc xã hội, tổ chức văn hóa, lịch sử. Lý thuyết
xã hội học chỉ ra những biến số và quá trình trong một xã hội rộng lớn và sự
giải thích RLHV phải ở trong mối quan hệ với hệ thống này.
Tiếp cận RLHV từ góc độ tâm lý học
Khác với xã hội học chỉ giải thích RLHV ở cấp độ cấu trúc xã hội, qui cái
cá nhân vào cái xã hội, tâm lý học giải thích RLHV ở cấp độ cá nhân, tức liên
quan đến chủ thể của hành vi -nhân cách, giá trị, mục đích, nhu cầu, xung
năng, sở thích và một số khía cạnh hoàn cảnh mà trong đó cá nhân thực hiện
hành động. Xã hội học dựa trên hiện tượng số đông để dự đoán những thay
đổi mà chúng sẽ diễn ra trên một phạm vi nào đó, còn tâm lý học dự báo
những hành vi của cá nhân con người trong tương lai. Để nghiên cứu nguyên
nhân của RLHV, tâm lý học đề cập đến động cơ của hành vi. Ở đây những lý
thuyết về động cơ bên trong không chỉ nghiên cứu yếu tố con người mà còn
nghiên cứu cả hoàn cảnh nảy sinh hành vi và cả con người trong sự tương tác
với hoàn cảnh để tạo ra RLHV đó. Nó tạo nên cái gọi là cơ chế động cơ của
hành vi. Có thể liệt kê ra đây một số lối tiếp cận đến RLHV: đó là cách tiếp
cận đến chủ thể, đến hoàn cảnh, và đến sự kết hợp giữa chủ thể và hoàn cảnh.
12
Nhấn mạnh đến chủ thể hành vi, cách tiếp cận này chủ yếu thuộc về những
lý thuyết nhân cách. Nhiều lý thuyết về RLHV cho rằng những khác biệt về
hậu quả là do những khác biệt từ phía chủ thể hành vi. Với cách tiếp cận này
tâm lý học tìm cách trả lời câu hỏi: “Loại người nào gây ra những hành vi loại
này?” Nhiệm vụ của nó là tìm ra những kiểu loại nhân cách đặc trưng cho
những hành vi nhất định. Những kiểu loại nhân cách này được đề cập đến qua

những đặc điểm bắt nguồn từ yếu tố sinh học, đặc điểm bắt nguồn từ yếu tố
môi trường, hoặc những đặc điểm tâm lý khác của nhân cách như cấu trúc
nhân cách, nhu cầu, mục đích, sở thích, động cơ Tâm lý học cũng quan tâm
đến quá trình phát triển của chủ thể hành vi. Theo các lý thuyết nhân cách thì
con người trở thành một nhân cách như thế nào thường phụ thuộc vào quá
trình phát triển của nó với những đặc điểm sinh học và đặc điểm hoàn cảnh xã
hội nhất định. Nhân cách như thế nào sẽ quyết định hành vi của chủ thể đó
như thế ấy.
Nhấn mạnh đến hoàn cảnh.
Một lối tiếp cận khác là các lý thuyết nhấn mạnh đến hoàn cảnh. Theo
những lý thuyết này thì mọi người nếu rơi vào hoàn cảnh nhất định cũng có
thể làm như nhau theo một cách nhất định.
Họ cho rằng RLHV là kết quả của những hoàn cảnh nhất định. Những hoàn
cảnh này được hình thành trong các thuật ngữ như sự khiêu khích, cơ hội, quá
căng thẳng trong stress, sự tuân thủ, áp lực Đây là những vấn đề mà một số
nhà tâm lý học xã hội đề cập đến trong các công trình của mình.
