Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Nông nghiệp việt nam sau khi gia nhập WTO thời cơ và thách thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 173 trang )













LUẬN VĂN:

Nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập
WTO - thời cơ và thách thức






MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham gia WTO, Việt Nam có nhiều cơ hội để xây dựng và phát triển đất nước. Nền
kinh tế nói chung, nền sản xuất nông nghiệp nói riêng thêm điều kiện tiếp cận thị trường
hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên một cách bình đẳng, không bị phân biệt
đối xử, tạo cơ hội cho nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu, có điều kiện để đấu tranh bảo
vệ sự công bằng và hợp lý hơn các lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp cũng như của
người dân. Vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến sẽ có cơ hội đầu tư vào nước ta hơn, kích


thích tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện mở mang một số ngành kinh tế, hàng hóa xuất
khẩu, và theo đó tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Đây cũng chính là thời cơ
vàng để nông nghiệp Việt Nam rũ bỏ hình ảnh sản xuất nhỏ lẻ “con trâu đi trước, cái cày
đi sau”,…bởi vì chúng ta không thể vào WTO với cung cách cấy lúa bằng tay, gặt lúa bằng
liềm và gánh lúa bằng vai.
Vào WTO các nước thành viên phải tuân thủ các quy tắc thống nhất về hệ thống
chính sách thương mại, về môi trường thể chế pháp lý (bảo hộ sở hữu trí tuệ, các quy định
về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn xã hội, tiêu chuẩn môi trường). WTO hướng tới một hệ
thống chính sách thương mại minh bạch, một luật chơi thống nhất, nhằm thúc đẩy tự do
hóa thương mại.
Tuy nhiên, khi Việt Nam gia nhập WTO, nỗi lo lớn nhất, đầu tiên của Đảng, Nhà
nước, Chính phủ chính là vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn, bởi là một nước đi
lên từ nông nghiệp nên trình độ phát triển và quản lý nhà nước còn thấp, doanh nghiệp, đội
ngũ doanh nhân còn ít, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đặt ra cho nông nghiệp
những khó khăn, thách thức rất lớn. Thách thức lớn nhất đối với nông nghiệp khi gia nhập
WTO là khả năng cạnh tranh khốc liệt của các hàng nông sản trong nước với hàng ngoại
nhập có chất lượng cao trở nên gay gắt hơn, quyết liệt hơn và diễn ra trên quy mô rộng lớn
hơn. Nông dân do thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ phải mua giống, vật tư, tư liệu sản xuất
nông nghiệp với giá cao và do đó làm tăng chi phí sản xuất. Lĩnh vực nông nghiệp vốn có
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh kém, qui mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ
lạc hậu, năng suất, độ đồng đều, chất lượng sản phẩm và khâu an toàn vệ sinh còn thấp
(90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra ở dạng thô và 60% sản phẩm bị bán ép với
giá thấp), khả năng hợp tác liên kết của nông dân Việt Nam còn rất yếu, chưa kết nối được


giữa sản xuất và tiêu thụ, công nghệ sau thu hoạch kém phát triển, đặc biệt nhất là “tay
nghề”của thành phần sản xuất chủ lực - nông dân - chưa được nâng cao ngang tầm của một
nước mạnh về xuất khẩu nông sản. Dịch vụ và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho việc phát triển
nông nghiệp nông thôn không theo kịp với đà tăng trưởng kinh tế của toàn xã hội. Việc cải
cách hành chính chuyển đổi cơ cấu thể chế còn chậm, môi trường pháp lý đầu tư kinh

doanh còn nhiều bất cập, thị trường đất đai, lao động, vốn, công nghệ chưa vận hành một
cách thuận lợi. Hơn nữa, theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường
nông nghiệp bằng việc cắt giảm thuế nông sản, loại bỏ hàng rào phi thuế. Các nước giàu
tiếp tục duy trì trợ cấp và các rào cản đối với thị trường nông sản khiến ngành nông nghiệp
khó có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để đối phó. Hiện vẫn còn tồn tại những
hàng rào phi thương mại áp dụng đối với gạo, đường, phân bón Kinh tế nông thôn nước
ta phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch, rất bị động trong việc tiêu
thụ sản phẩm. Các ngành nghề phi nông nghiệp sản xuất thiếu ổn định do thiếu vốn, thiếu
nguyên liệu và sử dụng công nghệ lạc hậu. Chính sách nông nghiệp của ta trước đây là lo
đủ ăn và cố gắng có dư thừa để xuất khẩu, nay phải hướng sang giai đoạn phát triển có
hiệu quả cao và bền vững.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đến năm 2006, sức cạnh tranh của
nông nghiệp Việt Nam liên tục bị sụt giảm, trong khi nước láng giềng Thái Lan đứng ở vị
trí thứ 30 trên thế giới, thì Việt Nam lại đứng ở vị trí thứ 70 đến 80. Việc gia nhập WTO
vừa mang đến cho nông nghiệp Việt Nam triển vọng về một sân chơi khổng lồ, đồng thời
cũng bắt buộc người sản xuất phải đối diện ngay với 4 luật chơi cực kỳ khó khăn, đó là: 1.
Luật chơi về an toàn thực phẩm; 2. Luật chơi về chất lượng; 3. Luật chơi về số lượng; 4.
Luật chơi về giá cả.
Cùng với quá trình hội nhập WTO, nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp,
nguy cơ thất nghiệp và phân hóa giàu nghèo sẽ tăng lên nếu chúng ta không có chính sách
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn và
không thực hiện tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”. Hội nhập
kinh tế càng sâu rộng, càng đặt ra nhiều vấn đề mới về bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc…
Như vậy, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Việt Nam vừa đem lại thời cơ
và lợi ích lớn, vừa có những thách thức không nhỏ. Làm thế nào nắm bắt được những cơ


hội để phát huy cũng như đối đầu những thách thức sẽ liên tục diễn ra trong quá trình thực

hiện những cam kết để có thể tác động tăng tính cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam?
Liệu nông nghiệp Việt Nam có đứng vững khi hội nhập? Chúng ta sẽ thực hiện những cam
kết trong lĩnh vực nông nghiệp như thế nào?
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về một số
chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới cũng đã chỉ rõ: "Những cơ hội, thách thức
nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự
phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Tận dụng tốt
cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại,
nếu không nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ
hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu cũng
còn tuỳ thuộc vào nỗ lực và khả năng vượt qua của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có
biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của các thách thức thì không
những chúng ta sẽ vượt qua được thách thức mà còn có thể biến thách thức thành động lực
phát triển"
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập
WTO - thời cơ và thách thức" là nhiệm vụ khoa học có ý nghĩa thực tiễn cấp bách trong
tình hình hiện nay.
Thành công nhiều hay ít phụ thuộc chủ yếu vào sự nỗ lực, chủ động vươn lên của
nước ta để tận dụng được thời cơ, vượt qua được thách thức, thậm chí có thể phải đối mặt
với sự trừng phạt từ phía các thành viên khác trong tổ chức Thương mại Thế giới. Lịch sử
của WTO cũng đã cho thấy, có những quốc gia, dù đó là thành viên lâu năm, nhưng tình
hình kinh tế - xã hội vẫn không được cải thiện vì không tận dụng được thêi cơ để phát
triển, đẩy lùi được thách thức.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nông nghiệp Việt Nam gia nhập WTO từ trước tới nay đã được nghiên cứu trên những
góc độ khác nhau, có thể tổng hợp một số công trình tiêu biểu sau:
1. Việt Nam - WTO những cam kết liên quan đến nông dân, nông nghiệp, nông
thôn và doanh nghiệp, Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương, Nxb CT QG, 2007.
Cuốn sách là tập hợp các câu hỏi và trả lời liên quan đến WTO; quan điểm, chủ

trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc gia nhập WTO; những vấn đề cụ thể liên quan


đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn và các doanh nghiệp trong thực hiện các cam kết
của WTO
2. Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, báo cáo năm 2005.
Nghiên cứu này tập trung vào hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp. Để
đạt được điều này, nghiên cứu sẽ nhằm trả lời một số câu hỏi như: i) những chính
sách/định chế hiện hành và những hạn chế của chúng đối với quá trình hội nhập của ngành
nông nghiệp ii) Đ©u là những thay đổi về qui định (hay hệ thống) trong giai đoạn từ này
đến 2010 trên thế giới và những thay đổi này tác động như thế nào đến nông nghiệp trong
nước; iii) Việt Nam phải thực hiện những điều chỉnh gì để tuân thủ yêu cầu của WTO (qui
định, luật lệ, đàm phán) và hơn hết là để thúc đẩy sự hội nhập thành công của ngành nông
nghiệp vào hệ thống toàn cầu.
3. Phân tích chính sách nông nghiệp Việt Nam trong khuôn khổ WTO, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo, 2001.
Báo cáo giới thiệu Hiệp định về nông nghiệp và một số quy định của WTO trong
nông nghiệp; Đánh giá thực trạng chính sách nông nghiệp của Việt Nam trong khuôn khổ
WTO; Đưa ra định hướng chính sách nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập.
4. Tác động của việc gia nhập WTO đến sản xuất lúa gạo của hộ nông dân Việt
Nam, TS. Phan Sĩ Mẫn (chủ nhiệm), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, 2008.
Đề tài đã nghiên cứu khung khổ các hiệp định của WTO về nông nghiệp và sản
xuất, thương mại lúa gạo (Hiệp định về nông nghiệp – AoA; Hiệp định về các biện pháp
kiểm dịch động thực vật - SPS; Hiệp định về hàng rào kĩ thuật trong thương mại – TBT;
Hiệp định các khía cạnh liên quan đến thương mại quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại
nông nghiệp – TRIPs); những thay đổi chính sách và thực tế sản xuất, thương mại lúa gạo
của nông dân Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO (quá trình đổi mới chính sách của
Nhà nước đối với sản xuất và thương mại lúa gạo; thực trạng sản xuất và thương mại lúa
gạo của Việt Nam trong quá trình đổi mới và gia nhập WTO; cơ hội và thách thức đối với

phát triển sản xuất và thương mại lúa gạo của Việt Nam khi gia nhập WTO); phân tích
thực tế tình hình sản xuất kinh doanh lúa gạo của hộ nông dân tại các điểm nghiên cứu qua
đó rút ra nhận xét và kiến nghị về chính sách và giải pháp.


5. nh hng cú th ca WTO n sn phm nụng nghip vựng Tõy bc Vit Nam,
Liờn hip cỏc hi khoa hc k thut Vit Nam - Hi Nụng dõn Vit Nam, K yu Hi tho
khoa hc, Sn La, 2004.
ti lm rừ vn sản xuất giống nội địa khi Vit Nam gia nhập WTO; Những
thách thức của Hiệp định nông nghiệp (AoA), WTO đối với nông nghiệp v đánh giá
chính sách nông nghiệp của Việt Nam đối chiếu với yêu cầu của WTO; Bi học kinh
nghiệm của Philippines: Tác động khi gia nhập WTO đối với nông nghiệp trong nớc,
đặc biệt l đối với nông sản.
6. ỏnh giỏ s phự hp ca chớnh sỏch nụng nghip Vit Nam vi cỏc quy nh
trong Hip nh khu vc v a phng, B Nụng nghip v Phỏt trin nụng thụn, Bỏo cỏo
nm 2005.
Bỏo cỏo phõn tớch cỏc quy nh trong Hip nh thng mi khu vc v a phng
v nụng nghip, chớnh sỏch nụng nghip hiờn hnh ca Vit Nam v nhng mõu thun
tim n vi cỏc ngha v thc hin, nhng khú khn m cỏc nc gia nhp WTO gp phi,
khuyn ngh v chớnh sỏch phỏt trin nụng nghip.
7. iu chnh chớnh sỏch thu v tr cp sau khi gia nhp T chc Thng mi Th
gii, TS. Lờ Xuõn Sang - TS. Nguyn Xuõn Trỡnh, Nxb Ti chớnh, 2007.
Cun sỏch bn n s cn thit phi iu chnh chớnh sỏch thu v tr cp sau khi
gia nhp T chc Thng mi Th gii; Kinh nghim quc t trong iu chnh chớnh sỏch
thu v tr cp sau khi gia nhp T chc Thng mi Th gii; Quỏ trỡnh iu chnh chớnh
sỏch thu, tr cp Vit Nam v nhng thỏch thc sau khi gia nhp T chc Thng mi
Th gii; Mt s phng hng v gii phỏp iu chnh chớnh sỏch thu v tr cp ca
Vit Nam trong bi cnh mi.
8. Chính sách và giải pháp nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam hiện nay, GS.TSKH L-ơng Xuân Quỳ, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ ; Bộ Th-ơng

mại, 2005.
Đề tài đã phân tích đánh giá về thực trạng giá trị gia tăng của một số nông sản
xuất khẩu chủ yếu nh-: gạo, cà phê, thuỷ sản. Từ đó, đề tài đã có những đề xuất về
các chính sách và giải pháp nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho những ngành hàng t-ơng
ứng.


9. Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế,
GS.TS Bùi Xuân Lưu, Nxb Thống kê, 2004
Cuốn sách làm rõ:
- Bản chất và mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hóa thương mại nông sản, cũng như
các phương thức bảo hộ nông nghiệp phổ biến mà các quốc gia thường dùng.
- Khái quát xu hướng và kinh nghiệm bảo hộ nông nghiệp trên thế giới, của các
nước phát triển và các nước đang phát triển.
- Đánh giá thực trạng các biện pháp bảo hộ nông nghiệp Việt Nam và tác động của
bảo hộ đến phát triển nông nghiệp nói chung và nhất là một số nông sản chính trong thời
gian qua.
- Đưa ra một số giải pháp sử dụng phương thức bảo hộ hợp lý nông nghiệp trong
quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
10. Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn, Nhiều tác giả, Nxb
Chính trị quốc gia, 2005.
WTO là tổ chức thương mại đa phương toàn cầu chiếm tới 90% thương mại thế
giới. Do đó các nước đều muốn tham gia để tận dung lợi thế thành viên của WTO.
Việt Nam gia nhập WTO có thể có được những thuật lợi như: thuế nhập khẩu hàng
Việt Nam ở nước ngoài sẽ giảm đáng kể; sự hạn chế về định lượng đối với một số hàng
xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm do các nước WTO sẽ bỏ chế độ hạn ngạch và thị
trường được mở rộng hơn; đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tăng hơn; hàng hoá và dịch
vụ nước ngoài tại thị trường nước ta sẽ trở nên phong phú và có chất lượng.
Tuy nhiên, việc gia nhập WTO cũng đặt Việt Nam phải đối mặt với một loạt các
vấn đề: mối đe doạ các ngành sản xuất trong nước chưa đủ sức cạnh tranh; việc hạ thấp

hàng rào thuế quan làm giảm nguồn thu ngân sách; trợ cấp cho một số sản phẩm sẽ khó
khăn hơn
Cuốn sách cung cấp thông tin về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam và kinh
nghiệm của một số nước đi trước cũng như các nước cùng hoàn cảnh với nước ta.
11. Bộ văn kiện cam kết của Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO, Bộ Thương mại, Nxb Lao động - Xã hội, 2006.
- Tập 1: bao gồm nội dung giới thiệu khái quát về tổ chức Thương mại Thế giới -
WTO. Những bài viết, phân tích về thời cơ, thách thức, thuận lợi, khó khăn khi Việt Nam


