Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Thiết bị lọc nước mặn thành nước ngọt docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.03 KB, 35 trang )










Thiết bị lọc nước mặn thành
nước ngọt







Thiết bị lọc nước mặn thành nước ngọt
Trung tâm Phát triển Công nghệ cao thuộc Viện Khoa học Vật liệu (Trung tâm
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia) vừa nghiên cứu thành công và chế tạo
hàng loạt thiết bị lọc nước mặn thành nước ngọt. Đây là phương tiện đồng hành của
tàu đánh bắt xa bờ.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), nước ngọt thường dùng (như ở Hà Nội) được
phép có n
ồng độ muối 250 mg/l. Nước biển của ta có nồng độ muối rất cao, nơi cao
nhất là 35.000 - 40.000 mg/l, đòi hỏi phải có quá trình xử lý phức tạp. Tại những khu
vực có khí hậu rất nóng như Trung Đông, người ta thường áp dụng phương pháp cho
nước bốc hơi để loại muối ra khỏi nước biển. Còn hầu hết các nước sử dụng phương
pháp điện thẩm phân (ED), điệ
n thẩm phân đảo cực (EDR), hoặc phương pháp thẩm


thấu ngược (RO), hoặc lọc Nano (NF). Các nhà khoa học trên thế giới đều có chung
nhận xét là nếu nước mặn có nồng độ muối dưới 5000 mg/l thì nên sử dụng phương
pháp ED, vừa có hiệu quả cao, vừa kinh tế nhất, thiết bị rất gọn nhẹ, dễ vận hành và
dễ sử dụng. Nếu nước có nồng độ muối trên 5000 mg/l thì sử dụng k
ết hợp phương
pháp ED với RO sẽ đạt hiệu quả lớn nhất.
Trung tâm Phát triển Công nghệ cao (TTPTCNC) đã chọn phương pháp xử lý ED
xong rồi mới dùng phương pháp RO, vì sử dụng phương pháp RO đã giảm được 50%
nồng độ muối, kéo áp lực thẩm thấu xuống, nước lại tiếp tục được lọc mặn dễ dàng
hơn. Sử dụng thiết bị gọn nhẹ, chạy b
ằng điện hoặc bằng ắc qui do TTPTCNC chế tạo,
có thể lọc được nước biển có nồng độ muối là 900-1500 mg/l (ở biển Cát Bà, nồng độ
muối trong nước biển là từ 900-1500 mg/l); mỗi giờ thiết bị này lọc được hàng chục lít
nước ngọt từ nước biển.
Thiết bị đã được thử nghiệm tại xã Tường Văn, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa, cách bi
ển 5 km. Tại đây, nồng độ muối đo được ở các giếng nhà dân thấp nhất là
389,6 mg/l, cao nhất là 1788 mg/l. Dùng thiết bị lọc của TTPTCNC, toàn bộ nước
giếng ăn đều có nồng độ muối bằng hoặc thấp hơn 250 mg/l, đúng với TCVN cho
phép đối với nước ngọt. Phần quan trọng nhất của thiết bị là blốc chứa màng trao đổi
ion khi có dòng điện chạy qua, tùy thuộc lư
u lượng nước mặn (muối lọc nhiều hay ít)
mà các cặp màng sẽ nhiều hay ít, thấp nhât là 20 cặp màng, nhiều nhất có thể trên 500
cặp màng. Màng có điện trở thấp, không tan trong dung dịch nước, tương đối cứng,
chịu được sự thay đổi của độ pH, có thể vận hành tốt ở nhiệt độ 46
0
C, giãn nở khi
thấm nước, tuổi thọ của màng tới 5 năm. Chạy khoảng 1 năm thì tháo màng lọc ra, tự
bảo trì dễ dàng.
Nhu cầu về nước ngọt từ lâu nay rất gay gắt với đồng bào ở vùng biển nhất là

vùng hải đảo, vùng sâu, vùng xa, thiết bị lọc nước rất cần thiết đối với nhiều ngành,
nhiều khu dân cư vùng ven biển, hải đảo. Các tàu đánh bắt xa bờ cũ
ng đều rất cần để
có nước ngọt dùng ở ngoài khơi xa. Nhà máy kính cần có thiết bị này để có nước sạch,
không có ion để tráng kính. Các nhà máy sản xuất đèn hình, đèn ống, bóng bán dẫn
cũng cần có thiết bị lọc nước thật sạch,v.v Tuy nhiên, nước lọc bằng các loại thiết bị
này mới chỉ cho nước trong, nước ngọt chứ chưa phải là nước hoàn toàn vô trùng, tinh
khiết.
Loại thiết bị lọc nước mặn thành nước ngọt của TTPTCNC rất tiện dùng cho hộ
gia đình ở vùng biển và trên tàu đánh bắt xa bờ. Tuy nhiên, giá của nó còn khá cao.
Nên có một chính sách trợ giá để bà con dễ dàng mua được thiết bị lọc nước.
Nguồn: TBKTVN, 24/11/2000

Phương pháp xử lý nước sinh hoạt đơn giản và rẻ tiền
Trung tâm Phát triển Khoa học, Công nghệ và Dịch vụ (CENTEC) ở Tp. Hồ Chí
Minh đã đưa ra một công nghệ xử lý nước đơn giản và rẻ tiền. Đây là phương pháp
dùng hoạt chất xử lý nước phèn, thay cho việc chế tạo hệ thống thiết bị lọc (lọc thô và
lọc tinh). CENTEC đã sản xuất được 2 loại hoạt chấ
t, gọi là hoạt chất A1 và hoạt chất
A2. Cứ 1 m
3
(1.000 lít) nước cần lọc, phải dùng 70 gr A1 và 80 gr A2. Nếu lượng
nước cần xử lý ít hơn 1 m
3
, có thể chia nhỏ theo tỷ lệ tương ứng Tùy thuộc vào nguồn
nước khác nhau, liều lượng cần để xử lý có thể thay đổi cho thích hợp với nguồn nước
tại địa phương.
1. Hoạt chất A1 (có màu hồng) là loại hợp chất cho vào nước nhiễm phèn và
khuấy đều để chuyển sắt, nhôm hòa tan thành hydroxyt kết tủa.
2. Hoạt chất A2 (có màu trắng) vừa có tính keo tụ, vừa có tính ổn định độ

pH, giúp cho
các hạt hydroxyt kết tủa lại thành mảng và lắng nhanh xuống đáy thùng chứa và điều
hòa độ pH để nước trở thành trung tính.
Theo tính toán, với phương tiện chứa nước sẵn có, để có 1 m
3
nước sạch ta chỉ
chi phí tối đa 4.000 đồng để mua 2 loại hoạt chất nêu trên. Để thuận tiện cho người sử
dụng, hai hoạt chất xử lý nước phèn là A1 và A2 được đóng thành các bao nhỏ phù
hợp với các loại thùng chứa nước thông dụng như lu thường, bồn chứa nước 1.000 lít,
3.000 lít, 5.000 lít.
Đối với các hộ gia đình có nhu cầu sử dụng nhiều nước hoặc các nơi tập trung
dân cư, ta có thể
xây dựng trạm lọc nước phèn với các thiết bị khá đơn giản.
Nguồn: Lao động, 19/12/2000
Hệ thống xử lý chất thải bệnh viện thân thiện sinh thái
Hội Nghiên cứu và kỹ thuật Điện tử vi ba ứng dụng ấn độ (SAMEER) đã phát
triển một hệ thống khử trùng bằng vi ba (MDS) thân thiện sinh thái và chi phí hiệu quả
để xử lý chất thải bệnh viện. Hệ thống này được triển khai với sự hợp tác của Bộ Công
nghệ Thông tin và Phòng Công nghệ sinh học.
Trong hệ th
ống này, năng lượng vi ba được sử dụng để khử trùng hiệu quả, tạo
thuận lợi phá huỷ dễ dàng chất thải bệnh viện. Các vi khuẩn nuôi cấy Escherichia coli,
Staphylococcus aureus và Pseudomonas aeruginosa bị tiêu diệt hoàn toàn sau 30 phút
xử lý. Một bộ MDS có khả năng xử lý 15kg/h chất thải rắn và 50l/h chất thải lỏng.
Trọng lượng thiết bị khoảng 300 kg, tần số 3.450 MHz có công suất vi ba 1,5kW.
Nguồn: PTI Science Service, 1-15/8/2000, VATIS UPDATE: Waste Technology,
Nov, Dec 2000.
Thiết bị xử lý nước thải sản xuất tại Việt Nam bằng sản phẩm sinh học
Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Môi trường Tân Hoàng Mỹ ở
Tp.Hồ Chí Minh (Tp.HCM) vừa ký 3 hợp đồng mới để xử lý nước thải công nghiệp