Kết hợp chủ thể và hoàn cảnh
Những lý thuyết này nhấn mạnh đến sự kết hợp giữa các yếu tố thuộc chủ
thể hành vi và yếu tố hoàn cảnh trong việc xác định hành vi lệch chuẩn. Cách
tiếp cận này, mang tính tổng hợp hơn, đã giải quyết những khiếm khuyết của
những cách tiếp cận phiến diện đến RLHV. Trong một chừng mực nhất định
thì cả nhân cách và hoàn cảnh đều có vai trò quyết định đối với hành vi nói
13
chung, RLHV nói riêng. Ở đây cả nhân cách và hoàn cảnh là những biến số
độc lập đối với RLHV. Về tổng thể, lối tiếp cận này tỏ ra hữu hiệu trong việc
dự báo những hành vi nhất định, nên được áp dụng trong nghiên cứu RLHV.
2.2.2.Khái niệm
Thuật ngữ RNHV(conduct disorder) bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên trong
phân loại bệnh tâm thần của hội tâm thần học Mỹ lần thứ 2 (DSM-II) năm
1968. Hiện nay, căn cứ theo bảng phân loại của Hội Tâm thần học Hoa Kì

(DSM-IV), một hành vi được xác định là rối loạn khi hành vi đó lặp đi lặp lại
nhiều lần và trong đó các quyền cơ bản của người khác hay chuẩn mực XH
(phù hợp với lứa tuổi) hay các luật lệ bị vi phạm.
Theo Frodlich W.D. RNHV được hiểu là hội chứng hành vi hay trải nghiệm
đi kèm theo những khó chịu, đau đớn, những trở ngại những hạn chế ở một
hay nhiều phạm vi chức năng (ví dụ như tri giác, tư duy, tình cảm, ghi nhớ,
nói, vận động ) gắn liền với nguy cơ phải cam chịu nhiều hậu quả khác
nhau .Sự rối loạn này là những rối loạn tâm lý trong hành vi diễn ra khi cá
nhân không thể đáp ứng được các chuẩn mực bình thường, chẳng hạn như đái
dầm, mất ngủ, mút tay, rối loạn chú ý, bỏ học, trộm cắp Thông thường
những rối loạn loại này cần được chăm chữa kịp thời để hạn chế những hành
vi lệch chuẩn.
Theo từ điển tâm lý học – W.D.Frohlich- Munchen-1993
“ RNHV là hành vi xảy ra một cách có hệ thống, vi phạm chuẩn mực trong
quan hệ người – người, vi phạm các điều luật một cách lặp đi lặp lại, kéo dài
và bền vững”.
2.2.3.Phân biệt RNHV với “hành vi lệch chuẩn” và “hành vi bất thường”
Với định nghĩa trên, chúng ta thấy thuật ngữ RNHV có liên quan đến một
số khái niệm khác trong tâm lý học, xã hội học.
*Thứ nhất, có sự liên quan nhất định giữa RNHV và hành vi lệch chuẩn xã
hội (deviance behaviour). Nếu như RNHV liên quan đến khía cạnh bệnh lý thì
14
hành vi lệch chuẩn thông thường liên quan đến lĩnh vực xã hội của vấn đề.
Tâm lý học Xô viết cho rằng hành vi vi phạm các chuẩn mực xã hội chính là
những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội.
Có thể hiểu “hành vi lệch chuẩn là hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã
hội hiện hành. Ở đây sự sai lệch là khái niệm dùng để chỉ những sự khác nhau
về chất hay lượng giữa hành vi của một cá nhân và một chuẩn mực, một hệ
quy chiếu.”
- Theo từ điển Tâm lý học ( Nguyễn Văn Lũy – Lê Quang Sơn)

Những hành động tương ứng với những chuẩn mực và mong đợi được xác lập
chính thức hay tồn tại trên thực tế của xã hội ( hay nhóm xã hội ), các hành
động này dẫn đến người thực hiện bị cô lập , chữa trị , điều chỉnh hay trừng
phạt. Các loại hành vi lệch chuẩn cơ bản là tội phạm, say rượu, ma túy, tự sát,
bán dâm.