gia nhập WTO. Báo cáo của ban công tác, biểu cam kết về hàng hoá (nông sản), biểu cam
kết về dịch vụ.
- Tập 2: Hệ thống biểu cam kết về hàng hoá (phi nông sản).
12. Thời cơ và thách thức khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO, Bộ Thương mại, Nxb Lao động - Xã hội, 2006.
Cuốn sách sẽ giới thiệu những vấn đề khái quát về tổ chức thương mại thế giới.
Toàn bộ quá trình đàm phán, lợi ích - nghĩa vụ, khó khăn - vướng mắc và những tác động
tới các ngành, lĩnh vực chủ yếu của nước ta, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà Nước về hội nhập kinh tế quốc tế, và gia nhập WTO. Những bài viết, tham luận của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước về gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
của Việt Nam. Một số thông tin kinh tế - xã hội - lao động của Việt Nam trước thềm gia
nhập WTO.
13. Tác động từ việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến kinh tế và xã hội
Việt Nam, Bộ Công thương - Ủy ban Châu Âu (Hội thảo), 2008.
Hội thảo đã đưa ra các báo cáo tác động của việc gia nhập WTO đến:
- Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, cơ cấu xuất nhập khẩu, ngân sách nhà nước, lạm
phát, chính sách tiền tệ và tỉ giá, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thị trường chính khoán, cán
cân thanh toán và dự trữ ngoại hối;
- Môi trường kinh doanh: môi trường đầu tư, chính sách kinh tế;
- Nông nghiệp Việt Nam;

- Các vấn đề lao động và xã hội;
- Hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước; …
14. Giải quyết những thách thức khi gia nhập WTO - các trường hợp điển cứu,
Phạm Duy Từ, Nxb Trẻ, 2007.
Sách tập hợp những trường hợp điển cứu từ các nền kinh tế trên thế giới, mỗi
nghiên cứu minh họa các chính phủ, doanh nghiệp và xã hội dân sự quản lý việc đất nước
họ tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới, làm thành một bức tranh lồng ghép về đề tài
phải làm gì ở đầu thế kỷ XXI, để quản lý việc hội nhập một nền kinh tế vào hệ thống
thương mại toàn cầu và phần thưởng, hoặc hình phạt nào trong việc hội nhập có thể dành
cho các nền kinh tế thuộc mọi kích cỡ, kể cả nhiều nền kinh tế nghèo nhất và nghèo tài
nguyên nhất thế giới.
15. WTO thường thức, PGS.TS. Bùi Tất Thắng, Nxb Từ điển bách khoa, 2006.


Cuốn sách trả lời các câu hỏi: WTO l gỡ? Nú hot ng nh th no v em li li
ớch gỡ? Khi gia nhp WTO thỡ nn kinh t ca Vit Nam c gỡ v mt gỡ? Ti sao nú l
sõn chi, l phng tin ch khụng phi l mc ớch?
Cun sỏch nờu rừ lc s hỡnh thnh v phỏt trin, nhng c trng c bn ca
WTO, c cu t chc v c ch vn hnh, gii quyt cỏc tranh chp, quy trỡnh kt np
thnh viờn mi, quỏ trỡnh gia nhp ca Vit Nam v phõn tớch nhng tỏc ng ca WTO
i vi chớnh ph, doanh nghip v nhõn dõn ta trong thi gian ti.
Ngoi nhng ni dung ó nờu trờn, sỏch cũn cú phn ph lc gii thiu mt s ni
dung c bn ca Hip nh song phng Trung Quc Hoa K v Trung Quc EU khi
Trung Quc m phỏn song phng vi cỏc i tỏc quan trng ny trờn bc ng gia
nhp WTO.
16. Tỡm hiu T chc Thng mi Th gii (WTO), U ban quc gia v hp tỏc
kinh t quc t, Nxb Chớnh tr quc gia, 2005.
Tỡm hiu T chc thng mi th gii (WTO) gii thiu khỏi quỏt lch s hỡnh
thnh v nhng nguyờn tc hot ng ca T chc Thng mi th gii (WTO). Phn
trng tõm cun sỏch tp trung trỡnh by : mt s ni dung c bn cỏc hip nh ca WTO;

cỏch thc gii quyt cỏc tranh chp; chng trỡnh ngh s Doha; mt s vn liờn quan
n cỏc nc ang phỏt trin v th ch ca WTO; cỏc vn mi m WTO phi i mt
trong nhng thp k u th k XXI
17. Vn kin Vit Nam gia nhp T chc Thng mi Th gii WTO, Phm Quc
Li, Nxb Lao ng - Xó hi, 2006.
Ni dung cun sỏch gm 3 phn:
Phn 1: Bỏo cỏo ca ban cụng tỏc v vic Vit Nam gia nhp WTO.
Phn 2: Biu cam kt v thng mi hng hoỏ (bao gm cam kt v thu nhp khu,
hn ngch thu quan v tr cp nụng nghip).
Phn 3: Biu cam kt v thng mi dch v.
18. Nõng cao sc cnh tranh mt s mt hng nụng sn xut khu ch yu ca Vit
Nam trong iu kin hi nhp kinh t quc t, Ngụ Th Tuyt Mai, Lun ỏn Tin s kinh t,
i hc Kinh t Quc dõn, 2007.
Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và sức
cạnh tranh của hàng nông sản, làm rõ sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng
nông sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh t quc t. Dựa trên cơ sở lý luận đó,


luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh t quc t, chỉ rõ những
điểm mạnh, điểm yếu so với các mặt hàng của các đối thủ cạnh tranh khác và nguyên
nhân gây ra những điểm yếu đó. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, luận án đã đề
xuất các quan điểm và giải pháp, kiến nghị có cơ sở khoa học và có tính khả thi nhằm
nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh t quc t.
19. Hon thin chớnh sỏch thng mi quc t ca Vit Nam trong iu kin hi
nhp quc t, Mai Th Cng, Lun ỏn Tin s kinh t, i hc Kinh t Quc dõn, 2007.
Lun ỏn nghiờn cu mt cỏc h thng chớnh sỏch thng mi quc t ca Vit Nam
trong iu kin hi nhp kinh t quc t v xut mt s quan im v gii phỏp hon
thin chinh sỏch ny ca Vit Nam.

20. WTO kinh doanh v t v, Trng Cng, Nxb H Ni, 2007.
Vit Nam ó chớnh thc c kt np vo T chc Thng mi Th gii (WTO).
iu gỡ s din ra khi chỳng ta tham gia T chc Thng mi cú quy mụ ton cu ny.
õy l c hi m chỳng ta cú th v cn phi tn dng. Nhng thỏch thc no m chỳng ta
phi nhn bit v vt qua. tn dng c hi, vt qua thỏch thc, chỳng ta phi lm gỡ.
Nhng bi vit trong cun sỏch ny s lý gii cỏc vn nờu trờn.
21. Hc lm giu thi WTO, Bựi Dng, Nxb Tr, 2007.
Hc lm giu thi WTO, phỏc ha con ng n thnh cụng ca doanh nhõn Vit
ng i, chia s nhng tõm t, suy ngh ca cỏc doanh nhõn tuy mang tớnh cỏ nhõn xong
phn no lt t c bc chõn dung cỏc doanh nhõn Vit trong bi cnh nn kinh t Vit
Nam vn ra bin ln. Bờn cnh ú l bc thụng ip ca tỏc gi cun sỏch l chuyn
ca ngi, c hi ca mỡnh thụng qua cỏc cõu hi trao i khỏ thng thn vi cỏc doanh
nhõn.
22. Gia nhp WTO Trung Quc lm gỡ v c gỡ, TS Nguyn Kim Bỏo, Nxb Th
gii, 2006.
Cun sỏch khỏi quỏt quỏ trỡnh gia nhp WTO ca Trung Quc; ỏnh giỏ nhng
thnh cụng v tht bi ca Trung Quc trong quỏ trỡnh ra nhp WTO.
23. Trung Quc gia nhp WTO kinh nghim vi Vit Nam, VTV gii thiu, Nxb
Khoa hc xó hi, 2005.