cho 3 công ty khác bằng thiết bị do Công ty sản xuất tại Việt Nam theo công nghệ của
Mỹ. Ba hợp đồng đó là hợp đồng xử lý nước th
ải cho Công ty bao bì Đồng Tiến, Công
ty Vising Pack và một hợp đồng xử lý nước thải thủy sản cho Công ty Cofidec
Tp.HCM.
Công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt và công nghiệp của Mỹ rất hiện đại nhưng
nếu nhập khẩu công nghệ này vào Việt Nam thì giá qúa cao, ít có công ty nào của Việt
Nam chịu bỏ tiền ra mua. Từ thực tế này, Công ty Tân Hoàng Mỹ đã nghiên cứu sản
xuất thành công thiết bị xử lý tại Việt Nam với giá rẻ
chỉ bằng khoảng 1/3 giá nhập
khẩu từ Mỹ. Công ty Tân Hoàng Mỹ không đơn thuần là chỉ bán thiết bị mà còn xử lý
chất thải theo 3 giai đoạn: đầu tiên là tư vấn, đánh giá tác động môi trường, phân tích
nước, chất thải sau khi khảo sát cụ thể cơ sở sản xuất. Giai đoạn thứ hai sau đó là Công
ty lập dự án cung cấp thiết bị, sản phẩm sinh học xử lý và phương pháp x
ử lý cụ thể và
giai đoạn cuối cùng là công việc thi công, chuyển giao công nghệ, vận hành và bảo
hành.
Thiết bị và công nghệ của công ty có nhiều ưu điểm như tiết kiệm vốn đầu tư, chi
phí bảo trì thấp, khả năng xử lý của hệ thống không phụ thuộc khí hậu, nhiệt độ, thời
tiết, nước thải sau khi được xử lý sẽ được tái sử dụng
để sản xuất, tưới cây, rửa xe nếu
khách hàng có yêu cầu, không có bùn thải, không mùi, không ồn ào, diện tích mặt
bằng cho lắp đặt thiết bị rất nhỏ so với các công nghệ cổ điển,v.v
Đại diện Hãng Epicore Bio Net Works, Inc. tại Việt Nam cho biết: Epicore Bio
Net Works, Inc. do Dr. Howard Warne, nhà bác học sinh học nổi tiếng thế giới, sáng
lập. Hãng này chuyên cung cấp công nghệ xử lý sinh học cho ngành chăn nuôi, thủy,
hải sản, công nghiệp, xử lý rác và nước thải sinh hoạ
t, nước thải công nghiệp, cải thiện
đất nông nghiệp và tái tạo đất bị ô nhiễm.
Tháng 9/2000, Công ty Tân Hoàng Mỹ đã chính thức nhập khẩu các sản phẩm

sinh học của Epicore Bio Net Works, Inc. vào Việt Nam. Những sản phẩm chính gồm:
Epitherm là sản phẩm sinh học xử lý rác thành phân hữu cơ. Sản phẩm Epitherm ở
dạng bột khô chứa những loại enzyme có hoạt tính cao khác nhau kết hợp với hệ vi
khuẩn đặc biệt. Epitherm ch
ứa một nhóm các vi khuẩn Thermophilic có khả năng hóa
lỏng và phân hủy các chất thải hữu cơ như phân gia cầm, rác công cộng, rau qủa hư
thối, phế phẩm của các nhà máy như nhà máy chế biến thực phẩm, lò giết mổ, nhà máy
chế biến thủy hải sản và phân hủy cellulose. Sản phẩm Epitherm có khả năng phân hủy
các chất hữu cơ có trong rác dưới điều kiện thiếu khí để vô trùng và không mùi trong
mộ
t vài ngày thay vì vài tuần hoặc vài tháng như một số sản phẩm của các hãng khác
đang bán tại Việt Nam. Sản phẩm Epitherm có khả năng phân hủy các chất cellulose,
lignin và protopectin và còn có thể sử dụng để chế biến rơm, trấu, bã mía thành phân
hữu cơ. Tại Mỹ, các cơ quan quản lý đô thị thu gom lá khô và cỏ từ các hộ dân để chế
biến thành phân hữu cơ.
Sản phẩm thứ hai là Epizym-100 dùng để xử lý nước thải sinh hoạt và công
nghiệp. Các loại dầu mỡ được tìm thấy trong nước thải từ nhà bếp, nơi chế biến thức
ăn và chất thải công nghiệp,v.v có thể làm qúa tải các công trình xử lý bởi vì những
quần thể vi sinh thông thường không thể phân hủy được những chất này. Sản phẩm
Epizym-100 chứa các vi khuẩn tự nhiên có khả n
ăng tiêu hóa các loại dầu mỡ. Sản
phẩm Epizym-100 hoạt hóa hệ thống bùn, làm giảm hàm lượng nhũ hóa dầu, mỡ một
cách đáng kể và giúp loại bỏ những bánh bùn hoặc thảm bùn trong qúa trình phân hủy
kị khí.
Một sản phẩm nữa là Epizym-200. Các chất cyanide hữu cơ và vô cơ trong nước
thải là chất rất độc hại đối với tất cả các sinh vật và có thể gây độc đối với những sinh
vật không thích nghi dù chỉ với một liều lượng rất nhỏ chất cyanide. Trong nước thải
của những nhà máy luyện cán thép chứa một lượng lớn các hóa chất độc hại như
phenol, cyanide,v.v Sản phẩm Epizym-200 oxy hóa phenol và cyanide, giảm nồng
độ của chúng xuống gần bằng không và làm giảm những ảnh hưởng của các độc tố

trong hệ thống xử lý nước thải mà không cần thêm các chi phí đầu tư cơ bản.
Các nhà máy s
ản xuất giấy, hóa chất và các nhà máy dệt nhuộm thường thải ra
các chất thải có phẩm màu. Chất tanin và lignin từ bột giấy thường thải ra những chất
có màu đỏ và nâu rất khó xử lý. Qúa trình dệt, nhuộm sử dụng nhiều dạng phẩm
nhuộm hữu cơ khác nhau, còn các nhà máy hóa chất thì thải ra các loại màu dạng
chromophone. Các chất thải màu này gây cản trở lớn đến qúa trình biến đổi tự nhiên
của nước và làm cho hàm lượng BOD cao trong h
ệ thống xử lý nước thải. Sản phẩm
Epizym-200 phân hủy chất tanin, lignin, các thuốc nhuộm hữu cơ và những chất màu
hữu cơ ở mức cao thành mức thấp hoặc không còn màu.

Nguồn: TBKTVN, 1/1/2001
Bảo quản lương thực bằng nước thải
Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Dược lý, Milan, Italy, đã phát minh
một phương pháp bảo quản lương thực bằng cách sử dụng nước thải của các nhà máy
dầu oliu. Các nhà nghiên cứu cho biết nước thải dầu oliu rất giàu chất chống oxy hoá
tự nhiên, gọi là các hợp chất phenol, nếu được chiết và sử dụng được coi là một sản
phẩm tạ
o ra lợi nhuận.
Các phân tử phản ứng nhanh gọi là các gốc tự do oxy hoá các chất béo trong
lương thực và các mỹ phẩm để tạo ra các phân tử có mùi vị khó chịu. Tuy nhiên, các
hợp chất phenol khử được các gốc tự do này bằng cách cặp đôi các điện tử lẻ. Các nhà
nghiên cứu dự báo rằng việc chiết với quy mô lớn các hợp chất phenol từ nước thải
dầu oliu sẽ dễ dàng thực hiệ
n.
Nếu thương mại hoá thì phương pháp này tỏ ra là một nguồn bảo quản tự nhiên rẻ
đối với ngành lương thực cũng như ngành mỹ phẩm.
Nguồn: VATIS UPDATE,
Mar- Apr 2000


Công nghệ vi mạch ADN để quan trắc chất lượng nước
Lyonnaise Des Eaux, Pháp, một tập đoàn hàng đầu thế giới về quản lý nước, đã
chọn Hồng Kông là nơi trắc nghiệm thí điểm ở châu Á để đánh giá sự chính xác, chi
phí hiệu quả và tốc độ của một công nghệ mới. Dự án đã ứng dụng công nghệ vi mạch
ADN để quan trắc chất lượng nước. Công nghệ
vi mạch ADN đang được Lyonnaise
des Eaux và bioMerieux, một công ty chẩn đoán sinh học hàng đầu, cùng phối hợp
thực hiện nghiên cứu và phát triển.
Hệ thống hoạt động bằng cách phối hợp 400.000 mã di truyền với những dầu
hiệu ADN của các vi trùng, để phát hiện các nồng độ loãng hơn so với các kỹ thuật
quan trắc truyền thống. Các nhà phát triển cho biết công nghệ này có thể cắt giảm
được thời gian trắc nghiệ
m từ 4 ngày xuống còn 4 giờ, chi phí bằng 1/10 chi phí của
các phương pháp trắc nghiệm hiện có. Công nghệ vi mạch -di truyền là một hệ thống
liên kết nhiều ngành học thuật, như vi trùng học, in ảnh, hoá học, phân tích ảnh và tin-
sinh học.
Nguồn: Water and Wastewater International, 10/99; VATIS UPDATE, Mar- Apr
2000
Quy trình tái chế giấy hiệu quả cao
Tại trường đại học Florida Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đã báo cáo kết quả phát
triển một kỹ thuật mới tẩy mực in đầy hứa hẹn tăng nhiều lợi nhuận, tái chế được
nhiều loại giấy rẻ tiền hơn. Do áp dụng quy trình này, các mực in, mực màu và thuốc
nhuộm của nhiều loại giấy khác nhau, như giấy in báo, giấy lụa, gi
ấy láng in tạp chí,
có thể tẩy trắng được để tạo ra giấy có chất lượng tương tự như giấy sản xuất bằng bột
giấy.
Khâu đầu tiên của các quy trình tái chế giấy truyền thống là ngâm giấy cũ vào
nước để tạo bột giấy. Các nhà máy tái chế còn tăng tính kiềm của hỗn hợp và bổ sung
thêm một nhóm hoá chất quen thuộc, như các chất hoạt động bề m

ặt có tác dụng hấp
thụ các hạt mực. Bột giấy được chuyển vào máy tuyển nổi, trong đó có một máy trộn
hỗn hợp và hút không khí vào để tạo ra các bong bóng khí. Đôi khi, người ta cũng phải
tăng áp lực không khí, chất hoạt động bề mặt bao quanh các hạt mực bám vào các
bong bóng khí và nổi trên mặt để biến các bong bóng khí thành bọt. Giai đoạn cuối
cùng là hớt các bọt bám mực ra và được bột giấy trắng để
sản xuất giấy.
Trong kỹ thuật mới, các chất hoạt động bề mặt đắt tiền được thay bằng một hỗn
hợp các hoá chất rẻ tiền hơn. Các hoá chất này trộn với các sợi giấy và tự tạo ra các
bong bóng khí, không phải sử dụng khí nén lại tẩy được mực trên giấy và bong bóng
khí bám mực nổi lên bề mặt và chỉ vớt ra khỏi thùng. Tuy các thử nghiệm này chưa
phát triể
n trên quy mô công nghiệp, song thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy
kết quả rất hứa hẹn.
Theo Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) thì một tấn giấy sản xuất bột giấy tái chế
đã cứu chí ít được 14 cây gỗ nguyên liệu.
Nguồn: VATIS UPDATE: Waste Technology, Nov-Dec 2000.

