Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Các giải pháp phát triển thị trường lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.72 KB, 16 trang )

Các giải pháp phát triên thị trường lao động Việt Nam.
A. MỞ BÀI
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế đã tạo cơ hội cho tất cả các quốc gia những điều
kiện thuận lợi để tạo việc làm, phát triển thị trường lao động trong đó có Việt Nam. Thị trường
lao động Việt Nam trong thời gian qua đã có nhiều khởi sắc mới, đã tìm và giải quyết việc làm
cho hang triệu lao động mồi năm, góp phần tăng thu nhập cho người dân, thúc đấy kinh tế - xã
hội phát triển. Xong, trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà thị trường lao dộng Việt
Nam còn tồn đọng nhiều vấn đề cần giải quyết cấp bách. Các giải pháp phát íriên thị trường lao
động Việt Nam.
B.THÂN BÀI
I. Thị trường lao động Việt Nam
1. Khái niệm
Thị trường là một quá trình, trong đó người mua, người bán một thứ hang hoá tác dộng
qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hang.( Theo Sammuelson)
Thị trường lao động là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán sức lao động giữa người mua
sức lao động và người lao động
Thị trường lao động là một loại gắn với các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh. Thị trường lao động có mới quan hệ tác động giữa ba bên: Nhà nước, người có sức lao
động cần bán và người sử dụng lao động cần mua sức lao động đế sử dụng dựa trên nguyên tắc
thoả thuận. Ket quả của quá trình thỉa thuận là một hợp đồng được ký kết, trong đó xác định rõ
tiền công và điều kiện lao động.
*?
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
2
Đặc điểm
Thứ nhất, lao động trong ngành nông nghiệp giảm mặc dù ngành nông nghiệp vẫn được
coi là khu vực chiếm tỉ trọng lớn nhất về việc làm . Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp giảm
từ 42,6% xuống còn 29,4%.
Thứ hai, phần việc làm trong khu vực dịch vụ tăng mạnh. Điều đó chỉ ra rằng, khu vực dịch
vụ vẫn là nguồn tăng trưởng việc làm chính, thu hút tới 40% lực lượng lao động.
Thứ ba, việc làm trong khu vực công nghiệp tăng (mức tăng của lao động công nghiệp từ


23,1% đến 29,4%),
Thứ tư, làn sóng di cư lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ diễn
ra ngày càng mạnh.
Thứ năm, có sự chênh lệch về giới tính, ở độ tuổi mới bước vào độ tuổi lao động, thì có xu
hướng cân bằng, xong càng về già lao động nữ có xu hướng nhiều hơn lao động nam. Lao động
nam thường hoạt động trong các ngành nặng, cần nhiều sức cơ bắp, còn lao động nữ hoạt động
trong các ngành cần sự bền nỉ, khéo léo.
Đặc biệt, năng suất lao động là vấn đề rất đáng chú ý trong thị trường lao động . Tăng
năng suất lao động và việc làm là hai nhân tố đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế. Năng suất
lao động được coi là một trong những yếu tố quyết định tính cạnh tranh của quốc gia. Theo ILO,
việc tăng năng suất lao động có thế giúp Việt Nam tăng sức cạnh tranh và xóa đói, giảm nghèo.
Năng suất lao động cao tạo thêm việc làm có chất lượng, giảm nghèo đói, dẫn đến mức lương
tăng, cải thiện điều kiện làm việc và đầu tư ngày càng tăng vào nguồn nhân lực con người. Tăng
trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự tăng năng suất lao động vượt bậc (tăng
26,4% - mức tăng năng suất lao động cao nhất trong khu vực) và nhờ mở rộng quy mô việc làm
(chiếm 13,6%).
Tóm lại, sự mở cửa kinh tế đã thúc đấy tăng trưởng kinh tế và tạo thêm nhiều việc
làm, đặc biệt trong các khu vực có xu hướng xuất khẩu, dẫn đến sự thay đổi cơ cấu việc làm. Thể
hiện cụ thể là sự chuyển đổi việc làm từ lĩnh vực có năng suất lao động thấp của nông nghiệp
3. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam.
3
sang làm việc trong những lĩnh vực có năng suất cao hơn của ngành công nghiệp và dịch vụ.
Việt Nam có cơ cấu chuyển đổi việc làm rõ nhất kế từ năm 1995 với mức ghi nhận tăng trưởng
kinh tế nhanh nhất trong khối ASEAN . Việc làm mang lại thay đổi thu nhập cho người lao
động, cải thiện sức mua toàn xã hội, mức sống được nâng lên. Tuy nhiên, cạnh tranh lao động,
cạnh tranh điều kiện lao động giữa các quốc gia thay đổi theo hướng gay gắt hơn nhằm thu hút
lao động có chất lượng và số lượng phù hợp với yêu cầu của mỗi quốc gia. Đây là thách thức cần
đặc biệt lưu ý, trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vục và Thế giới.
a) Ket quả đạt được.
Trong thời gian qua, đặc biệt khi nước ta mở cửa hội nhập vào xu thế toàn