Cho đến thời điểm hiện tại chưa có một cách tiếp cận chung đối với việc
nghiên cứu và lý giải hành vi lệch chuẩn. Hàng loạt các nhà nghiên cứu, theo
chân E.Durkheim, cho rằng trong điều kiện tổ chức bình thường của xã hội
các hành vi lệch chuẩn là không phổ biến, tuy nhiên trong điều kiện thiếu sự
tổ chức xã hội sẽ gia tăng xác suất hành vi lệch chuẩn. Các điều kiện có thể là
stress, xung đột nội nhóm và giữa các nhóm , những biến động sâu sắc trong
xã hội .
Trong khuôn khổ lý thuyết bất thường ( R.Merton), hành vi lệch chuẩn xuất
hiện khi có mục tiêu chung nhưng các phương tiện được xã hội chấp nhận để
đạt mục tiêu này không có ở tất cả, và đối với một số người hay một số nhóm
xã hội - chúng hoàn toàn không trong tầm tay. Từ góc độ quan điểm xã hội
hóa , hành vi lệch chuẩn sẽ xuất hiện ở những người mà quá trình xã hội hóa
diễn ra trong những điều kiện các yếu tố dẫn đến kiểu hành vi như vậy
( cưỡng ép, phi đạo đức…) được cho là bình thường .Vào những năm 60 thế
kỷ XX xuất hiện luận thuyết ô nhục hóa – quan tâm đến phản ứng xã hội đối
15
với hành vi lệch chuẩn.Theo thuyết này, sự lệch chuẩn là kết quả của sự đánh
giá tiêu cực của xã hội, của sự “ gán” cho các cá nhân mác “ người có hành vi
lệch chuẩn” và việc cô lập, điều chỉnh , chữa trị họ.
*Khái niệm thứ hai có những mối liên hệ mật thiết với RNHV là “hành vi
bất thường” (abnormal behaviour).
Tác giả Rorbet S.Feldman đã tổng kết 4 cách tiếp cận chính về hành vi
bất thường được sử dụng trong những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau .
+ Đó là “sự lệch hướng khỏi trung bình” xem tính bất thường như sự lệch
khỏi số đông, mang tính chất thống kê. Tuy nhiên có một số hành vi được

xem là hiếm , không thể được xem là bất thường.
+ Đó là “sự lệch hướng khỏi lý tưởng”. Theo loại định nghĩa này, hành vi
được xem là bất thường nếu đi lệch khỏi một số loại tiêu chuẩn hay lý tưởng
(Jahoda,1958). Tuy nhiên cách tiếp cận này còn khó khăn hơn cách tiếp cận
trên ,vì có một số lý tưởng của xã hội này nhưng không phải là tiêu chuẩn của
xã hội khác, hơn nữa phạm trù này sẽ bị thay đổi bởi thời gian.
+ Cách tiếp cận tiếp theo xem tính bất thường như “cảm giác lo lắng chủ
quan”. Cách tiếp cận này coi hành vi là bất thường nếu nó tạo ra một cảm
giác đau khổ, lo âu hay tội lỗi ở một cá nhân, hay bằng nhiều cách gây hại đối
với những người khác. Nhưng định nghĩa này cũng cồn hạn chế nó dựa vào sự
lo lắng chủ quan ,vì trong một số hình thức rối loạn tâm thần đặc biệt , con
người mô tả lại cảm giác lâng lâng sung sướng mặc dù hành vi của họ đối với
người khác thật khó hiểu.
+ Các nhà tâm lý học đã phát triển thêm một cách tiếp cận sau cùng, để
phân biệt hành vi bình thường và bất thường, coi tính bất thường như sự bất
lực trong “hoạt động chức năng hiệu quả”. Theo quan điểm này, con người
không thể hoạt động chức năng một cách có hiệu quả và thích nghi với yêu
cầu xã hội được xem là bất thường.
16
2.2.4.Hành vi bình thường
Được hiểu là những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội, phù hợp với
chuẩn mực thống kê và phù hợp với chuẩn mực chức năng.
Chuẩn mực xã hội : là quy tắc, quy ước của xã hội
Chuẩn mực thống kê : đa số phản ứng giống nhau, nếu khác là không
bình thường
Chuẩn mực chức năng : chuẩn mực của cá nhân tự xây dựng riêng cho
mình.