Sản xuất than hoạt tính từ lốp ô tô thải loại
Tập đoàn Công nghệ Titan đã phát triển công nghệ tái chế lốp ô tô và đang phối
hợp chặt chẽ với các cơ sở sản xuất của một nhà máy ở đài Loan để ứng dụng công
nghệ này. Công ty và các cơ sở được cấp giấy phép ở đài Loan đang đạt được nhiều
tiến bộ quan trọng trong sả
n xuất than hoạt tính do nhà máy tái chế lốp ô tô cung cấp.
Trong quá trình sản xuất than hoạt tính, nhà máy Titan đã bán muội than hoạt tính
với gián gần 1000 USD/tấn và mỗi nhà máy có thể sản xuất gần 20 tấn/ngày muội than
hoạt tính. Công việc này còn bổ sung cho sản lượng nhà máy thêm gần 12 tấn thép và
250 thùng dầu.
Do còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, Công ty Titan tiếp tục thử nghiệm các
vật liệu lốp ô tô trong nước, nhập của các hãng cung ứng của New Mexico.

Nguồn: VATIS UPDATE: Waste Technology, Nov- Dec 2000.
Sản xuất phân bón vi sinh từ than bùn và rong biển
Đây là một loại phân bón lá mới, loại phân bón lá này là kết quả của quá trình lên
men vi sinh từ các nguyên liệu than bùn và rong biển để chiết xuất ra dịch dinh dưỡng,
bổ sung chất khoáng đa vi lượng NPK (đồng, sắt, kẽm, măng-gan ) rất cần thiết cho
các loại nông sản, trái cây trong thời kỳ chuẩn bị thu hoạch. Kết quả thử nghiệm phân
bón cho cây lúa trong nhà lưới và ở Viện Lúa ĐBCL cho thấy năng su
ất lúa tăng, giảm
hạt lép từ 20% xuống còn khoảng 10%. Thử nghiệm trên các loại cây ăn quả như
nhãn, thanh long, hồng xiêm trên diện rộng ở các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà
Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp,v.v , kết quả đều tốt. Một doanh nghiệp tư nhân sản xuất
mặt hàng này với tên gọi “Công ty Phát triển kỹ thuật Vĩnh Long Vilted”. Những sản
phẩm đầu tiên được mang đi chào hàng khắp nơi. Lúc đó bà con nông dân v
ẫn thường
xuyên dùng phân hóa học trong suốt thời kỳ sinh trưởng của cây trái và rất bỡ ngỡ
trước loại phân bón qua lá này. Mặt hàng mới đã được giới thiệu cho bà con nông dân
ở các vùng xa xôi của miền Tây.
Nguyên liệu chủ yếu của loại phân này là than bùn từ Kiên Giang, rong biển từ
Nha Trang, còn nguồn NPK được mua qua trung gian. Một thời gian ngắn sau đó, khi
sản phẩm phân bón qua lá mới đựơc mang tên Bioted này được thử nghiệm, được
người tiêu dùng chấp nhận và có mộ
t thị phần ban đầu, lúc này nguồn NPK được mua
trực tiếp từ Tập đoàn Haifa của Israel. Hàng năm, Công ty của Anh đã nhập tới 40
container nguyên liệu (mỗi container nặng 21 tấn) từ Israel.
Thông qua các hội chợ, bản thân người nông dân cũng nhận thức được việc lạm
dụng phân hóa học cho cây trồng. Bởi vì, đó là một nguyên nhân làm cho đất bạc màu
thêm sau mỗi mùa vụ.
Mạng lưới tiêu thụ của Công ty gồm 60 đại lý rải khắp miền Tây và miền Đông.
Công ty cũng đã đầu tư xây dựng thêm một nhà máy nữa ở Khu công nghiệp Tân Tạo
(TP. Hồ Chí Minh) để mở rộng sản xuất rộng rãi hơn nữa ở miền Đông, Tây Nguyên,

và nước ngoài như Lào, Cam-pu-chia và Myanmar.
Nguồn: Tuổi trẻ, N.D, 5/1/2001
Xử lý nước thải bằng lau sậy
Tại cuộc hội thảo do Công ty Devitec và Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường
thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội, các nhà khoa học Đức đã giới thiệu với các doanh
nghiệp Việt Nam phương pháp xử lý nước thải bằng rễ cây lau sậy.
Phương pháp xử lý nước thải bằng rễ cây dựa trên tác dụng đồng thời của rễ và các
vi sinh vật tụ tập tạ
i chỗ đất đó. Trong hệ sinh thái của đất được trồng cây và bị ngập
nước, các vi sinh vật lấy đi các chất có thể phân hủy vi sinh trong nước thải, còn kim
loại nặng đọng lại trong đất, một phần trong rễ cây. Đất phải thỏa mãn các tiêu chuẩn
nhất định để đảm bảo sự thẩm thấu lâu dài, để cây có thể phát triển và kim loại nặng có
thể lắng đọng được.
Các cây lau sậy sống trong đất bùn, có cơ cấu vận chuyển ôxy không khí ở bên
trong thân cây cho đến tận rễ. Ôxy được rễ thải ra khu vực quanh đó và được vi sinh vật
sử dụng cho quá trình phân hủy hóa học. Việc tích lũy ôxy chung quanh rễ tạo nên một
khu vực hiếu khí trong đất yếm khí. Vi sinh vật của đất phân hủy các chất bẩn của nước
thải trong các vùng hiếu khí và yếm khí. Sự phong phú về chủng loại vi khuẩn trong
“thiế
t bị rễ cây” lớn gấp 10-100 lần trong các thiết bị xử lý kỹ thuật. Lau sậy còn làm
tăng độ thẩm thấu của đất. Nhờ đó nước thải thấm qua đất và được lọc sạch. Tại Châu
Âu, rất nhiều “ thiết bị rễ cây” đã được xây dựng để xử lý nước thải sinh hoạt, công
nghiệp, bãi rác và nông nghiệp. Ngay cả nước thải có chứa lưu huỳnh và asen cũ
ng được
lọc sạch. Chiều rộng của “thiết bị rễ cây” được xác định theo sức nén thủy lực, chiều dài
dòng chảy tính toán từ sự ô nhiễm do chất độc và mục tiêu xử lý nước thải cần thiết.
Nguồn: Lao động, 27/12/2000

Quy trình mới tái chế chất thải đô thị
Công ty Nghiên cứu và Phát triển công nghệ Bảo vệ môi trường Bolang Bắc

Kinh, Trung Quốc, đã phát triển một quy trình tái chế rác đô thị. Trong hệ thống xử lý
rác đô thị BPY đã được cấp chứng nhận, rác không còn lẫn kim loại, gạch, thuỷ tinh,
nhựa, giấy,pin, acquy, quần áo cũ và nhiều thứ khác, được đưa vào bể phân huỷ đậy
kín và ở nhiệt
độ và áp lực cao. Sau 2 giờ, khối lượng rác giảm đi gần một nửa khối
lượng ban đầu, khử được mùi hôi và tiệt trùng 100%. Quy trình này cho 3 phụ phẩm :
¾ Gạch, đá, thủy tinh và tro lò có thể chế biến thành vật liệu xây dựng;
¾ Các chất khô và ướt có được sau khi phân huỷ ướt có thể chế chế biến
thành các chất hữu cơ hỗn hợp và phân bón hữu cơ lỏng tương ứng; và
¾ Nhựa thải có thể chế biến thành dầu mazut hoặc nhựa tái chế
Nguồn : Vatis Update, Jan-Feb 2001

Thu hồi thuỷ ngân từ các chất thải lỏng
Công ty công nghệ ADA, Mỹ đã phát triển quy trình thu hồi thuỷ ngân từ các
chất thải dạng lỏng nhiễm bẩn sơ cấp và thứ cấp. Phương pháp này dựa trên nguyên
tắc khử và thu hồi thuỷ ngân hoà tan có hiệu quả và chọn lọc bằng các chất hấp phụ
kim loại quý.
Trung tâm nghiên cứu năng lượng và môi trường (EERC) đã hỗ trợ kỹ thuật cho
công ty ADA và tiến hành các thử nghiệm để đánh giá hiệu quả toàn bộ của chất hấp
phụ. EERC còn tham gia thiết kế và trình diễn một hệ thống tổng hợp hấp thụ và tái
sinh chất hấp phụ, ứng dụng trong thu hồi thuỷ ngân từ các dòng thải lỏng. Ba chất hấp
phụ kim loại quý mà công ty ADA tìm được, có khả năng khử thuỷ ngân trong dòng
thải thử nghiệm, ở mức giảm thiểu t
ới hơn 99,9%.
EERC đã thiết kế và xây dựng một đơn vị thử nghiệm lắp trên bánh trượt 30 lít
giờ, gồm 3 cột hấp phụ, trong đó 2 cột được vận hành nối tiếp với nhau. Khi xảy ra sự
cố ở cột thứ hai, thì cột thứ nhất ngắt dòng và chuyển sang cột thứ 3. Cột dẫn sẽ được
tái sinh nhiệt để giải hấp thuỷ ngân qua một hệ
thống ngưng tụ/bẫy, thu hồi thuỷ ngân.
Sau đó khí mang được chuyển qua cột hấp phụ hơi nước để khử tiếp bất kỳ lượng thuỷ

ngân không ngưng tụ nào, trước khi thoát ra khí quyển. Sau 15 tháng thử nghiệm, đã
xử lý thành công với năng suất hơn 65.500 khối lượng sạch.
Nguồn : Vatis Update, Jan-Feb 2001