cầu hoá , thị trường lao động đã diễn ra sôi nối, phong phú, đa dạng. Điều nay thế
hiện rõ nét qua thực trạng việc làm nước ta.
Tính đến năm 2008, Việt Nam có trên 46 triệu lao động. Mỗi năm, cả nước
có thêm trên 50.000 doanh nghiệp (DN) được thành lập, tạo thêm khoảng 500.000
chỗ làm mới. Bên cạnh đó, khu vực kinh tế tập thể và cá thế phát triển mạnh với
trên 3,3 triệu hộ kinh doanh cá thế, 17.535 hợp tác xã, 2.000 làng nghề, các khu
công nghiệp mới, cũng tạo thêm hàng trăm ngàn chỗ làm việc mới.
Riêng Quỹ Quốc gia hồ trợ việc làm đã tích lũy được trên 3.000 tỷ đồng và từ
năm 2006 - 2008 đã hồ trợ vốn, tạo việc làm cho 900.000 lao động. Nhờ nguồn vốn
này, nhiều dự án, mô hình về kinh tế trang trại, giúp nhau tạo việc làm được tiếp
sức, nhiều làng nghề truyền thống được hỗ trợ hồi sinh và đã tạo ra hàng trăm ngàn
việc làm, có thu nhập ôn định cho người lao động.
Có thể nói thông qua các chương trình phát triển kinh tế xã hội đã góp phần
hạ nhiệt sức ép về việc làm, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Theo Bộ LĐTB-XH, từ năm 2006 đến nay các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội, quan tâm giải quyết việc làm trong nước đã góp phần tạo thêm 4,7 triệu chỗ
làm việc mới cho người lao động, trong đó khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm
90%.
Đặc biệt, với sự phát triến năng động, khu vục kinh tế trọng điếm phía Nam
vẫn là điểm sáng thu hút, tạo nhiều việc làm cho người lao động nhất (chiếm trên
60% tổng số việc làm cả nước). Riêng năm 2008, tuy bị tác động của cuộc khủng
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
4
hoảng kinh tế toàn cầu, số người mất việc làm gia tăng nhưng việc làm ở khu vực
phi chính thức lại tăng hơn, cả nước giải quyết việc làm cho 1,53 triệu lao động.
về hoạt động xuất khấu lao động, tuy gặp khó khăn do ảnh hưởng tù’ suy
thoái kinh tế toàn cầu nhưng năm 2008 VN cũng đưa được 85.000 lao động đi nước
ngoài làm việc (chiếm khoảng 5% tống số lao động được giải quyết việc làm trong
nước).
Bình quân mỗi năm lao động xuất khâu gởi về nước khoảng 1,6-2 tỷ USD,

trong đó nhiều địa phương nguồn ngoại tệ do lao động xuất khấu gởi về cho gia
đình gần bằng hoặc cao hơn nguồn thu ngân sách của cả tỉnh như Nghệ An: 690 tỷ
đồng, Thanh Hóa: 650 tỷ đồng, Thái Bình, Phú Thọ: trên 600 tỷ đồng Con
số có ý nghĩa này tiếp tục cho thấy xuất khấu lao động vẫn là một kênh xóa nghèo
nhanh nhất, tạo thêm việc làm, thu nhập cao cho người lao động, nhất là lao động
nông thôn.
Kể từ khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tốc độ phát triển kinh
tế nhanh tạo ra cơ hội việc làm nhiều hơn nhưng thách thức về chất lượng lao động
cũng gia tăng. Mặc dù, chất lượng lao động ở VN dần được cải thiện, trong đó tỷ lệ
lao động qua đào tạo đã tăng lên gần 35% nhưng cơ cấu lao động, trình độ, kỹ năng
chuyên sâu của phần đông lao động nước ta vẫn chưa thích ứng đòi hỏi ngày càng
cao của thị trường lao động.
Do độ vênh của cung - cầu ngày một lớn nên cơn sốt nhân lực cao cấp, lao
động có trình độ cao, tay nghề, kỹ thuật vẫn làm đau đầu các nhà tuyển dụng trong
và ngoài nước. Trong khi có nhiều khu công nghiệp mở ra, nhiều DN đi vào hoạt
động nhưng “đở mắt” tuyến không đủ lao động đã qua đào tạo, có trình độ quản lý,
kỹ thuật. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ đầu tư nước ngoài vào VN và
việc cạnh tranh, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của nhiều DN trong nước.
b) Một sổ tồn tại.
Dù đã đạt được những thành tựu to lớn, xong do nền kinh tế nước ta
còn kém phát triển, đất nước lại mới hội nhập, nên thị trường lao động nước ta còn
3. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam.
5
tồn đọng một số vấn đề cần giải quyết, thế hiện rõ nét qua những tồn đọng của tình
trạng việc làm ở nước ta.
Việt Nam vẫn luôn khẳng định mình là một quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào, có
thế đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian
Tuy nhiên, trên thực tế chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đang là một
bài toán khó giải.
Bl.Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ngày càng gia tăng