Trong ba chuẩn mực trên thì hai chuẩn mực đầu được xét là chủ yếu
2.3 Phân loại rối nhiễu hành vi
+ Các rối nhiễu hành vi xã hội

+ Các rối nhiễu hành vi bản năng
+ Các rối nhiễu hành vi tự động
+ Các rối nhiễu hành vi vận động
Các rối nhiễu hành vi trên tương ứng với các rối nhiễu dạng thể chất và ứng
xử trong bảng phân loại các rối nhiễu tâm lý của Pháp.
*Các rối nhiễu hành vi xã hội
Bao gồm nhiều dạng khác nhau
- Hung tính
- Rối nhiễu hành vi loại chủ động
- Rối nhiễu hành vi loại thụ động
- Trốn nhà
- Tự sát
*Các rối nhiễu hành vi bản năng
- Rối nhiễu hành vi ăn uống
- Rối loạn giấc ngủ
- Rối loạn tình dục
17
*Các rối nhiễu hành vi tự động
- Chứng đái dầm
- Chứng ỉa đùn
*Các rối nhiễu hành vi vận động
-Tic
- Những thói quen xấu
- Không ổn định về tâm vận động
( Đề tài đi sâu tìm hiểu rối nhiễu hành vi theo thang đánh giá SDQ)
Các điểm yếu sức khoẻ tâm thần trong thang SDQ bao gồm:
- Các vấn đề cảm xúc:
Các vấn đề liên quan đến “cảm xúc” thường biểu hiện như: xúc động, buồn
dầu, thất vọng, chán nản, suy nhược, sợ hãi, lo lắng, mất quan tâm hứng
thú, ngại giao tiếp bạn bè.

- Các vấn đề ứng xử (đạo đức) :
Thường những em bị rối loạn ứng xử biểu hiện những hành vi như: chọc
ghẹo người khác, gây gổ đánh nhau, tỏ ra thô bạo với mọi người hay súc
vật, trấn lột, phá phách và đột nhập nhà người khác, bỏ nhà, tức giận, mất
tự chủ, thích bạo lực, thích gây hấn.
- Các vấn đề về tăng động giảm tập chung chú ý (hiếu động):
Căng thẳng, bồn chồn, luôn ngọ ngoạy, hấp tấp, bốc đồng, không thể tập
trung chú ý để làm một việc gì đến nơi đến chốn. Đó là biểu hiện của tăng
động.
- Các vấn đề về nhóm bạn: Cách biệt, thích một mình, ít quan hệ, thiếu hoà
hợp, không được các bạn yêu mến .
- Các kỹ năng tiền xã hội:
Không thân ái thân thiện, không tình nguyện, không chia sẻ, không giúp đỡ
mọi người, bàn quan vô cảm với xung quanh.
18
2.4.Mức độ rối nhiễu hành vi
- Bình thường : Không có vấn đề về sức khoẻ tâm thần.
- Ranh giới : Nghi ngờ, chưa chắc chắn.
- Không bình thường : Có vấn đề sức khoẻ tâm thần.
2.5.Biểu hiện rối nhiễu hành vi
2.5.1.Biểu hiện lâm sàng
Rối nhiễu hành vi có rất nhiều loại, nhưng chỉ có những loại sau được đưa
vào danh mục F91: Trộm cắp không đối đầu, bỏ nhà sống qua đêm, thường
xuyên nói dối, cố tình gây cháy, thường xuyên trốn học, đập phá đồ đạc, phá
hoại tài sản, hành hạ súc vật, cưỡng dâm, dùng vũ khí đánh nhau, thường
xuyên gây gổ, trộm cắp có đối đầu, hành hạ người khác, nhập bọn xấu, láo
xược càn quấy, bắt nạt quá đáng, nổi cơn khùng, chống đối nhà chức trách.