Thu prôtêin từ khí mêtan trong chất thải
Công ty Aptagen, một công ty công nghệ sinh học ở Hoa Kỳ cho biết khí thải
metan trong chất thải có thể coi là một nguồn protein giá trị và rẻ tiền. Công ty đã phát
triển thành công quy trình sản xuất protein từ khí metan, một phế phẩm của khí thiên
nhiên. Protein thu hồi từ quy trình này có hàm lượng amino axit cao gần gấp 5 lần
hàm lượng protein trong ngô thông thường, cần thiết cho cả người lẫn gia súc.
Theo Aptagen, qua áp dụng quy trình mới này có thể đảm bảo đầy đủ các nhu
cầu dinh dưỡng hàng ngày của con người, mà chi phí chỉ khoảng 0,10 – 0,20
USD/ngày. Nguồn cung cấp mêtan cho quy trình này có thể lấy từ khí thiên nhiên, khí
đốt bỏ đi từ sản xuất dầu mỏ, hoặc bằng cách phân huỷ kỵ khí các chất thải. Công ty
đã đề ra thời hạn tiến hành thử nghiệm, nhằm khẳng định độ tin cậy của quy trình mới
này, để sản xuất thức ăn chăn nuôi ở quy mô thương mại.
Nguồn : Vatis Update, Jan-Feb 2001
Bột hỗn hợp lắng phèn xử lý nước ô nhiễm
Trung tâm Phát triển khoa học công nghệ dịch vụ (Hội Vật lý thành phố Hồ Chí
Minh) vừa đưa ra phương pháp xử lý nước bị nhiễm sắt, phèn và đục thành nước sạch
với giá thành thấp, nhưng hiệu quả và quy trình lại rất đơn giản. Đó là hoạt chất A1-
A2, loại bột hỗn hợp lắng phèn rất dễ áp dụng và phổ bi
ến rộng rãi, thay thế cho việc
chế tạo hệ thống thiết bị lọc (lọc thô và lọc tinh). Quy trình như sau: Hòa chất A1 (tỷ
lệ 70 g/m
3
) vào một cốc nước, quấy cho tan hết rồi đổ vào lu nước hoặc bồn nước cần
lọc. Sau đó cho chất A2 (tỷ lệ 80 g/m
3
) vào cốc khác, hòa tan hết rồi đổ tiếp vào lu

ngay. Các kim loại sắt (phèn), các tạp chất hữu cơ được kết tủa, lắng xuống đáy lu,
phần trên là nước sạch. Đậy lu lại, để trong hai giờ (tốt nhất làm vào buổi tối trước khi
đi ngủ để sáng hôm sau có nước sạch dùng). Khi các tạp chất, kim loại, cặn đã được
lắng xuống đáy lu, ở phía trên là nước sạch có thể cho chảy hoặ
c múc sang thùng chứa
nước khác để sử dụng. Nếu lọc qua một lớp vải mỏng sẽ có ngay nước trong như nước
máy để dùng, muốn khử trùng, có thể dùng clo-ra-min hoặc đun sôi để uống. Sau một
thời gian nên súc rửa, làm vệ sinh lớp cặn phèn lắng ở dưới đáy lu.
Nguồn: Nhân dân, 7/3/2001

Thiết bị đun nước bằng năng lượng mặt trời
Các thiết bị đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời (CTST - S100L, CTST -
S120L, CTST - S189L) do Trung tâm Khoa học và Công nghệ nhiệt (CTST) phối hợp
với một số chuyên gia, một số trường đại học và viện nghiên cứu sản xuất, đã được lắp
đặt và sử dụng tốt ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng. Thiế
t bị CTST có cấu tạo đơn giản,
gọn nhẹ, dễ lắp đặt, dễ thay thế, ít bị đóng cặn, thích hợp mọi nguồn nước. Vật liệu
chủ yếu là chất dẻo cao cấp và hợp kim nhôm nên có độ bền cao, phù hợp với điều
kiện Việt Nam. Các ống xi lanh chất dẻo có đường kính 140 mm, bề mặt được phủ
một hợp chất đặc biệt nên bi
ến đổi quang năng thành nhiệt năng đạt hiệu suất cao.
Máy có thể đun nước tới nhiệt độ từ 40 – 85
0
C. Các module CTST ghép nối với nhau
cho sử dụng hàng trăm đến hàng nghìn lít nước nóng/ngày. Ngoài ra, việc nối này có
tác dụng chống nắng, chống dột cho mái nhà.
Trong những ngày nắng, thiết bị đun nước nóng CTST vẫn phát huy được tác
dụng nhờ đấu liên động với bình đun nước nóng bằng điện hoặc bằng gas. Khi nước
không đạt nhiệt độ theo yêu cầu thì thiết bị đun nước nóng bằng điện sẽ tự
động bổ

sung nước nóng cho hệ thống. Bằng cách sử dụng kết hợp này sẽ tiết kiệm được từ 70
- 80% điện năng. Theo tính toán của Trung tâm, sử dụng một module CTST hàng năm
sẽ tiết kiệm được 2.000 - 2.500 kwh.
Giá bán của một bộ thiết bị CTST loại có dung tích từ 120lít - 180 lít là 3 triệu
đồng, trong khi đó các thiết bị có công suất tương tự của Trung Quốc giá 450 USD,
của Austria hoặc của CHLB Đức là 1.850 USD.
Nguồn: TBKTVN, 30/4/2001

Thành công bước đầu trong nghiên cứu sử dụng sợi thực vật thay thế
amiăng ở Việt Nam
Amiăng vẫn được sử dụng phổ biến tại nhiều vùng của Việt Nam , mặc dù đã có
nhiều cảnh báo về tác hại của nó tới sức khỏe và môi trường. Với nỗ lực nghiên cứu để
thay thế vật liệu amiăng theo định hướng của Chính phủ, Bộ
Khoa học, Công nghệ và
Môi trường (KH-CN-MT), Tổ chức NEDO (Nhật Bản) và hai cơ quan Công ty FPT và
Tập đoàn Kawasaki Steel Corporation (Nhật Bản) đã bước đầu thực hiện thành công
dự án dùng sợi khoáng wollastonite kết hợp với sợi thực vật để sản xuất tấm lợp lượn
sóng. Theo số liệu tổng kết của Bộ KH-CN-MT cho thấy, tại Việt Nam, amiăng dạng
chrysotile chủ yếu được sử dụng để
làm các vật liệu như má phanh, chống cháy, bảo
ôn,v.v , đặc biệt là có tới trên 90% được sử dụng để sản xuất tấm lợp amiăng-xi
măng. Hiện trên toàn quốc có tổng số 26 cơ sở sản xuất loại tấm lợp này với tổng công
suất đạt 40 triệu m
2
/năm, chưa kể hàng năm, còn có trên 2 triệu m
2
tấm lợp loại này
được đưa vào Việt Nam từ đường Thái Lan. Như vậy, hiện có khoảng 3000 người
đang hàng ngày trực tiếp sản xuất và tiếp xúc với bụi amiăng và chịu ảnh hưởng của
chất độc hại này.

Sự nguy hiểm tiềm tàng của amiăng
Theo công bố của nhiều quốc gia trên thế giới, amiăng có thể là nguyên nhân gây
ra một loạt các bệnh như bệnh bụi phổi amiăng, dày và can xi hoá màng phổi do
amiăng. Đây cũng là một trong những yếu tố chính gây ung thư màng phổi và ung thư
trung biểu mô. Trung bình hàng năm trên thế giới có hàng chục nghìn người mắc bệnh
và chết có liên quan đến amiăng. Do nhận thức được nguy cơ ảnh hưởng của amiăng
tới sứ
c khỏe, nên một số nước trên thế giới như Pháp, Bỉ, Hà Lan,v.v đã cấm sử
dụng các loại amiăng nhóm amphibole và hạn chế sử dụng nhóm amiăng serpentine,
thậm chí có nước đã cấm sử dụng hoàn toàn tất cả các loại amiăng.
Còn tại Việt Nam, cho tới nay cũng vẫn chưa có được một công trình nghiên cứu
chính thức nào về ảnh hưởng của amiăng tới sức khỏe của ng
ười lao động. Tuy nhiên,
một kết quả nghiên cứu thông qua khám và phát hiện các triệu chứng lâm sàng và bệnh
đường hô hấp đối tới 310 công nhân làm việc tại 3 cơ sở sản xuất tấm lợp fibro-xi
măng cũng đã phát hiện tới 9 dấu hiệu về triệu chứng và bệnh đường hô hấp. Viêm
mũi họng chiếm tỷ lệ cao nhất là 55,48%, ho thường xuyên chiếm 31,6% và khó thở
chiếm 25,8%, viêm phế quản mãn tính chiếm 9%,v.v
T
ừ các kết quả nghiên cứu, người ta đã xác định được mối liên quan giữa việc
tiếp xúc với amiăng và bệnh đường hô hấp. Nguy cơ mắc các triệu chứng và bệnh
đường hô hấp của nhóm công nhân tiếp xúc với bụi Amiăng-Xi măng cao gấp 1,23 lần
so với nhóm công nhân chỉ tiếp xúc với bụi xi măng. Tỷ lệ 3 hội chứng rối loạn thông
khí phổi ở công nhân sản xuất tấm lợp fibro-xi măng mắc với nguy cơ cao gấp 1,87 lần
so với công nhân sản xuất xi măng. Ngoài ra, nguy cơ mắc các dấu hiệu bất thường ở
phổi của công nhân tiếp xúc vớ
i bụi hỗn hợp Amiăng- Xi măng cao gấp 5,2 lần so với
công nhân chỉ tiếp xúc với bụi xi măng thông thường.
Hướng tới loại tấm lợp an toàn
Theo Bộ KH-CN-MT, thì việc thay thế amiăng là vấn đề quan trọng đối với mọi