Gia nhập WTO là một sự kiện lớn trong đời sống kinh tế - xã hội Trung Quốc. Nó
đánh dấu công cuộc mở cửa hội nhập quốc tế của Trung Quốc đã bước vào một thời kỳ
mới với những biến đổi chắc chắn sẽ sâu sắc và toàn diện hơn.
Để trở thành thành viên của WTO - tổ chức Liên hợp quốc về kinh tế này, Trung
Quốc đã trải qua một quá trình đàm phán ma-ra-tông kéo dài 15 năm ròng rã, dài nhất
trong lịch sử của WTO với rất nhiều khó khăn và trắc trở cả bên trong lẫn bên ngoài.
Vì thế, từ khi gia nhập WTO (12-2001) đến nay, do chính sách được điều chỉnh kịp
thời và đúng đắn, Trung Quốc đã khai thác được các cơ hội đưa lại, đẩy nhanh nhịp độ cải
cách, mở cửa và đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.

Việt Nam là nước láng giềng, có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc. Thực
hiện chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng đang tích cực đàm
phán để sớm gia nhập WTO.
Tuy quy mô và vị thế của hai nền kinh tế Việt Nam, Trung Quốc trong nền kinh tế
thế giới khác nhau nhưng do thể chế giống nhau nên những kinh nghiệm của Trung Quốc
trong cả quá trình chuẩn bị bên trong, đàm phán và đối sách sau khi gia nhập WTO sẽ là
những bài học tham khảo tốt cho tất cả những ai quan tâm tìm hiểu về Trung Quốc và liên
hệ với việc gia nhập WTO của Việt Nam.
24. Trung Quốc sau khi gia nhập WTO - thành công và thách thức, Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam, Nxb Thế giới, 2006.
Sách tập trung nghiên cứu những tác động thực tế từ sau khi Trung Quốc gia nhập
WTO đến nay và những điều chỉnh chính sách trên các mặt chủ yếu: Cải cách Chính phủ,
cải cách thể chế, cải cách doanh nghiệp, trên cơ sở đó nêu ra một số nhận xét và khuyến
nghị.
25. Tổng quan các nghiên cứu về môi trường đầu tư nông nghiệp ở Việt Nam, Viện
chính sách chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Báo cáo 2005.
Báo cáo nghiên cứu, đánh giá môi trường đầu tư nông nghiệp ở Việt Nam và đề
xuất một số giải pháp một số giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư nông nghiệp ở
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
26. Giáo trình kinh tế nông nghiệp, PGS.TS Vũ Đình Thắng, Nxb Đại học Kinh tế
quốc dân, 2006.
Cuốn sách đề cập tới: Vị trí của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân; Những đặc
điểm của sản xuất nông nghiệp; Nông nghiệp Việt Nam trong đổi mới; Chiến lược phát


trin nụng nghip Vit Nam; Phỏt trin nn nụng nghip bn vng; Khỏi nim v c
trng ca h thng kinh t nụng nghip Vit Nam; Bn cht v vai trũ cỏc yu t ngun
lc trong tng trng v phỏt trin nụng nghip; Phng hng v nhng bin phỏp ch
yu thỳc y tin b khoa hc cụng ngh trong nụng nghip nc ta; Mt s gii phỏp ch
yu thỳc y cỏc vựng chuyờn mụn húa Vit Nam; Qun lý nh nc v kinh t trong

nụng nghip
Những công trình nêu trên cung cấp một số cách tiếp cận quan trọng có thể kế thừa
đối với những nghiên cứu liên quan. Tuy vậy, đến nay vẫn ch-a có công trình riêng nào
đánh giá thời cơ và thách thức của nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhp WTO, từ đó đề
xuất những vấn đề cần giải quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của nông
nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Do đó, việc thực hiện đề tài này là rất cần
thiết xét từ cả nhu cầu thực tiễn và nghiên cứu lý luận.
3. Mc tiờu ca ti
Mc tiờu ca ti l phõn tớch, ỏnh giỏ nhng thi c, thỏch thc ca nụng
nghip Vit Nam v xut mt s gii phỏp nhm thỳc y s phỏt trin v nõng cao
nng lc cnh tranh, hi nhp ca nụng nghip Vit Nam sau khi ra nhp WTO.
4. Phng phỏp nghiờn cu
gii quyt nhng ni dung nhim v t ra, ti s dng mt s phng phỏp
nghiờn cu ph bin sau:
- Phng phỏp duy vt bin chng, duy vt lch s kt hp vi phng phỏp lch s v
lụgic. Những ph-ơng pháp này đ-ợc sử dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài để
nghiờn cu nụng nghip Vit Nam vi WTO mt cỏch ng b, gn vi tng giai on,
tng hon cnh lch s c th ca t nc, trong mi quan h bin chng vi cỏc lnh vc
khỏc.
- Phng phỏp tng hp: tng hp tt c nhng vn liờn quan n nụng nghip Vit
Nam sau khi gia nhp WTO.
- Phng phỏp phõn tớch h thng: Phõn tớch mt cỏch cú h thng nn nụng nghip
Vit Nam bit c thc trng phỏt trin nhm xut nhng gii phỏp hu hiu.
- Phng phỏp thng kờ, thu thp thụng tin nh lng: ti s dng cỏc s liu, ti
liu thng kờ thớch hp phc v cho vic phõn tớch, ỏnh giỏ ton din ni dung nghiờn
cu.


- Phng phỏp chuyờn kho, i chiu so sỏnh: ti tin hnh nghiờn cu chuyờn
sõu trong lnh vc nụng nghip. ng thi ni dung ú c xem xột ỏnh giỏ trờn c s

so sỏnh i chiu vi mt s nc trờn th gii nhm rỳt ra bi hc kinh nghim cho Vit
Nam.
- Phng phỏp quy np v din dch: trờn c s phõn tớch nhng ni dung c bn v
nụng nghip Vit Nam sau khi gia nhp WTO, ti s dng phng phỏp quy np a ra
nhng ỏnh giỏ v thi c cng nh thỏch thc ca nụng nghip Vit Nam trong WTO.
- Phng phỏp chuyờn gia: Tham kho ý kin ca cỏc nh t vn, cỏc chuyờn gia trong
vic nõng cao nng lc cnh tranh v hi nhp ca nụng nghip Vit Nam.
5. í ngha lý lun v thc tin ca ti
- Hình thành đ-ợc cơ sở lý luận, hoàn thiện ph-ơng pháp nghiên cứu trên cơ sở đó
đ-a ra đ-ợc cách tiếp cận phù hợp về nông nghiệp Việt Nam sau khi gia WTO.
- Tổng kết mt s bài học kinh nghiệm của các n-ớc thành viên WTO trong việc
giải quyết vấn đề nông nghiệp sau khi gia nhập WTO
- Phân tích thực trạng và đánh giá đúng chính sách nông nghiệp Việt Nam sau
khi gia nhập WTO dựa trên các ph-ơng pháp phân tích định tính và định l-ợng.
- Phân tích, đánh giá đúng thời cơ và thách thức của nông nghiệp Việt Nam sau khi
gia nhập WTO
- Đề xuất một số vấn đề cần giải quyết của nông nghiệp Việt Nam sau khi gia
nhập WTO để tận dụng thời cơ, hạn chế thách thức.
6. Ni dung nghiờn cu
Ngoi phn m u, danh mc ti liu tham kho v ph lc, ti tp trung vo
cỏc ni dung sau:
Chng 1: Hi nhp kinh t quc t v ni dung cỏc cam kt trong lnh vc nụng
nghip
Chng 2: Thi c v thỏch thc ca nụng nghip Vit Nam sau khi gia nhp
WTO
Chng 3: Quan im v gii phỏp ch yu phỏt trin nụng nghip vit nam sau
khi ra nhp WTO