Theo Hội thảo quốc gia năm 1989 về rối loạn hành vi thì trong số 18 rối loạn
hành vi kể trên, các rối loạn hành vi thường gặp nhất là : trốn học( 11/13 báo
cáo, thấp nhất : 485. cao nhất : 89%), thường xuyên nói dối (10/13 báo cáo,

thấp nhất 34%, cao nhấtt: 100%), trộm cắp không đối đầu ( 9/13 báo cáo, thấp
nhất: 49%,cao nhất: 75%), bỏ nhà sống qua đêm ( 6/13 báo cáo, thấp nhất
40%, cao nhất: 75%), gây gổ đánh nhau ( 4/13 báo cáo, thấp nhất: 24%, cao
nhất : 46%) .Mỗi thanh – thiếu niên trong diện nghiên cứu thường có nhiều
rối loạn hành vi , trung bình là 5( ở lứa tuổi 10-11), trung bình 4 rối loạn hành
vi; ở lứa tuổi 15-17, trung bình 6 rối loạn hành vi).
2.5.2Các thể lâm sàng ( theo F91):
Rối nhiễu hành vi khu trú trong môi trường gia đình; chỉ xuất hiện trong gia
đình, không xuất hiện ở môi trường xã hội; xuất hiện trong khi quan hệ với
người thân trong gia đình ( dì ghẻ, bố đượng, anh chị em ); hành vi rối loạn
thường nhằm vào người mà đối tượng xung đột : ăn cắp tài sản, phá hoại đồ
đạc , không vâng lời, láo xược ,chống đối , xâm phạm Các rối nhiễu hành vi
19
này thườg ít được phát hiện trong khi điều tra nghiên cứu vì đòi hỏi một sự
hợp tác đầy đủ của cả đối tượng lẫn gia đình.
Rối loạn hành vi ở những người kém thích ứng xã hội( hay rối loạn hành vi
riêng lẻ, ở ngoài gia đình, không theo nhóm ): rối loạn này chứng tỏ có một sự
suy giảm đáng kể trong mối quan hệ của đối tượng với thanh- thiếu niên cùng
lứa. Đối tượng thường xuyên không được bạn bè cùng lứa ưa thích, thường bị
bỏ rơi, bị cách li, quan hệ với người lớn cũng thường mang tính chất bất hoà ,
thù địch và hằn học; các hành vi phạm pháp thường được tiến hành một cách
đơn độc, thường gặp là các hành vi càn quấy, bắt bạt quá mức, tấn công hung
bạo, trấn lột, láo xược, chống đối nhà chức trách, cơn nổi khùng, phá hoại tái
sản , gây cháy, độc ác với trẻ em và xúc vật.
Rối loạn hành vi ở những người còn thích ứng với xã hội:( hay rối loạn
hành vi ở ngoài gia đình, theo nhóm): rối loạn hành vi ở những thanh- thiếu
niên có nhu cầu gia nhập nhóm cùng lứa, thích ứng với hoạt động nhóm, hoặc
tìm đến, hoặc bị lôi cuốn vào nhóm, hoạt động của nhóm thường hướng vào
những hành vi chống đối xã hội và phạm pháp. Những hành vi này bị xã hội
lên án nhưng đựơc các bạn cùng nhóm tán thành và ủng hộ nên ngày càng

được củng cố. Các rối loạn hành vi theo nhóm có đủ các loại trình bày ở trên
nhưng hay gặp nhất là các hành vi trộm cắp theo nhóm và trốn nhà sống qua
đêm theo nhóm.
2.6.Chẩn đoán
2.6.1.Chẩn đoán xác định:
Muốn chẩn đoán theo F91, cần đạt những tiêu chuẩn sau: hành vi rối loạn
phải là một hành vi không còn trong danh giới bình thường, so với lứa tuổi( ví
dụ cơn giận dữ của tuổi lên 3 và hành vi gây gổ của tuổi lên 7 không coi là rối
nhiễu hành vi); rối nhiễu hành vi phải nằm trong phạm vi 18 loại đã qui định;
rối loạn hành vi phải được lặp lại và kéo dài 6 tháng; rối loạn hành vi không
phải là triệu chứng của một bệnh hoặc một rối loạn tâm thần khác .