quốc gia. Những kết quả đạt được trong nghiên cứu của dự án đã mở ra một tương lai
mới trong việc bảo vệ môi trường- sinh thái. Quan trọng hơn nữa là việc sử dụng sợi
thực vật để sản xuất vật liệu xây dựng không chỉ có tác dụng thay thế amiăng mà còn
tận d
ụng và phát triển được một loại vật liệu xây dựng mới, vừa tiết kiệm, vừa hiệu
quả.
Theo đánh giá của các chuyên gia tham gia dự án, hệ thống thực vật ở Việt Nam
vô cùng phong phú với trữ lượng lớn. Tính chất vật lý và hoá học đặc biệt của sợi thực
vật mang lại rất nhiều ứng dụng công nghiệp, nhất là trong các ngành như bột giấy, dệt
và v
ật liệu xây dựng. Trữ lượng của nguồn nguyên liệu thực vật cho xơ sợi của Việt
Nam được ước tính sơ bộ vào khoảng 25 triệu tấn. Các loại thực vật cho xơ sợi chủ
yếu bao gồm các loại gỗ như gỗ thông, keo, bạch đàn, bồ đề; các loại tre nứa, các loại
cây công nghiệp như bông, đay, lanh, vỏ cây dâu và các loại phụ phẩm nông nghiệp
như
rơm, rạ, bã mía.
Hiện nay, do còn thiếu các phương tiện hiện đại dùng cho việc chế biến, nên
nguồn tài nguyên thực vật này vẫn chưa được khai thác hợp lý. Hàng năm, có khoảng
400.000 tấn xơ sợi được sản xuất và sản lượng này không đủ cung cấp cho các nhà
máy sản xuất các sản phẩm công nghiệp. Chính vì vậy, theo đánh giá của các chuyên
gia trong ngành xây dựng, dự án "Nghiên cứu ứng dụng sợi thực vật trong sản xuấ
t thử
nghiệm tấm lợp tại Việt Nam" là một hướng đi mới cho phép khai thác hiệu quả tiềm
năng sợi thực vật phong phú trong nước, từ đó góp phần hạn chế việc nhập khẩu
amiăng, hạn chế ô nhiễm môi trường.
Trên cơ sở nghiên cứu vật liệu thay thế amiăng, dự án đã tìm phương án dùng sợi
khoáng wollastonite kết hợp với sợi thực vậ
t để sản xuất tấm lợp. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, loại nguyên liệu này có thể cải thiện khả năng định hình tấm, độ bảo lưu xi
măng cũng như một số chỉ tiêu chất lượng của tấm lợp. Các số liệu kiểm tra chất lượng

ban đầu đều đạt tiêu chuẩn Việt Nam và cho phép khả năng thay thế hoàn toàn amiăng.
Quan trọng hơn, vi
ệc sản xuất thử nghiệm cũng được thực hiện ngay tại cơ sở với các
dây chuyền và công nhân hiện có. Tuy nhiên, trong tương lai, dự án này vẫn phải tiếp
tục được nghiên cứu, hoàn thiện về chất lượng, cho phép sản xuất công nghiệp, hạ giá
thành sản xuất, nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Nguồn : TBKTVN, 21/5/2001
Bọt xốp gốm có thể thay thế amiăng độc hại

Do amiăng có thể gây ra các bệnh về phổi, kể cả ung thư, cho nên việc tìm kiếm
các loại vật liệu khác có khả năng cách nhiệt cao là rất cần thiết. Sợi gốm đã được sử
dụng để thay thế amiăng, tuy nhiên sợi gốm vẫn phát sinh các bụi hạt hình kim, rất
nguy hiểm đối với phổi khi hít phải.
Các nhà nghiên c
ứu Israel đã sản xuất ở quy mô thử nghiệm chất cách nhiệt cao
bằng chất liệu gốm. Sản phẩm này có thể là chất thay thế an toàn và kinh tế đối với
amiăng và các sợi gốm có hại tiềm tàng hiện đang được sử dụng.
Vật liệu mới này là loại bọt xốp siêu nhẹ làm bằng vật liệu gốm và 94-96% thể
tích vật liệu là không khí, nhưng có thể chịu đượ
c nhiệt độ trên 1700
0
C.
Vật liệu mới này là kết quả trí tuệ của Gideon Grader, Gs về hoá kỹ thuật, Viện
Công nghệ Technion-Israel, Haifa, và đang được nhóm nghiên cứu của Viện phát
triển.
Bọt xốp được làm từ ôxit nhôm, một loại gốm thông dụng chịu nhiệt cao. Sức
chịu nhiệt của bọt xốp ôxit nhôm dựa vào nhiều bọt khí rất nhỏ có trong vật liệu.
Không khí là chất cách nhiệt rất tốt, nhưng muốn phát huy tác d
ụng này của không
khí, cần phải giữ được không khí trong một lớp như chăn.

Ngoài chức năng cách nhiệt, bọt xốp gốm có thể áp dụng cho nhiều mục đích
khác, như cánh âm, và hấp phụ các chất ô nhiễm môi trường. Bọt xốp có thể sản xuất
theo nhiều hình dáng khác nhau, như dạng bánh, hạt và các hình dạng quen dùng khác
theo yêu cầu. Khi nghiền nhỏ, bọt xốp gốm sẽ tạo ra các bụi hạt thông thường nh
ư các
loại bụi hạt trong môi trường, song không gây ra nguy cơ về sức khoẻ, như các sợi
gốm.
Gs. Grader cho biết, "chỉ có 4-5% thể tích bọt gốm chứa chất gốm, vật liệu này là
chất cách điện hiệu quả, có thể cạnh tranh với các sợi gốm kỹ thuật đương đại chi phí
cao hiện nay. Tỷ trọng nhỏ của bọt xốp có ý nghĩa quan trọng đối với các ứng d
ụng
đòi hỏi cao về trọng lượng. Nếu so sánh về trọng lượng, thì bọt xốp gốm có thể là vật
liệu cách điện an toàn và chi phí- hiệu quả. "
Bọt xốp gốm được tạo ra từ các tinh thể đặc biệt chứa các thành phần kim loại và
tất cả các hợp phần tạo bọt. Sau khi nung nóng, các tinh thể tạo ra dung dịch. Trong
dung dịch này, phản ứng diễn ra và hình thành các chuỗi polyme. Sau khi chuỗi
polyme lớn
đến mức cần thiết, dung dịch tách ra thành dung môi tinh khiết và polime.
Tại thời điểm này, dung môi bắt đầu sôi, tạo ra hàng tỷ bọt khí nhỏ li ti, thổi polyme
vào bọt xốp và được ổn định nhờ các chuỗi polyme. Tiếp tục đốt nóng ở các nhiệt độ
cao sẽ tách lại được bọt xốp gốm ôxit kim loại.
Từ 1998, phòng thí nghiệm của Gs. Grader đã phát triển bọt xốp này sau nhiều
năm nghiên cứu về gốm xốp. Chính phủ Israel đã hỗ trợ vốn sơ khởi cho công trình
nghiên cứu này thông qua Công ty ươm tạo doanh nghiệp Technion năm 1999, cộng
với 700.000 đô la do các nhà đầu tư tư nhân đầu tư, và Công ty Cellaris của Gs. Grader
bắt đầu sản xuất thử nghiệm từ đầu năm 2001.
Dự kiến đến tháng 6/2001, công ty sẽ sả
n xuất đủ vật liệu để gửi các mẫu thử
nghiệm cho các công ty kinh doanh ở Mỹ và châu Âu quan tâm tới khả năng sản xuất
và sử dụng gốm.

Dr. Grader là chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực này. Năm 1987, ông nhận được
giải thưởng Kenneth T. Whitby của Hiệp hội Nghiên cứu Son khí Hoa Kỳ. Gs. Grader
còn tập trung nghiên cứu phương pháp tái chế các sản phẩm polyvinyl chloride (PVC)
thân thiện về mặt môi trường, bao gồm vật liệu xây dựng vinyl, v
ật tư y tế, cho đến đồ
chơi trẻ em.
Nguồn: ENN, May 18, 2001


Thuốc bảo vệ thực vật từ aspirin

Cách đây hơn 20 năm kỹ sư Hứa Quyết Chiến thử aspirin tán nhuyễn phun lên
ruộng lúa thí nghiệm của mình, bệnh đạo ôn giảm hẳn chỉ trong một thời gian ngắn sau
đó nhưng chỉ vài ngày sau lúa thí nghiệm cũng chết dần do phun aspirin , có thể
aspirin chứa một chất nào đó trị bệnh cho cây trồng, và cây trồng có khả năng tạo ra
một vùng tế
bào chết bao bọc điểm xâm nhiễm nhằm hạn chế sự phát triển của tác
nhân gây bệnh. Các nhà khoa học gọi phản ứng này là phản ứng "bảo vệ", nó như một
tín hiệu thông báo cho các bộ phận khác của cây trồng chưa bị các tác nhân gây bệnh
xâm nhiễm biết để có phương án phù hợp chống lại bệnh. Hiện tượng này còn được
gọi là hệ thống kháng tập nhiễm. Do đặc đi
ểm khá đặc biệt của hệ thống kháng tập
nhiễm này mà có thể đây là một biện pháp rất khả quan trong việc phòng trừ bệnh cho
cây trồng. Để hệ thống kháng tập nhiễm hoạt động hiệu quả, phát huy hết tác dụng
trong việc phòng và trị bệnh ở cây trồng cần phải có một chất kích thích hệ thống này,
một trong những tác nhân kích thích là chất salicylic acid hay còn gọi là aspirin. đã
được anh Chiến tìm ra. Nếu chỉ
đưa chất salicylic acid vào cây trồng thì cây sẽ chết
ngay, vì vậy, cần phải có một chất phối hợp, có thể dung hòa được salicylic acid để đạt
yêu cầu, không những không làm cây chết mà còn làm cho cây tăng trưởng tốt hơn.