Chương 1

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO TRONG LĨNH
VỰC NÔNG NGHIỆP

1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI
Nông nghiệp là một ngành kinh tế xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội loài
người và phạm vi hoạt động của nông nghiệp cũng rộng lớn nhất trên các đại lục của hành
tinh chúng ta. Bước vào thế kỷ 21, với những thách thức về an ninh lương thực, sức ép dân số
gia tăng, các vấn đề môi trường sinh thái, nông nghiệp được dự báo vẫn tiếp tục giữ vị trí
quan trọng trong phát triển bền vững toàn cầu. Việt Nam, một nước đang phát triển, nông
nghiệp có vị trí càng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, cả về kinh tế và xã hội.
Theo nghĩa hẹp, ngành nông nghiệp bao gồm hai lĩnh vực: trồng trọt và chăn nuôi.
Theo nghĩa rộng, ngành nông nghiệp bao gồm ba lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất, cơ
bản nhất của con người. Nông nghiệp giữ vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội mà chưa có ngành sản xuất nào có thể thay thế được, đặc
biệt là đối với các quốc gia nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp thì điều đó càng quan trọng
hơn. Quá trình sản xuất nông nghiệp còn tạo ra những tư liệu sản xuất mà các ngành khác
không thể sản xuất được (các loại cây, con giống…) để tái sản xuất cho chính bản thân
ngành nông nghiệp. Vai trò của nông nghiệp thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm bảo đảm nhu cầu ngày
càng tăng cho đời sống xã hội (gạo, thịt, trứng, sữa, rau quả…) là nhu yếu phẩm thiết yếu
cung cấp dinh dưỡng cho sự tồn tại và phát triển của con người cả về thể lực và trí tuệ, cho
đến nay chưa có ngành nào có thể thay thế được.
Xã hội phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng lên và phát triển đa dạng.
Nhưng trước hết, như C.Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn rồi sau đó mới
nói đến hoạt động khác. Nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người,
và việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống của họ và của mọi
lĩnh vực sản xuất nói chung. Ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói

riêng, nhu cầu lương thực ngày càng tăng do tốc độ dân số nhanh và quá trình công nghiệp


hóa, đô thị hóa gắn liền với sự tăng nhanh lực lượng lao động phi nông nghiệp. Vì vậy, để
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và cung cấp đủ thực phẩm cho đời sống của xã hội,
sản xuất lương thực luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong nông nghiệp. Nhiều nghiên cứu
kinh tế đều có chung kết luận rằng: "một cuộc cách mạng nông nghiệp là điều kiện tiên
quyết cho công nghiệp ở bất kỳ khu vực nào trên thế giới". Điều kiện tiên quyết cho phát
triển là tăng cung lương thực trong nền kinh tế hoặc bằng sản xuất trong nước hoặc bằng
nhập khẩu.
Dân số Việt Nam tính đến thời điểm này khoảng 85 triệu người, lại ở mức thu nhập
thấp nên việc tạo ra lương thực thỏa mãn nhu cầu tối cơ bản cho xã hội của ngành nông
nghiệp có vai trò quyết định trong việc đảm bảo ổn định về mặt xã hội. Theo dự báo đến
năm 2020, cả nước sẽ có khoảng 100 triệu người và đến năm 2030 là 120 triệu người.
Trong khi đó, diện tích trồng lúa phải giảm do những nguyên nhân như tăng dân số, đô thị
hóa, công nghiệp hóa trên diện rộng. Các chuyên gia cho rằng, đến năm 2010, tổng nhu
cầu về lương thực của cả nước sẽ là 47 triệu tấn (tăng 3,3 triệu tấn so với năm 2007), trong
đó riêng lúa gạo là 31,1 triệu tấn (tăng gần 2 triệu tấn so với năm 2007). Đến năm 2015,
tổng nhu cầu lương thực cả nước là 50,3 triệu tấn. Đặc điểm này khẳng định vai trò đặc
biệt quan trọng của nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, bảo đảm sự ổn định
chính trị - xã hội của đất nước. Từ đó, khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực
trong chiến lược phát triển nông nghiệp, của năng suất lao động nông nghiệp đối với việc
bố trí và phân công lại lao động xã hội.
Thứ hai, nông nghiệp là ngành cung cấp các nguồn đầu vào cho các lĩnh vực khác.
Nguồn đầu vào cho sản xuất là những yếu tố không thể thiếu được của bất kỳ quá trình sản
xuất nào. Nó đảm bảo việc duy trì và mở rộng sản xuất cho sự tồn tại và phát triển của nền
sản xuất xã hội. Vai trò của nông nghiệp trong việc cung cấp nguồn đầu vào cho các lĩnh
vực kinh tế khác thể hiện ở:
- Cung cấp nguyên liệu cho các ngành chế biến như: cà phê, mủ cao su, mía cây,
bông, tơ tằm, chè tươi, sữa tươi, sắn tươi, hạt điều tươi… là những nguyên liệu phục vụ

cho công nghiệp chế biến. Đối với các nước đi lên từ nông nghiệp như Việt Nam thì quan
hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp có vai trò rất quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế
quốc dân. Ở nước ta nông nghiệp thực sự trở thành ngành cung cấp nguyên liệu để thực
hiện hàng loạt các hoạt động công nghiệp (đường, sữa, bánh kẹo, thực phẩm khác v.v…)
hoặc tạo ra nguyên liệu để phát triển sản xuất tư liệu tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ (đồ


gỗ, mây tre đan v.v…). Thực tế ở nước ta, các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu từ
nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc dân. Các ngành công nghiệp
chế biến nông sản không những góp phần tăng giá trị hàng hóa, tạo việc làm tăng thu nhập
cho dân cư và ngân sách Nhà nước ở khâu công nghiệp mà còn có tác dụng nâng cao thu
nhập của nông nghiệp góp phần cải biến, nâng cao chất lượng hoạt động nông nghiệp với
tư cách là ngành cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp. Vai trò của nông nghiệp trong
việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến đặt ra những vấn đề rất lớn trong quản
lý Nhà nước đối với nông nghiệp và giải quyết mối quan hệ nông nghiệp - công nghiệp.
- Nguồn cung cấp vốn ban đầu giúp các ngành kinh tế tăng trưởng. Đối với các
nước nông nghiệp đang phát triển trong đó có Việt Nam, tỷ lệ đóng góp của ngành nông
nghiệp vào GDP là rất lớn và vốn thường được tạo ra từ ba nguồn chính là viện trợ nước
ngoài, đầu tư thương mại và tiết kiệm từ trong nước. Trong giai đoạn đầu vốn được tạo ra
nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo lập khu công nghiệp và thu hút lao động từ nông nghiệp,
tăng cường các dịch vụ phát triển, phát triển nguồn nhân lực và cải tạo nông nghiệp. Trong
giai đoạn đầu, nguồn tiết kiệm từ trong nước chủ yếu là dựa vào nông nghiệp vì đó là khu
vực lớn nhất xét cả về lao động và tổng sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có
thể tạo ra từ nhiều cách như: tiết kiệm tự nguyện và không tự nguyện, đầu tư vào các hoạt
động kinh doanh phi nông nghiệp của những người từ khi vực nông nghiệp, thuế nông
nghiệp v.v…, trong đó thuế nông nghiệp có vị trí quan trọng nhất. Nông nghiệp là nguồn
cung cấp vốn ban đầu hỗ trợ các ngành kinh tế tăng trưởng. Thuế mà sản xuất nông nghiệp
phải gánh chịu là cao hơn nhiều so với dịch vụ mà Nhà nước cung cấp cho nông nghiệp. Ở
Nhật Bản chẳng hạn, trong hai thập kỷ cuối thế kỷ XIX, thuế ruộng đất chiếm 80% tổng
thu nhập thuế của Chính phủ, và thuế thu nhập trực tiếp trong khu vực nông nghiệp chiếm