Thông Tấn Xã Đức DPA trích lời tuyên bổ của các viên chức chính phủ hôm
thứ Ba nói rằng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang đưa tới tình trạng mất
công ăn việc làm trong một qui mô lớn đầu tiên cho nền kinh tế thiên về xuất khâu
của Việt Nam kê từ nhiều năm nay.
Tuy nhiên, những con số thống kê chi tiết chưa được thu thập tại Việt Nam và
các giới chức đã đưa ra những ước tính khác biệt nhau về những thiệt hại trong lãnh
vực công ăn việc làm.
Tin DPA cho hay ông Nguyễn Đại Đồng, Cục Trưởng Cục Việc Làm của Bộ
Lao Động nói rằng khoảng 300,000 người sẽ bị mất công ăn việc làm, hoặc sẽ
đương đầu với chuyện phải giảm số giờ làm việc trong năm tới.
Ông Đồng cho biết ước tính của ông được dựa vào hậu quả của chuyện
mức tăng trưởng của tổng sản lượng quốc dân trong năm tới giảm xuống còn có
6,5%, so với mức tăng trưởng hơn 8% trong năm 2008. ông cũng cho biết Cục của
ông không biết rõ số người tham gia lực lượng lao động tại Việt Nam mồi năm nên
khó nhận định được hậu quả của mức thất nghiệp trong nước.
Thứ Trưởng Lao Đông Nguyễn Thanh Hòa đưa ra ước tính là khoảng 1
triệu người tham gia lực lượng lao động mồi năm, nhưng lại không biết rõ sổ người
rời khỏi lực lượng lao động vì nghỉ hưu, thiệt mạng hay những lý do khác, và vì
vậy cũng không thế xác định được mức thất nghiệp.
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
6
Tuy nhiên, điều rõ ràng đang xảy ra là các doanh nghiệp đã cắt bỏ nhiều công
ăn việc làm vì số đơn đặt hàng xuất khẩu giảm sút. Công ty điện tử Canon tại Hà
Nội tuần trước loan báo sẽ cắt bỏ 2,000 công ăn việc làm. Công ty điện tử Nissi của
Nhật cũng cắt bỏ 300 việc làm tại Hà Nội tuần trước.
Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, theo các số liệu của nghiệp đoàn lao động, chỉ
trong tháng 11, giới chủ nhân đã cắt bỏ 30,000 công ăn việc làm. Chính phủ Việt
Nam đã đặt ra chỉ tiêu là tạo 1 triệu 700 ngàn công ăn việc làm mới trong năm
2007, nhưng giới hữu trách cho biết với đà phát triển kinh tế trì trệ, có lẽ chỉ có thể
tạo được tối đa 1 triệu 400 ngàn.

Người ta chưa rõ phải chăng sự cách biệt giữa hai con số này đã khiến ông
Cục Trưởng Cục Việc Làm đưa ra tiên đoán có 300 ngàn người thất nghiệp, cao.
B2.Thiếu lao động trình độ cao
Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có tổng cộng 45,3 triệu lao động, trong đó
ba phần tư là lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Đại Đồng, Vụ
trưởng Vụ Lao động và việc làm thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, sau
nhiều năm phát triển, thị trường lao động Việt Nam vẫn “chưa tương xứng với yêu
cầu về nguồn lao động cho thị trường”.
Hiện mới chỉ có 32% số lao động là đã qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có
chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%. Báo cáo về tình hình thị trường lao động Việt
Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội soạn thảo đã khẳng định: “Việt
Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp
trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng nên nhiều nghề và công
việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khấu đa phần có trình
độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng”.
Trong khi đó, nhu cầu lao động đang có xu hướng tăng cả về số lượng và chất
lượng, chủ yếu do nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây, đặc
biệt là số doanh nghiệp mới thành lập ngày càng nhiều.
Chất lượng lao động cũng đã trở thành chủ đề nóng tại nhiều diễn đàn. Tại
hội nghị tống kết của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hồi đầu năm nay,
trước thông tin Thái Lan dự báo trong vòng 8-10 năm nữa sẽ đưa lao động sang
3. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam.
7
Việt Nam làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng đã bày tỏ sự lo ngại khi nói rằng
lao động Việt Nam có thế sẽ thua ngay trên sân nhà.
“Chúng ta có thế sẽ phải xuất khấu lao động phô thông và nhập khấu lao động
có tay nghề, thu nhập cao, tức là bỏ qua chính thị trường tiềm năng của mình”, bà
Hằng nói.
Chất lượng lao động thấp cũng kéo theo nhiều khó khăn trong việc đấy mạnh
xuất khấu lao động ra nước ngoài. Mặt khác, chất lượng lao động thấp cũng khiến