20
2.6 2.Chẩn đoán phân biệt:
Cần phân biệt rối loạn hành vi của những bệnh và rối loạn tâm thần như
bệnh tâm thần phân liệt( F20); trạng thái hưng cảm( F30); trạng thái trầm cảm
(F31); rối loạn tăng động( F40); nhân cách bệnh( F60).
2.7.Nguyên nhân rối nhiễu hành vi
Rối nhiễu hành vi thường là những hành vi xâm phạm đến thân thể, nhân
cách và tài sản của người khác. Do đó, nói đến nguyên nhân của rối loạn hành
vi chủ yếu là nói đến tính xâm phạm. Có nhiều lí thuyết, chia làm 3 nhóm sau:
2.7.1.Thuyết về vai trò quyết định của nhân tố sinh học
Gồm:
+Thuyết về loại hình sinh học:
Nhiều tác giả cho rằng có mối liên quan nhất định giữa các loại hình sinh học
(tướng mạo, tương quan kích thước các bộ phận trong cơ thể, ) với những
hành vi xâm phạm.
+ Thuyết về biến đổi nội tiết:
Một số tác giả cho rằng tính xâm phạm và rối loạn hành vi ở thanh –thiếu
niên có liên quan đến sự biến đổi nội tiết của giai đoạn dậy thì.
+ Thuyết về tính bẩm sinh và di truyền :

Quan niệm dân gian : “ cha mẹ sinh con trời sinh tính”.
Quan niệm của học thuyết Freud: “ bản năng chết” sinh ra các hành vi xâm
phạm nhưng Freud không chứng minh được được sự tồn tại của bản nămg
chết như đã làm với bản năng tình dục. Một số thanh– thiếu niên có cha mẹ
thô bạo, phạm pháp: tính xâm phạm bẩm sinh có ở nam, khi có thừa thể
nhiễm sắc Y ( 3 nhiễm sắc giới tính XYY).
Theo quan điểm này, năm 1968, các toà án ở Hoa Kì và ở Ôctrâylia đã thả
bổng cho can phạm giết người do có 3 nhiễm sắc XYY.
21
2.7.2.Thuyết về sự phối hợp chặt chẽ giữa hai nhân tố sinh học và tâm lí
xã hội
Thuyết này cho rằng có một động lực xâm phạm bên trong con người,
nhưng không xuất hiện tự phát và thường xuyên mà chỉ bộc lộ ra thành hành
vi xâm phạm do những tình huống bên ngoài. Tình huống thường gặp nhất là
trạng thái bất toại ( không thoả mãn nhu cầu hay khuynh hướng, bị xâm
phạm, bị làm nhục, bị đau đớn ).Hành vi xâm phạm xuất hiện chủ yếu ở nam
giới ( theo Hội thảo quốc gia năm 1989, tỉ lệ từ 69-100%).
2.7.3.Các lí thuyết cho rằng các hành vi xâm phạm chủ yếu do nhân tố xã
hội gây ra:
+ Học thuyết Pavlov: Các rối nhiễu hành vi là những phản xạ có điều kiện
hình thành theo những kích thích có hại của môi trường được lặp đi lặp lại
nhiều lần
+ Theo lý thuyết về sự tập nhiễm của Watson, Skiner, Wolpe, tất cả rối nhiễu
hành vi đều là những hành vi đã bắt chước, học được, tiêm nhiễm trong quá
trình hoạt động ở các môi trường gia đình và xã hội.
Các báo cáo trong Hội thảo quốc gia năm 1989 về rối loạn hành vi ở thanh –
thiếu niên cho thấy rối nhiễu hành vi xuất hiện theo cơ chế sau:
- Trong môi trường xã hội và trường học: nổi bật lên hàng đầu là ảnh hưởng
của nhóm xấu, nhất là nơi tập trung đông dân (theo các báo cáo, tỉ lệ thấp nhất
:70%, cao nhất: 90% trong số thanh thiếu niên có rối loạn hành vi ); ảnh

hưởng của các hiện tượng thất nghiệp, thiếu ăn, thiếu ở ( thấp nhất: 32%, cao
nhất :62%), do thiếu quan tâm của cha mẹ và giáo viên đối với các học sinh
kém nên các em chán học , trốn học, rồi bỏ học, (hay bị đuổi) và cuối cùng bị
lôi cuốn vào những nhóm xấu ( thấp nhất 23%, cao nhất : 100%).