khoảng 12 - 22%, trong khi tỷ lệ này khu vực phi nông nghiệp chỉ có khoảng từ 2 - 3%.
Ở Việt Nam, vai trò tích lũy vốn làm cơ sở cho nông nghiệp hóa đã được xác định
từ đầu những năm 1960 và đã trở thành nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Trên thực tế,
trong những năm trước đổi mới, các chính sách thuế nông nghiệp, thuế sử dụng đất nông
nghiệp đã tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Hiện tại ở một số tỉnh, thành
phố có công nghiệp, dịch vụ phát triển, nguồn thu từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng giảm dần,
nhưng còn nhiều địa phương đóng góp của ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn và
có ý nghĩa quan trọng.


- Cung cấp nguồn nhân lực cho sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân. Quá
trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ góp phần nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Vì thế, có thể rút bớt lao động ra khỏi ngành nông
nghiệp mà vẫn đảm bảo vai trò cung cấp nông sản đáp ứng nhu cầu xã hội và trong nội bộ
ngành nông nghiệp. Ở đây cần được chú ý là việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
sản xuất từ chính sự nỗ lực của nội bộ ngành nông nghiệp (nâng cao trình độ người lao
động, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức hiệp tác phân công lại lao động trong nội bộ ngành
nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp…) và nhờ sự tác động của các ngành
như công nghiệp, thương mại… Đồng thời, cũng cần thấy rõ tác động của tiến bộ khoa học
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình tổ chức lại sản xuất, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo tín hiệu dẫn dắt của thị trường mà không gắn liền với phát triển các
ngành nghề để thu hút lao động ở khu vực nông nghiệp sẽ tạo nên áp lực lao động dôi
thừa, thiếu việc làm và giảm thu nhập đối với một bộ phận lớn lao động nông nghiệp.
Thứ ba, nông nghiệp và nông thôn là thị trường có nhiều tiềm năng để tiêu thụ hàng
công nghiệp, dịch vụ. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp và dịch
vụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp. Sự thay
đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi
nông nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận phụ thuộc lớn vào mức bán ra. Nếu
sức mua từ khu vực nông nghiệp tăng sẽ đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng các ngành công
nghiệp, dịch vụ. Lý thuyết hàm tiêu dùng của Keynes cũng đã chứng minh rằng: khi thu

nhập tăng thì tiêu dùng và tiết kiệm cũng tăng lên và do đó tác động tích cực đến quá trình
tăng trưởng kinh tế.
Ở Việt Nam, nông nghiệp luôn luôn là thị trường rộng lớn đầy tiềm năng của các
ngành kinh tế khác. Các thị trường về vật tư phục vụ sản xuất, hóa chất, xăng dầu, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, tư liệu sản xuất máy nông nghiệp… thị trường
phương tiện đi lại như xe đạp, xe máy, ô tô, đồ gia dụng, phục vụ sinh hoạt như ti vi, tủ lạnh,
quạt điện, vải may mặc, giày dép… đang rất cần và dự báo ngày càng tăng, góp phần thúc đẩy
các ngành sản xuất phi nông nghiệp phát triển.
Nước ta là nước nông nghiệp, đến nay sau hơn 20 năm đổi mới mặc dù Nhà nước
đã có những giải pháp tích cực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng nông nghiệp, nông thôn vẫn là khu vực chiếm vị trí rất
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp và nông thôn liên quan đến giải quyết


việc làm thu nhập cho hơn 70% lao động xã hội (riêng lao động nông nghiệp 56%) liên
quan đến đời sống của khoảng 74% dân số cả nước, là thị trường có nhiều tiềm năng thể
hiện:
- Về thị trường hàng tiêu dùng. Tuy hiện nay mức tiêu dùng bình quân của một
người nông dân nông thôn thấp hơn cư dân đô thị, nhưng do cư dân nông thôn chiếm tỷ
trọng lớn nên lượng hàng tiêu dùng được tiêu thụ ở nông thôn chiếm tỷ lệ đáng kể.
- Thị trường tư liệu sản xuất và dịch vụ. Hiện nay hàng năm nông nghiệp và nông
thôn nước ta cần hàng trăm ngàn động cơ, hàng triệu tấn tư liệu sản xuất của công nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nông thôn càng được chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa, thu nhập và đời
sống của dân cư nông thôn tăng lên đã thúc đẩy nhu cầu sử dụng hàng loạt các dịch vụ ở
nông thôn như tài chính, tín dụng, tư vấn pháp luật, thông tin liên lạc v.v… Cần phải thấy
rằng, trong những năm đổi mới, để thúc đẩy tăng trưởng, nhiều ngành công nghiệp nước ta
đã có những hoạt động tích cực để mở rộng thị trường ngoài nước nhưng có lúc lại bỏ
quên thị trường trong nước có rất nhiều tiềm năng. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp, thị
trường trong nước có ưu thế hơn hẳn so với thị trường ngoài nước về nhiều mặt: nhiều
chủng loại, nhu cầu thấp phù hợp với trình độ công nghệ trong nước, phù hợp tập quán tâm

lý người tiêu dùng, luật pháp chính sách tương đối đồng nhất. Trong những năm đầu đổi
mới, hầu hết doanh nghiệp dệt may Việt Nam như Thành Công, Công ty may 10, Việt Tiến
v.v… chỉ chú trọng tìm kiếm thị trường để xuất khẩu đã gặp phải không ít khó khăn thậm
chí phải trả giá, trong lúc đó thị trường trong nước hơn 80 triệu dân nhu cầu hàng dệt may
lớn thậm chí phẩm cấp thấp không được các doanh nghiệp này chú ý. Hậu quả là có thời
kỳ hàng dệt may Trung Quốc, Thái Lan chiếm trên 40% thị phần hàng dệt may của nước
ta. Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu và báo cáo kinh doanh của các doanh nghiệp
đều nêu khó khăn cơ bản thiếu thị trường nhưng thực tế thị trường trong nước nhất là nông
nghiệp, nông thôn không được chú ý tiếp cận một cách đúng mức. Cũng như hàng dệt
may, trong những năm 80 thị trường nông thôn cần hàng trăm ngàn động cơ nhỏ 6 - 8 CV
nhưng công nghiệp cơ khí trong nước những năm 1995 - 1996 chỉ sản xuất được mỗi năm
trên 6.000 cái, kèm theo đó những phương thức tiếp cận thị trường không phù hợp nên
nông dân buộc phải mua máy móc của Trung Quốc, Thái Lan, Nhật v.v… Như vậy, có thể
không phải hiện nay nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp Việt Nam không có thị
trường trong nước mà chính là chưa đánh giá đúng vai trò, đặc điểm thị trường nông