cho tiền lương đối với nhóm nhân công cao cấp có xu hướng tăng vọt trong thời
gian gần đây do nhà tuyến dụng không có nhiều sự lựa chọn.
Điều tra chi phí đầu tư hàng năm của Tố chức Xúc tiến thương mại Nhật
Bản (JETRO) công bố cuối tháng 5 vừa qua cho thấy lương của cán bộ bậc trung
trở lên đang tăng đột biến, đặc biệt là ở Tp.HCM.
“Trong khi mức tăng lương trung bình đối với cán bộ bậc trung trở lên ở các
nước khác là 7% thì tại Việt Nam mức tăng là 40%. Đây có thế coi là một trong
những yếu tố kém cạnh tranh nhất của Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài”, báo cáo của JETRO viết.
Theo đánh giá của một số chuyên gia về lao động, lĩnh vục thiếu hụt nhân sự
nghiêm trọng nhất là công nghệ thông tin, tài chính, kiếm toán, luật và hầu hết các
ngành công nghiệp. Ngoài ra, nhiều người lao động chưa có trình độ ngoại ngữ đủ
đế làm việc, dù rằng trên thực tế tình trạng này đang được cải thiện nhờ ngày càng
có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam cũng như một số người Việt được đào tạo
ở nước ngoài quay về nước làm việc.
B3. Xuất khấu lao động có xu hưóng giảm
Xuất khẩu lao động là một hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho hang
triệu lao động Việt Nam, mang lại thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, do sụ khủng hoảng toàn cầu của nền kinh tế và do chất kượng lao
động của Việt Nam còn thấp, nên hướng này trong thời gian qua, và trong vài năm
tới sẽ còn nhiều biến động. Các thị trường lao động sẽ đồng loạt cắt giảm.
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
8
Tình hình sản xuất, kinh doanh ở các nước đều lâm vào tình trạng ngưng trệ,
một số nhà máy phải đóng cửa, việc xuất khẩu lao động đang và sẽ gặp nhiều khó
khăn. Người lao động nên cân nhắc trước khi quyết định đi làm việc ở nước ngoài
trong thời điểm này
Trong hai tháng qua, hầu hết các thị trường nhập khẩu lao động lớn của VN
như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, một sổ nước Trung Đông và Đông Âu đều
giảm nhu cầu tuyến dụng lao động nước ngoài. Các chuyên gia xuất khấu lao động

(XKLĐ) dự báo tình hình khó khăn sẽ còn kéo dài.
+Thị trưòng truyền thống sa sút
Tại Đài Loan, nhiều doanh nghiệp (DN), nhất là ở những ngành gia công điện
tử, linh kiện ô tô, dệt, nhuộm , sản xuất ngưng trệ, đóng cửa một phần hoặc toàn
bộ nhà máy, công xưởng. Tình hình này khiến 81.000 lao động VN đang làm việc
tại đây, trong đó hơn 60% làm việc trong các nhà máy, công xưởng, có nguy cơ bị
giảm giờ làm hoặc không có việc làm.
Từ 6 tháng qua, hàng chục ngàn lao động đang được các trường, sở LĐ- TB-
XH các tỉnh, thành tập trung đào tạo tiếng Hàn chuấn bị cho đợt kiểm tra cấp chứng
chỉ tiếng Hàn lần 2 của năm 2008 dự kiến tổ chức vào cuối năm. Tuy nhiên, theo
ông Vũ Minh Xuyên, Phó Giám đốc Trung tâm Lao động ngoài nước, sẽ không có
đợt kiếm tra như dự kiến. Một trong những lý do chính khiến Bộ Lao động Hàn
Quốc không quyết định tổ chức đợt kiểm tra này là do tình hình sản xuất của các
DN Hàn Quốc đang gặp nhiều khó khăn, phải giảm nhu cầu tuyển dụng lao động
nước ngoài.
Malaysia là một trong hai thị trường XKLĐ lớn nhất của VN, cùng với Đài
Loan, có hơn 100.000 người đang làm việc theo hợp đồng. Theo phó giám đốc một
DN XKLĐ, bên cạnh việc khó tuyến lao động, cũng đang bắt đầu xuất hiện tình
trạng thiếu việc làm của người lao động (NLĐ) ở một số DN tại Malaysia.
Dự kiến giữa tháng 12 này, sẽ diễn ra hội nghị toàn quốc về XKLĐ và Cục
Quản lý Lao động ngoài nước đang rà soát, đánh giá tổng thế về những biến động ở
thị trường XKLĐ trọng điểm này đế kịp có phương án đối phó. Thị trường Nhật
Bản cũng có những khó khăn không kém. Giám đốc một DN phái cử tu nghiệp sinh
sang nước này vừa trở về cho biết, hiện tại, nhiều DN của Nhật Bản cũng đang thực
3. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam.
9
hiện việc cắt giảm lao động, kế cả lao động bản địa.
+Thị trường mói lao đao
Một số quốc gia Trung Dông và Dông Âu cũng gặp khó khăn. Trưởng phòng
thị trường Trung Đông của một DN XKLĐ tại TPHCM cho biết ở một số quốc gia