Qua thử nghiệm lần lượt 200 loại hóa chất khác nhau trong suốt hàng chục năm liền để
tìm ra chất phối hợp tốt nhất, bảo đảm yêu cầu, gần đây anh đã tìm ra một chất có thể
dung hòa được salicylic acid để tổng hợp nên chế phẩm mang tên Exin 4:5 HP, được
Cục Bảo vệ Thực vật cho phép khảo nghiệm diện rộng trên đồng ruộng. Theo Thứ
trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thì đây là chế phẩm đầu tiên trong
việc trừ bệnh cho cây trồng được nghiên cứu và sản xuất bằng công thức của Việt
Nam. Ngoài những đặc tính ưu việt của Exin 4:5 HP thì giá rẻ, một yếu t
ố cho thấy chế
phẩm này có nhiều khả năng triển khai ứng dụng trên diện rộng. Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường cũng đã đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho
phép đăng ký đặc cách chế phẩm này vào danh mục thuốc bảo vệ thực vật.
Nguồn:

Tuổi trẻ
,
24/5/2001
Giảm các chất ô nhiễm thuỷ ngân từ các nhà máy đốt than

Công ty Consol Inc. of Library, Pennsylvania, Mỹ đang ứng dụng hệ thống kiểm
soát các khí thải có chứa thuỷ ngân của các trạm đốt rác đô thị cho các nhà máy nhiệt
điện đốt than. Hệ thống này hy vọng sẽ khử được thuỷ ngân lẫn các chất ô nhiễm
sulfur, có thể tạo ra các luồng khói nhìn thấy được và gây nhiêm bẩn các hệ thống
kiểm soát ô nhiễm khác.
Dự án Consol là một trong 6 d
ự án mới được Bộ Năng lượng Mỹ lựa chọn nhằm
hạn chế hiệu quả hơn các khí thải thuỷ ngân của các nhà máy đốt than bằng các hệ
thống đang được sử dụng với chi phí thấp. Chương trình này được xây dựng nhằm giải
quyết việc phản đối sử dụng than để sản xuất điện. Hiện nay, than đá được sử dụng
để
tạo ra một nửa sản lượng điện của Mỹ.

Mỹ có 400 nhà máy điện đốt than ở 43 bang, ước tính mỗi năm phát tán 98.000
pounds (44.492 kg) thuỷ ngân vào không khí. Năm 1999, các nhà máy phát điện này
phải tiến hành lấy mẫu thuỷ ngân trong than sử dụng để phát điện do Hội đồng bảo tồn
tài nguyên thiên nhiên kiện từ năm 1993.
Thuỷ ngân là chất độc tiềm tàng đối với hệ thần kinh. Tiế
p xúc với thuỷ ngân có
thể ảnh hưởng tới bộ não, tuỷ sống, thận và gan. Ngoài ra, thuỷ ngân còn đặc biệt nguy
hiểm đối với sự phát triển của bào thai và trẻ em.
Sáu đề án do Phòng thí nghiệm Công nghệ Năng lượng Quốc gia của Bộ Năng
lượng lựa chọn, sẽ được chính phủ liên bang tài trợ gần 8 triệu USD. Đồng thời, các cơ
sở đề xuất sẽ đóng góp gần 2,3 triệ
u USD, cùng chia sẻ chi phí cho các đề án.
Theo Bộ trưởng Năng lượng Mỹ, mới đây Chính quyền Bush đã công bố chính
sách năng lượng quốc gia mới "kêu gọi đạt được các mục đích quốc gia về năng lượng
và môi trường bằng sự khéo léo về công nghệ".
Đối với một số nhà máy điện đốt than cần thiết phải có công nghệ mới. Hiện tại
trên thị trường chưa có được h
ệ thống kiểm soát ô nhiễm có thể giảm khí thải thuỷ
ngân, ứng dụng đồng bộ cho hàng loạt các nhà máy điện với cáccấu hình khác nhau,
cũng như có thể đạt được hiệu suất giảm thiểu từ 90% đến 100%.
Theo ước tính của Bộ Năng lượng Mỹ, nếu chỉ sử dụng công nghệ hôm nay để
giảm thiểu các khí thải thuỷ ngân, thì người sử dụng sẽ phả
i trả thêm tiền điện vào
khoảng 7 tỷ USD năm. Còn công nghệ mới có thể cắt giảm ít nhất một nửa khoản chi
phí này và thậm chí giảm nhiều hơn vào năm 2010.
Bộ Năng lượng mong muốn phát triển hàng loạt các giải pháp kiểm soát thuỷ
ngân áp dụng cho các nhà máy điện để có thể chắc chắn giảm các mức phát tán từ 50%
đến 70% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.
Đối với nhiều nhà môi trường Mỹ thì chỉ tiêu này còn chậm và các nhóm nghiên
cứu các lợi ích c

ộng đồng của các bang yêu cầu tất cả các nhà máy điện đốt than ở Mỹ
phải giảm tới 90% các khí thải thuỷ ngân vào năm 2007.
Các nhóm ở 40 bang đã cảnh báo không ăn nhiều cá do nhiễm bẩn thuỷ ngân.
Theo ước tính của Viện Hàn lâm khoa học Mỹ, mỗi năm có 60.000 trẻ em sinh ra chịu
rủi ro bị tỏn thương hệ thần kinh do tiếp xúc thuỷ ngân trong bụng mẹ. Các nhà máy
điện đốt than là nguồn gây ô nhiễ
m thuỷ ngân lớn nhất ở Mỹ.
Nguồn: Environmental News Network, 6/20001
Năng lượng sạch từ chất thải
Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Kỹ thuật Mặt phân giới và Công nghệ Sinh học
Fraunhofer, Stuttgat, Đức công bố có thể tạo ra năng lượng nhiều gấp hai lần từ rác
thải bằng quá trình lên men cải tiến.
Theo báo cáo, Viện đã nghiên cứu thành công việc giảm thiểu chất hữu cơ khô,
chiếm 60% trong rác thải, tới 90%, đồng thời thu được gấp đôi sản lượ
ng khí chất thải
từ quá trình lên men.
Quy trình hai giai đoạn thông thường được điều chỉnh bằng cách bổ sung các bộ
vi lọc cho giai đoạn thư cấp của qúa trình xử lý tiến hành trong các điều kiện nhám
kín. Nước bùn chảy qua các bộ lọc này trong khi đó khối cặn bã vẫn tiếp tục bị phân
huỷ và giảm thể tích. Quá trình lên men không dễ gì phân huỷ lig-nin trong sinh khối,
cho nên lig-nin được xử lý bằng loại nấm đặ
c biệt trong không khí. Cuối cùng, khối
lượng lig-nin được phân huỷ thêm một lần nữa, để giảm bớt thể tích. các chất rắn cặn
bã không mùi hôi được đem chôn tại các bãi chôn lấp chất thải.
Theo Viện Fraunhofer, trừ vấn đề chi phí, ngoài ra không có vấn đề nan giải nào
liên quan đến việc lắp thêm hệ thống mới trong các trạm xử lý lên men hiện đang vận
hành.
Hơn nữa, quy trình này rất phù hợp với việc xử
lý chất thải sinh hoạt và đồng thời
tạo ra các lợi ích rõ ràng thông qua việc tái xử lý các dạng chất thải hữu cơ , như chất

thải sinh vật, bùn cống hoặc vật liệu thiên nhiên sử dụng cho công nghiệp.
Nguồn: Tech Monitor,
Jan - Feb, 2001

Trồng nấm bằng bã mía -Nguồn lợi từ nguyên liệu phế thải

Nguồn nguyên liệu phổ biến để trồng nấm từ trước tới nay được biết tới vẫn là
rơm, rạ, mùn cưa, cây gỗ, bông phế thải. Mới đây, các nhà khoa học và kỹ sư thuộc
Trung tâm Công nghệ Sinh học Thực vật (TTCNSHTV), Viện Di truyền Nông nghiệp,
đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công một nguồ
n nguyên liệu bã mía sẵn có có thể
dùng để nuôi trồng nấm rơm, nấm sò, mộc nhĩ, nấm mỡ, nấm hương và nấm Linh Chi
với năng suất khá cao Hiện nay ở nước ta, ngành công nghiệp mía đường đang phát
triển mạnh mẽ, mỗi năm đạt khoảng 1 triệu tấn đường, tương ứng có khoảng 2,5 triệu
tấn bã mía. Lượng bã mía này được sử dụng một phần nhỏ làm nhiên liệu (các sản
phẩm sợi, giấy, chất lợp,v.v ), lượng bã còn lại được thải ra tự nhiên, vừa lãng phí,
vừa gây ô nhiễm môi trường. Sau khi phân tích các thành phần cơ bản trong bã mía,
đã phát hiện thấy xenlulo (Cellulose) chiếm tỷ lệ rất cao, dễ thủy phân ở nhiệt độ cao
hoặc dưới tác động của enzym xenlulaza, có thể nuôi trồng được nhiều loại nấm ăn và
nấm dược liệu. Điều quan trọng là nguồn nguyên liệu này r
ất sẵn có, tập trung ở 40
nhà máy đường mía lớn phân bố trên cả nước, giúp cho việc thu mua bã mía với số
lượng lớn thuận lợi, tạo điều kiện để phát triển mô hình trang trại sản xuất nấm. Điểm
triển khai trên diện rộng quy trình công nghệ nuôi trồng nấm ăn trên nguyên liệu bã
mía đã được tiến hành tại Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn (Thanh Hóa) trong
thời gian 1 năm (từ tháng 4/2000) với t
ổng số nguyên liệu đã được nuôi trồng là 381,5
tấn, để xác định cụ thể về năng suất của từng loại nấm trên nguyên liệu này và hạch
toán về mặt kinh tế nuôi trồng nấm bằng nguyên liệu bã mía, đã tiến hành nghiên cứu
thí điểm trồng nấm trên 3 nguồn nguyên liệu chính là: bã mía, rơm rạ và mùn cưa. Bã