- Trong môi trường gia đình : ảnh hưởng của cấu trúc gia đình không hoàn
chỉnh( thấp nhất : 24,75; cao nhất : 75%) gồm các nhân tố như mồ côi cha
mẹ , cha mẹ vắng nhà thường xuyên, cha mẹ li hôn, cha mẹ không có nghề
22
nghiệp ổn định Ảnh hưởng các tật chứng của cha mẹ và anh chị em ( thấp
nhất: 36,7%, cao nhất: 73%) gồm các hiện tượng như tính cách không bình
thường, rối loạn hành vi nặng, nghiện rượu, nghiện ma tuý, thường xuyên
xung đột…Ảnh hưởng của các phương pháp giáo dục không hợp lý của gia
đình( thấp nhất: 50%, cao nhất : 74,55 ) gồm các hiện tượng đánh mắng thô
bạo, quá nghiêm khắc, quá chiều chuộng , thiếu quan tâm
Như vậy những nghiên cứu ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài đều cho
thấy rối nhiễu hành vi ở thanh thiếu niên do các nhân tố tâm lý xã hội kết hợp
với nhân tố sinh học gây ra. Nhân tố tâm lí xã hội thấy rõ trong khoảng ¾ các
trường hợp, nhân tố sinh học nghi nhận được trong khoảng ¼ các trường hợp.
Nhân tố tâm lý xã hội chiếm ưu thế, có vai trò quyết định, đồng thời có ý
nghĩa to lớn về mặt phòng và chữa rối loạn hành vi, vì đó là những nhân tố
mà con người có thể can thiệp và biến đổi được.
2.8.Hậu quả rối nhiễu hành vi
Rối nhiễu hành vi xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau có thể là do
môi trường học đường không lành mạnh, áp lực học tập, áp lực thi cử, hay các
vấn đề liên quan đến gia đình ( bạo lực, gia đình không hoàn hảo, thiếu quan
tâm ) hoặc môi trường sống khiến các em bị tiêm nhiễm hành vi xấu Nhưng
dù xuất phát từ bất cứ nguyên nhân nào thì cũng có những ảnh hưởng nhất
định tới các em, đồng thời RNHV cũng biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau
nên hậu quả của nó để lại cũng rất khác nhau tùy vào từng mức độ và vấn đề
mắc phải.

Tuy nhiên có thể khẳng định RNHV làm ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống
thể chất (làm sức khỏe giảm sút, đem lại một số thương tổn thực thể như tự
xâm hại ) cũng như tinh thần của các em, và sâu xa hơn nó có thể hủy hoại
cuộc đời của một con người vì vậy chúng ta cần phải phát hiện sớm để có
biện pháp can thiệp giúp đỡ và điều trị các biểu hiện rối nhiễu hành vi ngay từ
ban đầu.
23
2.9.Điều trị và phòng bệnh
2.9.1. Điều trị
Thông thường , những rối loạn hành vi nhẹ sẽ thuyên giảm theo thời gian và
theo mức dộ thưởng thành dần của thanh – thiếu niên. Nhưng các rối loạn
hành vi nặng thường có khuynh hướng trở thành mãn tính. Đặc biệt những
thanh – thiếu niên khó thích ứng với xã hội và có tính xâm phạm xuất hiện
sớm , đến tuổi trưởng thành vẫn duy trì hành vi chống đối xã hội. Một số có
thể có hoạt động xã hội thích ứng nhưng vẫn tiếp tục có những hành vi phạm
pháp .Nhiều thanh- thiếu niên có rối loạn hành vi khi đến tuổi trưởng thành có
thể thích ứng xã hội và hoạt động nghề nghiệp vừa phải.