của khu vực này như Các Tiểu Vương quốc Á Rập Thống nhất, Qatar, Maldives
cũng đã xuất hiện tình trạng nhiều lao động VN, chủ yếu làm việc ở lĩnh vực xây
dựng, thiếu việc làm. Neu rủi ro không được giải quyết, sẽ có số lượng lớn lao
động phải về nước trước hạn.
Bên cạnh đó, việc Chính phủ CH Czech quyết định tạm dừng cấp thị thực
nhập cảnh khiến hàng ngàn người đã đăng ký, đóng tiền thêm hoang mang. Theo
một nguồn tin của chúng tôi, hiện có gần 3.000 lao động bị “mắc kẹt” khâu visa,
không thể sang CH Czech được. Tổng số tiền mà những lao động này đóng cho các
DN XKLĐ đế chi trả phí môi giới, tiền “bôi trơn” thủ tục lên đến khoảng 22 triệu
USD.
Trong số 34 DN có tuyến chọn lao động sang CH Czech, một vài DN đứng
trước nguy cơ không có khả năng hoàn trả chi phí cho NLĐ. Tương tự, việc khai
thác thị trường mới Ba Lan - chủ yếu đưa lao động làm việc ở lĩnh vực may công
nghiệp - của một số DN có nguy cơ bất thành do NLĐ sau khi được DN tuyển
chọn, ký hợp đồng vẫn khó được cap visa.
B4. Cơ cấu lao động trong các ngành nghề có sự mất cân đối so
vói Thế giói.
Tập trung đông ở khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, khu vực có thu nhập thấp.
Khu vực công nghiệp và dịch vụ còn thấp.
II. Giải pháp
1. Trong nưóc
Ông Nguyễn Thanh Hòa, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH nhận định: "Theo dự
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
10
báo của các chuyên gia, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ dẫn đến khủng hoảng
thị trường việc làm không chỉ trong nước mà cả thị trưởng xuất khẩu lao động
(XKLĐ) do sản xuất giảm". Theo ông Hòa, sang năm 2009 tác động của suy thoái
kinh tế đến thị trường lao động cả trong và ngoài nước mới thật sự rõ rệt. Ông
Nguyễn Bá Hải, Trưởng ban quản lý lao động VN tại Đài Loan, cho biết trong số
81.000 lao động VN đang làm việc tại Đài Loan, trước mắt có khoảng 200 lao động

đang có nguy cơ bị chấm dứt hợp đồng trước thời hạn vì các xưởng sản xuất gặp
khó khăn, còn số người sắp bị tác động hiện chưa có thống kê.
Tuy nhiên trong tình trạng khó khăn chung, thị trường nhân lực vẫn còn một
số tiêm năng có thê khai thác. Ong Nguyễn Phú Bình, Đại sứ VN tại Nhật Bản tiết
lộ: "Tại Nhật, VN mới có 6.000 lao động, trong khi tiềm năng hoàn toàn có thế đưa
sang nước bạn tù' 10.000 lao động/năm trở lên. Hiện Nhật rất thích y tá, hộ lý
người Việt. Trong thời gian tới, bạn sẽ giúp chúng ta đào tạo y tá, hộ lý sau đó sang
làm việc ở Nhật thời gian dài, có thế từ 5-7 năm".
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Phó thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của khâu đào tạo trong việc XKLĐ nói riêng và tạo
công ăn việc làm nói chung. Phó thủ tướng cho biết, trong tình hình khó khăn hiện
nay, phương án hữu hiệu là cần tạo mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước đế mở ra
các mô hình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho trong nước và xuất
khẩu.
Phó thủ tướng lun ý cần gắn chặt dạy nghề, tạo việc làm, XKLĐ với mục tiêu
xóa đói giảm nghèo: "Với 61 huyện nghèo trên cả nước, chúng ta sẽ áp dụng chính
sách ưu đãi tối đa đế đào tạo nghề cho thanh niên ở các huyện nghèo này. Không
chỉ miễn phí đào tạo mà chúng ta sẽ hỗ trợ cả kinh phí ăn ở để họ chuyên tâm học
nghề. Ớ mỗi huyện nghèo, trong năm đầu chỉ cần có 100 người đi XKLĐ thì 1 đến
2 năm sau đã có 61.000 hộ có thế thoát nghèo".
Từ 2006 đến nay, bình quân mỗi năm VN đưa khoảng 83.000 lao động ra
nước ngoài làm việc (chiếm khoảng 5% số lao động được giải quyết việc làm).
Hằng năm, ước tính người lao động gửi về nước khoảng 1,6-2 tỉ USD. Mục tiêu
trong năm 2009, VN sẽ đưa 90.000 lao động ra nước ngoài làm việc (năm 2008 số
này là khoảng 85.000 người).
3. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam.
11
Đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, thúc đẩy phát triển kinh tế để tạo việc làm.
Phát triến các làng nghề truyền thống đế tạo việc làm ốn định