mía còn hàm lượng đường nhỏ hơn 0,3% đã lưu giữ tại nhà máy mía đường Lam Sơ
n
1 năm, 2 năm và 3 năm. Rơm rạ được mua từ Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội và mùn cưa
cao su được mua tại Nghệ An. Tất cả các nguyên liệu này được phơi khô, bảo quản và
không để bị mốc.
Nguồn giống được sử dụng là bộ giống: nấm rơm, mộc nhĩ, nấm sò, nấm mỡ,
Linh Chi đã được tuyển chọn thuần chủng, ổn định về
năng suất, chất lượng và có khả
năng chống chịu tốt. Quá trình nghiên cứu, thực nghiệm trải qua 5 công đoạn: xử lý
nguyên liệu : cây giống - chăm sóc - thu hái và đánh giá năng suất, chất lượng sản
phẩm. Qua 3 lần nuôi trồng thử nghiệm đã cho kết quả không ngờ, năng suất trung
bình của nấm rơm trên bã mía khô đạt 12,8%, trong khi năng suất trung bình của nấm
rơm trên rơm rạ khô đạ
t 12,6%. Năng suất trung bình của nấm mỡ trên bã mía khô đạt
23,2%, thấp hơn năng suất trung bình của nấm mỡ trồng trên rơm rạ 3%, nhưng năng
suất trung bình của nấm Linh Chi trồng trên bã mía đạt 11,35%, cao hơn năng suất của
nấm Linh Chi được trồng trên mùn cưa cao su 1,8%. Năng suất của nấm sò trồng trên
bã mía khô đạt 80%, cao hơn 1,88 lần năng suất nấm sò trồng trên rơm rạ; năng suất
củ
a mộc nhĩ trồng trên bã mía đạt 95,04%, trong khi đó, năng suất mộc nhĩ trồng trên
mùn cưa đạt 93,92%. Tại Hội thảo quốc tế sinh học do Liên hiệp các Hội khoa học-kỹ
thuật Việt Nam vừa tổ chức vào đầu tháng 7/2001 tại Hà Nội, kết quả nghiên cứu này
đã được báo cáo với sự chứng kiến của rất nhiều nhà khoa học có uy tín trong và ngoài
nước và đã được đánh giá rất cao.
PGS-TS Nguyễn Hữu Đống, một trong số 7 nhà khoa học, kỹ sư cùng nghiên
cứu đề tài cho biết, với sản lượng 2.500.000 tấn bã mía mỗi năm của 40 nhà máy sản
xuất mía đường, việc trồng nấm từ bã mía sẽ giải quyết được việc làm cho khoảng
300.000 - 500.000 lao động phổ thông th
ất nghiệp, nông nhàn, với mức thu nhập trên
15.000 đồng/người/công lao động. Đồng thời, phát triển nghề trồng nấm bằng nguyên

liệu bã mía trên diện rộng sẽ góp phần bảo vệ môi trường trong sạch do ô nhiễm từ bã
mía phế thải gây ra. Ngoài ra, sau khi thu hoạch nấm, bằng các loại vi sinh vật hoại
sinh phân huỷ bã nấm sẽ thu được một lượng lớn phân hữu cơ.
Nguồn: TBKTVN, 13/7/2001
Thiết bị dò mới phát hiện các chất ô nhiễm kim loại

Kiểm tra các kim loại trong nước sạch và các dòng thải có thể phải mất nhiều
công sức và thời gian, song nhờ có công trình của các nhà nghiên cứu trường đại học
Brigham Young, một thiết bị dò mới có thể đo trực tiếp các nồng độ kim loại trong
nước khi các dòng nước này chảy qua.
Hệ thống này hoạt động nhờ vào áp dụng biện pháp quan trắc các nồng
độ kim
loại thải ra môi trường từ các hạot động khai khoáng, luyện kim, đốt nhiên liệu hoá
thạch và các sử dụng công nghịêp khác. Các kim loại này gồm kẽm, thuỷ ngân và
cadimi.
Để phát hiện các kim loại trong nước, các nhà nghiên cứu đầu tiên tạo ra các hợp
chất có khả năng tìm và kết lắng với các ion kim loại. Sau đó, các nhà nghiên cứu tạo
ra các phân tử nhỏ hơn và gắn kết chúng với các hợp chất kết lắng với kim loại. Các
phân tử nhỏ này khi gắn kết với các kim loại trong nước sẽ phát huỳnh quang dưới tia
cực tím. Sẽ không xuất hiện huỳnh quang khi không có các kim loại trong nước. Màu
của ánh sáng phụ thuộc vào loại và nồng độ ion kim loại hiện diện.
Theo Paul B. Savage, phó giáo sư về hoá học tại trường Đại học Brigham Young
và là đồng tác giả của nghiên cứu chi tiết trong Tạp chí Hoá học Hữu cơ thì "Nghiên
cứu này sẽ giúp tạo ra một thiết b
ị dò mới có thể đo liên tục kim loại trong mẫu nước
khi dòng nước chảy qua thiết bị và như vậy, có thể dễ đối phó hơn với bất kỳ vấn đề
nào một cách nhanh chóng".
Tác giả cũng cho biết, các kế hoạch đang được thực hiện để phát triển thiết bị
này, cho phép các nhà máy công nghiệp và các trạm xử lý nước thải theo dõi nồng độ
các ion kim loại trong các dòng chảy theo thời gian.

Nguồn: Earth Vision Environment News, 7/2001
Lớp phủ chống dính có thể sinh ra các hoá chất khi đun nấu

Thoạt nghe đây có thể là tin xấu đối với tất cả những người nấu bếp trên thế giới
phải nhờ vào các loại xoong và chảo chống dính, theo một nghiên cứu do Trường đại
học Môi trường, Toronto, Canada và trường đại học Guelph thực hiện, cho biết các bề
mặt này sẽ sinh ra các hoá chất ra môi trường khi bị đốt nóng.
Đưa tin trong tạp chí Nature, các nhà nghiên cứ
u cho biết khi bị đốt nóng, các sản
phẩm có chứa Teflon và các hợp chất đã bị flo hoá khác sẽ sinh ra các hoá chất gồm
Trifuoroacetic axit (TFA), là một hợp chất tồn lưu có những ảnh hưởng lâu dài tới môi
trường chưa được biết tới, các lượng nhỏ CFC gây cạn kiệt ôzôn và
Perfluorocarboxylat mạch dài, tích luỹ trong mô động vật.
Các nhà nghiên cứu cho biết thay vì sử dụng CFC là chất gây huỷ hoại tầng ôzôn,
các ngành sản xuất các hệ thống làm l
ạnh, sol khí, styrofoam và các sản phẩm khác đã
chuyển hướng sang các loại khí hydrochlorofluorocarbon (HCFC) và
hydrofluorocarbon (HFC). Khác với CFC, các loại khí này phân huỷ trong khí quyển
và tạo ra các sản phẩm phụ là TFA, sau đó quay trở lại trái đất theo nước mưa.
Theo David Ellis, tác giả chính của nghiên cứu thì "bằng việc xác định các mức
TFA trong nước mưa trong thời gian 3-4 năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã ước tính
có khoảng 100-120 phần nghìn tỷ TFA trong nước vào năm 2020. Các nhà nghiên cứu
cũng không chắc phát hiện đượ
c các mức TFA vượt quá nhiều mức ước tính và họ
cũng muốn biết tại sao như vậy".
Với các polyme được flo hoá như Teflon, các nhà nghiên cứu đã đốt nóng các sản
phẩm có chứa các polyme đã flo hoá ở các mức nhiệt độ khác nhau và nhận thấy các
sản phẩm này phát ra 10% TFA. Cho dù các ảnh hưởng của TFA đối với con người
vẫn chưa được biết tới, thì các nhà nghiên cứu vẫn cho rằng sự phát sinh ra hợp chất
này là nguyên nhân gây lo ng

ại.
Theo Giáo sự hoá học Scott Mabury, trường Đại học Toronto thì các nồng độ cao
TFA trong nước có thể gây độc ở mức nhẹ đối với thực vật, song quan trọng hơn là
phải mất tới nhiều thập kỷ thì TFA mới phân huỷ và chúng ta không biết được các tác
động môi trường dài hạn là gì.
Các nhà khoa học đồng thời phát hiện các vật liệu polyme đã flo hoá sinh ra các
lượng nhỏ CFC vào khí quyển và gây cạn kiệt tầng ôzôn.
Nguồn: Earth Vision Environment News, 7/2001
Phát hiện vi sinh vật chuyển hoá benzen
Việc làm sạch benzen, một thành phần của xăng và các loại nhiên liệu khác có
nguồn gốc từ dầu mỏ có thể dễ dàng thực hiện nhờ vào sử dụng các vi sinh vật trong
các điều kiện hiếu khí, hoặc trong các môi trường thoáng khí.
Tuy nhiên, ở dưới đất, hoặc trong các môi trường yếm khí hoặc có ít không khí,
quá trình loại bỏ benzen nhờ vào các vi sinh vật phân huỷ benzen trong các điều kiện
kỵ khí có thể là m
ột giải pháp tốt làm sạch chất ô nhiễm có độ độc hại cao này.
Theo Gs Jonh Coates, phó giáo sư vi sinh, và là trưởng nhóm nghiên cứu thì
"Benzen không chỉ là vấn đề nan giải đối với các nguồn cấp nước ngầm, benzen còn
được phát hiện thấy trong đất và các trầm tích. Tràn nhiên liệu và sự rò rỉ nhiên liệu
của các bể chứa ngầm là các thủ phạm chính".
Các vi sinh vật với tên gọi là RCB và JJ thuộc các chủng Dechloromonas ôxy hóa
benzen thành dioxit cácbon trong điều kiện yếm khí mà không cần oxy. Theo Coates,
ho
ạt động phân huỷ benzen của các vi sinh vật trong các môi trường sản sinh ôxy
thường diễn ra chậm hơn khi rút không khí ra khỏi phương trình. Tuy nhiên, các quá
trình phân huỷ của các vi sinh vật mới khám phá ra này có thể diễn ra trong 7 ngày
thay vì 70 ngày. Ngoài ra, các vi sinh vật mới này lại rất phong phú. "Chúng được tìm
thấy trong nhiều môi trường". Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy các vi sinh vật này có
trong các mẫu đất được lấy ở khu vực xung quanh trường đại học, và trong cả các mẫu
lấy từ Nam cực.