nghiệp, nông thôn; do đó chưa có cách thức sản xuất và tiếp cận thị trường nhiều tiềm
năng này một cách phù hợp.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: nông nghiệp nông thôn nước ta trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa là thị trường rất tiềm năng để tiêu thụ hàng hóa công
nghiệp và dịch vụ.
Thứ tư, nông nghiệp là nguồn cung cấp ngoại tệ nhờ xuất khẩu nông sản và tiết
kiệm ngoại tệ thông qua sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. Ở nhiều nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam, thời kỳ đầu thu nhập về xuất khẩu chủ yếu là dựa vào sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thường bị bất lợi do giá cả sản phẩm
nông nghiệp trên thị trường thế giới có xu hướng giảm sút tương đối so với hàng công
nghiệp, dịch vụ, nhất là những nước chỉ dựa vào một vài loại mặt hàng xuất khẩu (như
Thái Lan xuất khẩu gạo trong những năm 1960, Việt Nam xuất khẩu gạo đầu những năm
1990). Vì vậy gần đây nhiều nước đã thực hiện đa dạng hóa sản xuất và xuất khẩu, tạo điều

kiện cho nông nghiệp tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong thu nhập về xuất khẩu (như
trường hợp của Thái Lan cuối những năm 70, Việt Nam cuối những năm 90 của thế kỷ
XX).
Các nước đang phát triển, thời kỳ đầu xuất khẩu nông sản chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu và có vai trò rất lớn trong phát triển nền kinh tế quốc dân. Ở
nước ta trong những năm 1986 - 1995, tỷ lệ xuất khẩu nông sản chiếm 50% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Đến nay sau 20 năm đổi mới, mặc dù công nghiệp dịch vụ có tăng trưởng
đáng kể, trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm 28 - 30% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới vừa qua cho thấy, việc mở rộng xuất
khẩu nông sản ở nước ta có ý nghĩa rất toàn diện: tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu tư
liệu sản xuất, hàng hóa tiêu dùng, góp phần cải biến nông nghiệp và đời sống, tạo việc làm
tăng thu nhập cho nông dân sản xuất nông sản xuất khẩu; trên cơ sở nhu cầu của thị trường
và yêu cầu cạnh tranh, buộc phải thực hiện cải biến nền nông nghiệp, công nghiệp chế biến
và hệ thống dịch vụ liên quan đến xuất khẩu nông sản. Chúng ta đều biết rằng đầu năm
1989, trong xây dựng kế hoạch, Việt Nam vẫn đưa ra mục tiêu nhập khẩu hàng chục vạn
tấn lương thực. Nhưng cuối năm 1989 Việt Nam không những không phải nhập khẩu
lương thực mà còn xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo ra thị trường thế giới. Nhưng lượng gạo
xuất khẩu 1989 thực chất là xuất khẩu gạo dư thừa so với nhu cầu trong nước, có nghĩa là
ngay từ đầu năm các cơ quan Nhà nước và nông dân không tính đến các thị trường nhập


khẩu gạo của thế giới về số lượng, chất lượng, giá cả v.v… Trong những năm tiếp theo
xuất khẩu gạo đã trở thành mục tiêu được hoạch định trong kế hoạch của Nhà nước, vì thế
buộc chúng ta phải tìm thị trường xuất khẩu gạo và cách thức vận hành thị trường, tìm hiểu
đối thủ cạnh tranh, tìm hiểu nhu cầu thị trường, chất lượng, giá cả, chủng loại gạo v.v…
Trên cơ sở sự đổi mới chính sách và sự hỗ trợ của Nhà nước, sản xuất lúa gạo của Việt
Nam đã có những cải biến sâu sắc, đổi mới cơ cấu giống lúa, thay đổi cơ bản công nghệ
xay sát gạo, phương thức tiếp cận thị trường tiêu thị lúa gạo. Đến nay có thể nói ngành sản
xuất lúa gạo Việt Nam được cải biến một cách sâu sắc với mục tiêu không những bảo đảm
an ninh lương thực quốc gia mà còn xuất khẩu với số lượng lớn.

Thực tế chứng minh rằng nếu như những năm đầu tham gia thị trường gạo thế giới
khả năng cạnh tranh gạo Thái Lan chênh lệch lớn, nhưng đến nay khoảng cách đó đã được
thu hẹp dần. Đó là những thành tựu của cả sản xuất lúa, công nghiệp chế biến gạo, tổ chức
lưu thông gạo trên thị trường quốc tế của nước ta.
Đặc điểm của quan hệ cung cầu nông sản và cách thức vận hành của hàng nông sản
trên thế giới có những điểm khác biệt so với các hàng hóa khác buộc Nhà nước phải có
những cách thức quản lý phù hợp. Sau đây là những biểu hiện chủ yếu:
Cầu nông sản ít có những thay đổi đột biến, nhưng cung nông sản thì phụ thuộc rất
lớn vào thời tiết, khí hậu. Ví dụ năm nào sản xuất cà phê Brazil được mùa thì năm đó giá
cả cà phê thế giới giảm xuống và ngược lại; trong quy định chung của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) có hiệp định riêng về nông nghiệp (AoA). Hiệp định này quy định những
nguyên tắc, điều kiện cho các quốc gia thành viên trong việc mua bán nông sản. Nhưng
trong lúc đó thì các nước giàu trên thế giới lại áp dụng chính sách bảo hộ nông sản trong
nước, làm giảm khả năng tiếp cận của hàng nông sản của các nước nghèo đến các nước
giàu. Hiện nay, hàng năm các nước G8 đang sử dụng trên 350 tỷ USD trợ cấp nông nghiệp
gây tổn hại cho các nhà sản xuất thuộc các nước đang phát triển. Riêng ngành nông nghiệp
của Hoa Kỳ trong vòng 10 năm tới Chính phủ danh 190 tỷ USD cho trợ giá nông sản.
Thứ năm, nông nghiệp có vai trò góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Trong thực
tế, ngành nông nghiệp đã tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội, tuy nhiên trong nông nghiệp
tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao đang là vấn đề nhạy cảm và bức xúc của xã hội. Nếu đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn sẽ tạo điều
kiện chuyển dịch lao động ra khỏi nông nghiệp, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông
thôn.


Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thời kỳ đầu lao động tập trung ở nông
thôn và làm nông nghiệp là chủ yếu. Việc phát triển công nghiệp và dịch vụ đòi hỏi phải
tăng lực lượng lao động cho các ngành này nguồn cung cấp lao động chủ yếu là từ nông
nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên, Việt Nam việc di chuyển lao động từ nông nghiệp, nông
thôn ra đô thị, chuyển sang công nghiệp, dịch vụ cần phải chú ý những vấn đề sau:

+ Hiện nay ở đô thị và rất nhiều doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm hoặc sử dụng thời gian lao động thấp là thường xuyên xảy ra.
+ Ngay trong nông thôn, tỉ lệ sử dụng thời gian lao động cũng thấp. Vì thế, bên
cạnh việc chuyển dịch từ nông thôn ra đô thị phải chuyển dịch lao động từ nông nghiệp
sang công nghiệp, dịch vụ ngay tại địa bàn nông thôn, phân công lao động tại chỗ bằng
phát triển các ngành phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn. Hoạt động công nghiệp, dịch
vụ nhất là công nghiệp, dịch vụ đô thị đòi hỏi chất lượng lao động rất cao cho nên không
phải toàn bộ số lao động nông thôn có thể di chuyển dễ dàng sang công nghiệp và dịch vụ
- kể cả đô thị nằm trên địa bàn nông thôn. Ở Việt Nam, trong những năm đổi mới, ở nhiều
địa phương đã thu hồi hàng trăm ngàn ha đất nông nghiệp của nông dân để phục vụ phát
triển đô thị mới, xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong những năm gần đây chính sách đền bù của
Nhà nước cho nông dân khi đã thu hồi đất đã được thay đổi, có hộ nông dân ở ngoại thành
Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh nhận tiền đền bù hàng tỷ đồng nhưng sau đó do thiếu bản
lĩnh hoặc thiếu khả năng chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp nên không ít hộ nông dân
trở nên thất nghiệp và nghèo đói.
Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp trên cơ sở khai thác các tiềm năng đất đai giúp tạo
thêm việc làm, tăng thu nhập và giảm tỷ lệ nghèo đói, góp phần giảm bớt các tệ nạn xã hội.
Thứ sáu, nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, môi trường sinh thái. Do những đặc điểm riêng của ngành sản xuất nông nghiệp,
hoạt động nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tác động
thường xuyên đến môi trường sinh thái.
Trong những năm gần đây việc phát triển bền vững đã trở thành sự quan tâm chung
của cộng đồng quốc tế. Ở nước ta, Chính phủ đã ban hành Nghị định 153/NĐ - CP về phát
triển bền vững, trong đó nhấn mạnh phát triển bền vững ở cả ba nội dung: bền vững về
kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường sinh thái.