cho lao động ở nông thôn, hạn chế việc di cư tụ' phát ra thành phố.
Đây mạnh công tác giáo dục đào tạo đế nâng cao chất lượng
cho lao động, tăng khả năng cạnh tranh cho lao động.
Coi trọng công tác hướng nghiệp cho lao động
Phân bố lại dân cư hợp lý, góp phần ốn định cho thị trường lao
động, tránh tình trạng nơi thừa lao động, nơi thiếu lao đôngj.
Và một số biện pháp khác.
2. Đẩy mạnh xuất khẩu
(LĐ) - XKLĐ được coi là kênh giải quyết việc làm và xoá nghèo hiệu quả tại
nhiều địa phương trong cả nước. Năm 2009, Bộ LĐTBXH được giao thực hiện chỉ
tiêu đưa 90.000 LĐVN đi làm việc ở nước ngoài.
Trước những biến động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường XKLĐ
năm 2009 sẽ phát triển theo hướng nào. PV Lao Động đã có cuộc trao
đối với một số đại biếu về vấn đề này.
Thị trường Chân Á vân là trọng điếm
Thị trường Châu Âu với thu nhập cao là cơ hội lớn cho LĐVN, nhưng về số
lượng thì đây không phải là mục tiêu trọng điểm của chúng ta, vì đây là thị trường
dành cho LĐ tay nghề cao, ngoại ngữ tốt. Châu Á vẫn là thị trường phù hợp với
phần đông LĐVN, trong đó Trung Đông, Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn
Quốc vẫn là những thị trường trọng điểm. Bộ xác định, năm 2009, sẽ tập trung đấy
mạnh các giải pháp đế tăng thị phần tại các thị trường trọng điếm.
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
12
Thị trường Đài Loan vân rất tiềm năng
Hiện, có trên 81.000 LĐVN tại Đài Loan. Chưa có thống kê chính xác về số
DN tại Đài Loan tuyên bố phá sản hoặc dãn việc, nhưng có 3 cách giải quyết cho
số LĐ chịu tác động của cuộc khủng hoảng là: về nước, chuyển chủ hoặc về nghỉ
phép một thời gian, số LĐ bị ảnh hưởng rơi vào CN các ngành công nghiệp điện
tử, dệt - là các ngành XK (khoảng 30% LĐVN làm trong các ngành này); còn LĐ
các ngành cơ khí, giúp việc gia đình, hộ lý không chịu tác động. Tuy nhiên, hiện