Vấn đề giáo dục điều trị thường đặt ra cho những thiếu niên phạm pháp
hoặc cho thanh – thiếu niên có rối loạn hành vi mà gia đình xin được điều
trị .Các hình thức giáo dục điều trị rất khác nhau, tuỳ theo quan niệm của
những người có thẩm quyền và có trách nhiệm ở mỗi nước .Ở nước ta các vị
thành niên phạm pháp được giáo dục cải tạo ở những trung tâm được gọi là
trường công- nông nghiệp .Ở đó thường áp dụng những biện pháp tâm lý giáo
dục , lao động thủ công và nông nghiệp, hoạt động văn hóa và văn
nghệ.vv.Do nhiều khó khăn về mặt tài chính, tổ chức, cơ sở cán bộ , kĩ
năng ,vv hiện nay ở nhiều địa phương , trường này không còn nữa .Ở các
nước khác, rất nhiều hình thức tổ chức điều trị khác nhau được áp dụng, như
trung tâm giáo dục điều trị riêng, khoa rối loạn hành vi ở thanh – thiếu niên
trong bệnh viện tâm thần chung, khoa rối loạn hành vi trong bệnh viện tâm
thần trẻ em, các trung tâm hướng dẫn phương pháp giáo dục thanh- thiếu

niên.vv.Ở các trung tâm nói trên, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các thầy thuốc
tâm thần, các cán bộ tâm lý giáo dục và thường áp dụng những biện pháp sau:
khám xét về lâm sàng và cận lâm sàng để phát hiện những nhân tố sinh học có
liên quan đến rối loạn hành vi, phát hiện những nhân tố tâm lý xã hội có vai
24
trò trong cơ chế phát sinh ra rối loạn hành vi; áp dụng liệu pháp hóa dược tâm
thần để điều trị trạng thái quá động ( mesthylphennidate, các thuốc an thần)
các trạng thái lo âu
(benzodiazepine), trầm cảm (thuốc chống trầm cảm), hưng cảm (an thần,
muối lithium).vv
Áp dụng các liệu pháp tâm lí đa dạng , thích hợp cho từng trường hợp như
liệu pháp nhận thức ( chỉnh lí các quan niệm sai lầm của thanh- thiếu niên);
liệu pháp tâm lí tập thể ( cho từng nhóm thanh- thiếu niên có rối loạn tương
tự); liệu pháp gia đình kết hợp với môi trường ( thông cảm, nâng đỡ, nhằm
tránh tái phạm);liệu pháp tập tính ( loại trừ tập tính xấu, hình thành tập tính
mới , thích ứng với môi trường); áp dụng các liệu pháp phục hồi chức năng tái
thích ứng lao động và xã hội ( lao động, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
thao, thể dục,vv).
Nói chung giáo dục điều trị rối loạn hành vi ở thanh- thiêu niên là một việc
làm hết sức khó khăn và phức tạp .Thành công hay thất bại phụ thuộc vào
mức độ thấu hiểu vấn đề của các cấp, các ngành hữu quan , vào mức độ đầu
tư về cơ sở , tổ chức, kinh phí, vào chất lượng của các thầy thuốc tâm thần và
cán bộ tâm lí giáo dục .
2.9.2. Phòng bệnh
Qua hội thảo quốc gia 1989 về rối loạn hành vi ở thanh- thiếu niên, các
nhân tố tâm lí xã hội xuất phát từ các môi trường gia đình , trường học và xã
hội có vai trò chủ yếu trong cơ chế bệnh căn và bệnh sinh. Do đó, công tác dự
phòng rối loạn hành vi đòi hỏi phải có sự quan tâm của toàn bộ xã hội và sự
kết hợp của nhiều ngành hữu quan nhằm hạn chế các nhân tố có hại của 3 môi
trường nói trên.

Ngành giáo dục tâm lý, trong cải cách giáo dục hiện nay, cần đặc biệt chú
trọng đến việc giáo dục đạo đức, tác phong, ngôn ngữ, luật pháp cho học sinh
nhằm tạo ra những tập tính tốt và loại trừ những tập tính thô bạo xâm phạm.
25

×