1.2. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
NÔNG NGHIỆP

1.2.1. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế về nông nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm, bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế
giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và quốc tế hoá đang
diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ. Hội nhập kinh tế quốc tế có liên quan trực tiếp và là quá trình đồng hành với
quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Không thể có toàn cầu hóa kinh tế nếu không có sự tham
gia ngày càng đông của các quốc gia, dân tộc. Nếu toàn cầu hóa kinh tế là tất yếu thì hội
nhập kinh tế cũng là một đòi hỏi khách quan. Có thể coi hội nhập kinh tế quốc tế và toàn
cầu hóa kinh tế là hai mặt của một quá trình.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế. Hiểu theo
nghĩa đơn giản nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình tham gia quá trình toàn cầu hóa
kinh tế. Có loại ý kiến có rằng: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể
chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song
phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các
lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Loại ý kiến khác lại cho rằng, hội nhập kinh
tế quốc tế là quá trình loại bỏ dẫn các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và
di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối
phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự
gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu,
trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định
chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các
quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài
chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh
tế đối ngoại khác, bao gồm các lĩnh vực sau:
- Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất bằng 0 đối với hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu.



- Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ những hàng rào phi quan thuế gây cản trở đối với
thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông cần được chuẩn mực hoá theo các quy
định chung của WTO hoặc các thông lệ quốc tế hoặc khu vực khác.
- Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại dịch vụ, tức là tự do hoá việc cung cấp
và kinh doanh các hình thức dịch vụ. Theo phân loại của WTO, hiện nay có khoảng 12
nhóm dịch vụ được đưa vào đàm phán, từ dịch vụ tư vấn giáo dục, tin học cho đến các dịch
vụ ngân hàng, tài chính, viễn thông, giao thông vận tải
- Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường cho tự do hoá hơn nữa thương
mại.
- Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc và luật chơi chung
quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại như thủ tục hải quan,
quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh Tại các diễn đàn quốc tế và khu vực hiện
nay, việc điều chỉnh và hài hoà các thủ tục hành chính liên quan đến giao dịch thương mại
được gọi là hoạt động thuận lợi hoá thương mại.
- Triển khai những hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá xã hội nhằm nâng cao năng
lực của các nước trong quá trình hội nhập.
Như vậy có thể thấy khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay
không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất
cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị
trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi
thương mại.
Nhu cầu tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn thế giới trước hết bắt nguồn từ
các nước công nghiệp phát triển, do họ ở thế mạnh nên thường áp đặt các luật chơi. Các
nước đang phát triển vừa có yêu cầu tự bảo vệ, vừa có yêu cầu phát triển nên cũng tham
gia để bảo vệ và tranh thủ lợi ích cho mình, nhất là các nước đang tiến hành công nghiệp
hoá. Lợi ích ở đây và mở được thị trường cho hàng xuất khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ
thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó tạo ra công ăn việc làm, đảm bảo tăng trưởng kinh tế,
học tập được kinh nghiệm quản lý Vì vậy ngày nay; hầu hết các nước trên thế giới đều
thực hiện chính sách hội nhập (ngay cả Trung Quốc, một nước có thị trường 1,3 tỷ dân, lớn
hơn bất cứ một khu vực mậu dịch tự do nào, lại có khả năng tự sản xuất được gần như hầu

hết mọi thứ, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng vẫn kiên trì chủ trương hội nhập vào nền


kinh tế thế giới) . Nhiều nước trình độ phát triển kinh tế kém như Campuchia, Nepan
cũng đã trở thành thành viên của WTO (sau hội nghị Can-cun ở Mexico).
Về bản chất hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình liên kết các nền kinh tế với
nhau mà các đặc điểm cơ bản của quá trình này thể hiện: Thứ nhất, tính thống nhất biện
chứng giữa yếu tố chủ quan (sự chủ động tham gia của các chính phủ, các quốc gia) và yếu
tố khách quan (xu thế toàn cầu hóa kinh tế); thứ hai, sự chủ động điều chỉnh đường lối,
chính sách kinh tế đối ngoại của các chính phủ theo hướng mở cửa, thúc đẩy quá trình tự
do hóa thương mại, dịch vụ và đầu tư, thực hiện sự luân chuyển vốn, kỹ thuật, công nghệ,
lao động giữa các nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế của
từng nền kinh tế trong môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng, thống nhất; thứ ba, sự
hợp tác và cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế trên mọi lĩnh vực dưới tác động của các quy
luật xã hội và phản ánh lợi ích của các giai cấp, dân tộc, đồng thời mang đậm những dấu
ấn văn hóa - xã hội đa dạng; thứ tư, tính không đồng nhất, gián đoạn và diễn ra trong từng
hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Hội nhập kinh tế quốc tế đó là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Nó là quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa
đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích
của mình, vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh
tế và các công ty xuyên quốc gia;
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xoá bỏ từng bước và từng phần các rào cản về
thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế;
Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp
trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để
nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường;
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở
các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi
mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ

mô.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự
phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng
cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.


Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và
ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm
quản lý.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp của một quốc gia, hội nhập thường được thể hiện ở
hai hoạt động cơ bản:
- Một là, ký kết hoặc tham gia các định chế kinh tế - thương mại song phương, đa
phương, khu vực và thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp; thực hiện các hoạt động kinh tế,
thương mại, đầu tư về nông nghiệp với các đối tác nước ngoài ở các cấp độ khác nhau.
- Hai là, thực hiện những cải cách, đổi mới về nông nghiệp trong nước như hoàn
thiện hệ thống luật pháp, đổi mới cơ chế chính sách, điều chỉnh cơ cấu ngành, nhằm phát
huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, tận dụng được cơ hội và vượt qua thách thức để có
thể hội nhập thành công.
1.2.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế về nông nghiệp là xu hướng khách quan
Trước đây, tính chất xã hội hoá của quá trình sản xuất chủ yếu mới lan toả bên
trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá trình sản xuất, kinh doanh riêng
rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại
hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
đã có sự thay đổi đáng kể, dẫn hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó việc đáp ứng yêu cầu
về quy mô vốn lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Tình hình này càng
đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Bởi lẽ, các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản
lý,v.v Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính
chất xã hội hoá của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan toả sang
các quốc gia khu vực và thế giới nói chung và mặt khác, tự do hoá thương mại cũng đang

trở thành xu hướng tất yếu và được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn bán giao lưu
giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia.
Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều
điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương
mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hoá tiêu dùng giữa các quốc
gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn.
Về lý luận và thực tiễn, những nghiên cứu về toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế
thường xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu sau đây:

×