Đài Loan vẫn là thị trường thu hút sổ lượng lớn LĐVN với sổ LĐ mới chờ thấm
định lên tới 3-4 ngàn LĐ/tháng. Năm 2009, Đài Loan vẫn là thị trường tiềm năng,
có thế khai thác tốt, nhưng NLĐ cần tìm hiểu kỹ thông tin về DN, công việc trước
khi đi.
Nhật là thị trường tốt, có thế mở rộng hon
LĐVN được Nhật Bản đánh giá cao vì tinh thần cần cù, sáng tạo, có trách
nhiệm trong công việc và khả năng thích ứng, tiếp thu tay nghề cao. Đây là cơ hội
cho VN mở rộng thị trường tại Nhật. Không chỉ LĐ trình độ cao, mà LĐ bình
thường, có tay nghề vẫn có cơ hội làm việc tại Nhật như y tá, hộ lý. về chương
trình tu nghiệp sinh, sắp tới Nhật sẽ tăng số lượng tiếp nhận và nhiều khả năng sẽ
nới dài thời gian lên 5 năm, thay vì 3 năm như hiện nay.
Cần có chính sách giải quyết việc làm cho NLĐ sau khi đi XKLĐ
Nghệ An hiện có 17.000 LĐ đang làm việc tại nước ngoài; số LĐ về nước
hàng năm khoảng 4-5 ngàn LĐ, trong đó chỉ có 15-17% có khả năng mở DN, tự’
tạo việc làm, số còn lại tiếp tục đi tìm việc. Vì vậy, cần có chính sách thu hút, tạo
việc làm cho LĐ đã đi XK, vì đây sẽ là nguồn LĐ chất lượng, có tay nghề, ý thức
tác phong công nghiệp, có thể cung cấp cho các KCN-KCX.
3. Đẩy mạnh phát triển một số ngành
Một phần nguyên do của hiện tượng này đến từ tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính trên thế giới, và cũng đến tù’ cả những khó khăn nội tại của nền
3. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam.
13
kinh tế trong nước.
Tài chính, bất động sản, công nghệ thông tin u ám
Năm 2007 được xem là năm hoàng kim của ngành tài chính, bất động sản,
công nghệ thông tin. Năm 2008, những nghề này bắt đầu nằm trong diện chịu nhiều
ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới cũng như những khó khăn
trong nước.
Theo bà Winnie Lam, Giám đốc bộ phận Tư vấn nhân sự của Navigos Group,
công ty cung cấp giải pháp nhân sự và tuyến dụng hàng đầu Việt Nam, trong tình

hình kinh tế hiện nay, doanh nghiệp cũng như người lao động thường thận trọng
hơn trong việc thay đổi nhân sự, thay đổi công việc. Với các công ty, thường thì họ
chọn giải pháp hoặc bình ổn, hoặc thay đổi theo chiều hướng cắt giảm nhân sự.
Bà Winnie Lam cho rằng, khi quyết định cắt giảm nhân sự xảy ra, ảnh hưởng
nhiều nhất sẽ đến với những ngành nghề đã phát triển quá nóng trong những năm
qua. Tài chính, bất động sản, công nghệ thông tin chính là những ngành được dự
báo là ảnh hưởng nhiều nhất.
Ngoài ra, sự đố vỡ hàng loạt ngân hàng lớn trên thế giới vừa qua đã khiến cho
lĩnh vục tài chính, vốn thu hút nhiều nhân lực những năm gần đây, co cụm lại và
đối mặt với một cuộc khủng hoảng thừa. Điều này cũng đã và đang thể hiện ở trong
nước.
Ví dụ, tại Citigroup, ngân hàng lớn thứ hai của Mỹ cũng vừa có kế hoạch sa
thải thêm 52.000 nhân viên vào đầu năm 2009. Trong 9 tháng đầu năm 2008, tập
đoàn này cũng đã cắt giảm 23.000 việc làm. Ke hoạch cắt giảm việc làm này nằm
trong chính sách cắt giảm chi tiêu đế đối phó với tình hình khủng hoảng.
Trong nước, một phần ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới,
thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm, nhiều công ty môi giới đã buộc phải giảm
từ 20% - 30% nhân lực hoặc một khoản chi phí tương ứng. Nhiều ngân hàng
thương mại cũng ở trong tình thế tương tự, đặc biệt là sau khó khăn trong 6 tháng
đầu năm.
Ông Phạm Quang Ngọc, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cho
rằng, nếu như năm 2007 đầu năm 2008 được coi là năm của nhân lực ngành tài
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
14
chính với những mức lương ngất ngưởng, thậm chí sự cạnh tranh nhân lực luôn xảy
ra với các công ty hoạt động trong lĩnh vực này, thì tù’ cuối năm 2008 và trong năm
tới, sẽ có một cuộc đào thải lao động lớn trong ngành này; phía sau
đó là chất lượng lao động sẽ được “siết chặt hơn”.
Một ngành thuộc diện “hot” trong những năm qua là công nghệ thông tin
cũng đang chịu tác động của khủng hoảng kinh tế. Neu như năm 2007 và 2008,

nhiều học viêncông nghệ thông tin ra trường không sợ thất nghiệp, được mời chào
với những mức lương khá hấp dẫn, thì năm 2009, nhiều chuyên gia dự báo, sẽ có
10% - 15% nhân viên công nghệ thông tin thất nghiệp.
Ngay từ tháng 7/2008, một trong những công ty công nghệ hàng đầu của Việt
Nam là FPT cũng đã có quyết định cắt giảm 10% nhân sự. Gần đây là sự xôn xao
trên thị trường công nghệ về một trường hợp “ghép” ba công ty con làm một đế
tinh gọn bộ máy, đồng nghĩa với một lực lượng lao động phải ra đi.
Ngành xây dựng, du lịch, dịch vụ tiếp tục “ngủ đông”
Ngoài lao động trong ngành tài chính, các chuyên gia dự báo năm 2009 cũng
sẽ là năm phang lặng của nhân lực ngành xây dựng, du lịch và dịch vụ. Lý do được
đưa là trong thời khủng khoảng tài chính, nhu cầu và sức tiêu dùng ở lĩnh vực này
sẽ sụt giảm.
Ông Nguyễn Xuân Vui, Tổng giám đốc Công ty cố phần Dịch vụ và Thương
mại hàng không, cho rằng khi kinh tế khó khăn, người ta cũng ít nghĩ đến chuyện
du lịch, giải trí. Các tour du lịch tại công ty ông cũng đã giảm đáng kể so với hồi
đầu năm.
“Khủng hoảng kinh tế đã tác động mạnh đến hiệu quả kinh doanh của ngành
dịch vụ, du lịch, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của lao động động ngành này.
Năm 2009, nếu tình hình không được cải thiện, chúng tôi sẽ buộc phải cắt giảm lao
động”, ông Vui cho biết.
Y, dược, bán hàng, marketing “lên ngôi”
Trong khi phần lớn các ngành nghề đang “tụt hạng”, thì năm 2009 lại được
dự đoán là năm của lao động ngành y, dược.
3. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam.
15
Tại một cuộc hội thảo về lĩnh vực này vừa được tố chức tại Tp.HCM, các
chuyên gia nhận định, sự thiếu hụt nhân lực trong ngành y, dược mà Bộ Y tế vừa
công bố chính là nhu cầu cho ngành này trong năm tới.
Theo số liệu tù’ cuộc hội thảo, trung bình mỗi năm, mỗi công ty trong ngành
dược sẽ tuyến tù' 40 - 80 lao động, chủ yếu là sinh viên mới tốt nghiệp tù’ các

trường đại học đế đảm nhận những công việc như trình dược viên, nhân viên trong
các công ty dược, bệnh viện và sở y tế các tỉnh, thành. Đó là chưa kế sự thiếu hụt
nguồn nhân lực là các y, bác sỹ.
Còn theo báo cáo của Bộ Y tế, hiện cả nước có trên 85 triệu dân nhưng chỉ có
55.000 bác sỹ. Như vậy, tính trung bình chỉ có khoảng 6,4 bác sỹ trên 10.000 dân.
Với vùng sâu, vùng xa, số lượng bác sỹ chỉ là 2/10.000 người.
Cũng theo bộ này, hiện mỗi năm việc khám chữa bệnh tại các bệnh viện cần
thêm khoảng 6.000 bác sỹ, 1.500 dược sỹ, 10.000 điều dưỡng viên và khoảng 7.000
các cán bộ khác. Nhu cầu nhân lực cho các bệnh viện từ nay đến 2010 trên 74.000
người. Đây chính là “sức hút” nhân lực ngành y, dược trong năm tới.
Ở một chuyển động khác, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, việc kinh doanh
đình trệ, các doanh nghiệp phải tìm đủ mọi cách để sản phẩm mình làm ra khẳng
định được tên tuối, chồ đứng. Đây chính là cơ hội cho ngành truyền thông,
marketing, bán hàng phát triển.
Trao đối với VnEconomy về nguồn nhân lực cho ngành này, một giám đốc
công ty truyền thông cho biết, sở dĩ ông thành lập công ty truyền thông vì nhận thấy
đây là một ngành phát triến mạnh nhất trong nửa năm trở lại đây, hiện nhân lực
trong lĩnh vực này luôn trong tình trạng cung không đủ cầu.
Ghi nhận từ thống kê trực tuyến của Vietnamworks.com cũng cho thấy, bán
hàng, tiếp thị, truyền thông là những ngành có cầu nhân lực cao nhất hiện nay.
c. KÉT LUẬN
Phát triến thị trường lao động Việt Nam là một giải pháp quan trọng đế thúc
đấy đào tạo, đối mới chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Tuy nhiên việc phát
Thị trường lao động Việt Nam có các đặc điếm sau:
16
triển thị trường lao động hiện nay gặp rất nhiều những khó khăn như đã trình bày ở
trên. Việc thực hiện những giải pháp mang tính đồng bộ ngoài việc giúp cho phát
triển bền vững thị trường lao động bên cạnh đó còn giúp tạo lập sự ổn định va đồng
bộ các loại thị trường khác như: Thị trường vốn, thị trường bất động sản hay cả thị
trường khoa học công nghệ, Chính vì điều này phát triển thị trường lao động là

một yêu cầu cấp bách trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đế hình thành nên các thang bậc giá trị sức lao trong xã hội
mà quan trọng nhất ở đây là vấn đề tiền lương.

×