Nghiên cứu này là ví dụ
đầu tiên về một sinh vật thuộc bất kỳ loại nào có thể oxy
hoá benzen trong điều kiện yếm khí. Trong nhiều năm, khả năng của các vi sinh vật
phân huỷ benzen trong điều kiện thiếu oxy đã gây tranh luận do tính ổn định về hoá
học của hợp chất này.
Với các vi sinh vật hiện nay, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về quá trình mà các vi
sinh vật giải quyết vấn đề. Và đây là các dấu hiệ
u khuyến khích các nhà nghiên cứu
khác đang tiến hành các công việc tương tự.
Nguồn: Earth Vision Environment News, 7/2001

Sản xuất đất sạch

Hiện nay, trên thị trường xuất hiện một loại đất mới, được gọi là đất sạch. sản
phẩm của Công ty TNHH Cầu Vồng (Hóc Môn, Tp. HCM). Ngoài đặc tính sạch, nó
còn giúp cải thiện các loại đất bị chai cứng, bạc màu, làm tăng độ tơi xốp,v.v
Đất sạch được sản xuất từ các phụ phẩm nông nghiệp như vụn xơ dừa, bã mía,
ngô, rơm, trấu, v.v Tất cả nguyên liệu qua khâu sơ chế: rửa sạch, sấy khô, loại bỏ tạp
chất và diệt vi khuẩn có hại mà vẫn giữ nguyên chất dinh dưỡng sẵn có. Tiếp đó,
nguyên liệu được xay nhỏ, trộn đều và đem ủ trong khoảng 10 ngày và đưa một số
chủ
ng vi sinh vật có lợi vào công đoạn ủ nhằm mùn hoá thực vật, tiết ra chất kích thích
tăng trưởng cho cây trồng. gọi là đất sạch vì nó hoàn toàn làm từ thực vật, không có
tạp khuẩn và khi sử dụng không nhiễm bẩn.
Đất sạch có thể được dùng trong nhiều công đoạn nông nghiệp như: gieo hạt,
giâm cành, chiết cành, ươm cây, trồng cây cảnh, hoa quả, rau màu,v.v Đặc biệt, đất
này còn là chất xúc tác cải thiện đất chai cứng,
đất bạc màu, làm tăng độ tơi xốp, tăng
lượng mùn, đạm,v.v là môi trường lý tưởng cho nghề sản xuất nấm ăn. Riêng với một
số loại cây như rau muống, cải, mướp hay hoa hồng, khi trồng trên đất sạch, không

phải bón thêm một loại phân nào cả. Ưu điểm này rất thuận lợi cho nhiều gia đình
muốn tự trồng những luống rau nhỏ để tạo không gian xanh và đả
m bảo vệ sinh thực
phẩm với chi phí thấp, 3.000 đ/bao 4 lít.
Nguồn:
Tuổi Trẻ
, 30/8/2001

Keo dính cát chống sa mạc hóa ở miền Trung

Yêu cầu đầu tiên để chống sa mạc hóa là chống cát bay. Cốt lõi cho vấn đề này là
sản xuất các loại keo dán rẻ tiền, khi phun vào cát khô thì cát sẽ dính lại tạo thành
những lớp đủ dày với độ cứng cần thiết. Sản phẩm thử nghiệm đầu tiên như thế vừa
được Liên hiệp Khoa học Sản xuất Công nghiệp Sinh hoá học (UBC) đưa ra. Sau
nhiều năm nghiên c
ứu, UBC thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc
gia đã chế ra loại keo dính từ nguyên liệu là cao su phế thải, polymer phế thải như PP,
PE, PCV. Keo này được nhũ hoá với nước và phun vào cát khô với định lượng thích
hợp. Tuổi thọ của keo trên chục năm, cho đến khi lớp cát đã được bổ sung phần đất
dinh dưỡng và cây cỏ đã mọc. Khi đó, vai trò keo dính cát không cần nữa.
Để tạo lập cuộc sống cho ngườ
i dân trong vùng sa mạc, còn phải có hệ thống giao
thông đi lại, trước tiên cho các phương tiện nhẹ như xe đạp, xe máy và ôtô trọng tải 1-
2 tấn. Phương pháp xây đường với các vật liệu như đá, nhựa đường hay đất là rất tốn
kém, chỉ áp dụng với vùng không xa dân cư. Còn ở những nơi đi sâu vào sa mạc, có
thể dùng keo dán theo kiểu chống cát bay. Song do yêu cầu ở đây cao hơn nhiều nên
cần thay đổi chất lượ
ng keo cũng như công nghệ kết dính sao cho lớp cát sau khi được
phun keo dán phải có khả năng chịu lực nén thích hợp.
Sau khi đã chống được cát bay, có đường giao thông đi lại, cần phải lo phương án

cấp nước cho con người. Các nhà khoa học đã đề xuất phương án xây dựng hệ thống
các túi chứa nước gọi là “túi cá voi hai đầu”. Nước được trữ trong các túi 1.000 m
3

từ túi này nước được bơm cho các mục đích khác nhau ở các vùng xung quanh. Bên
cạnh đó, có một đường ống lớn cấp nước cho toàn khu, từ đường ống này nước sẽ
được bơm qua các vùng cần cung cấp nước.
Trên vùng cát 100% chỉ có một số loại cây đặc chủng mới có thể sống được. Để
khắc phục điều này, phải tăng độ phì cho vùng cát dính. Sau khi phun keo dính cát,
tiếp tục phun nước cho đất dưới dạng nhũ. Đối với các chỗ cần trồng cây lâu n
ăm phải
đào hố và cung cấp đất, phân bón cần thiết cho cây.
Việc trồng cây cho vùng đất tái sinh này cần phải được tổ chức quy mô công
nghiệp và cơ khí hoá, tự động hoá cao, giảm bớt nhân công. UBC đã thiết kế loại nhà
kính ươm cây được cơ khí hoá đến 98% với năng suất gấp 15-20 lần so với nhà kính
ươm cây thủ công cổ điển. Trước khi xuất xưởng, cây sẽ được thử nghiệm trong những
môi trường khắc nghiệt.
Thử nghiệm cho thấy tổng chi phí cho 1 ha ước tính 109 triệu đồng. Thời gian tới
UBC sẽ thí điểm chống cát bay ở một số tỉnh miền Trung.
Nguồn:
KH&ĐS
, 23/8/2001

Phân bón nhả chậm đầu tiên của Việt Nam

Các nhà khoa học Việt Nam đã chế tạo thành công một loại phân bón tổng hợp,
trong đó thành phần urê được nhả chậm cho cây hấp thụ. Loại phân này cũng có tính
năng tương tự như phân nhả chậm phốt pho mới của Mỹ, có thể nhả phốt pho tùy theo
mức độ hấp thụ của cây. Qua nhiều thử nghiệm, PGS Trần Khắc Chương,
Đại học

Bách khoa Tp. HCM, đã xây dựng được quy trình sản xuất phân bón nhả chậm urê,
dựa trên nền zeolite tổng hợp từ nguyên liệu Al(OH)
3
, silicát và xút có sẵn ở nước ta.
Loại phân bón nhả chậm này làm từ hỗn hợp zeolite, cao lanh, đất sét và chất xúc tác ở
nhiệt độ cao để tạo thành viên có độ rắn vừa đủ. Nhờ đó, chất dinh dưỡng có thể được
cây hấp thụ dần chứ không bị tan rữa và rửa trôi ngay khi xuống nước. Đặc biệt, phân
bón này còn hấp thụ tốt độc tố nitrat, không gây ô nhiễm môi trường”.
Năm 1999, sau khi tìm ra nguyên vật liệu để
chế tạo zeolite tổng hợp, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành sản xuất thử phân bón nhả chậm urê và thử nghiệm trên cây
lạc đạt kết quả tốt. Sau đó, ông Chương đã hợp tác với Khoa Nông nghiệp thuộc Đại
học Cần Thơ để thử nghiệm phân bón này cho hai vụ lúa thơm cao sản ở trại giống
Long Phú, Sóc Trăng. Lượng urê được sử dụng thấp hơn từ 30-50% mức nông dân
thường dùng, nhưng năng suất thu hoạch vẫn đạt tương đương. Mức giảm 30% cho
hiệu quả cao nhất. Dùng phân nhả chậm, người ta còn có thể giảm số lần bón phân từ 3
đến 4 đợt xuống còn 2 đợt trong một vụ lúa, giảm thời gian, công sức, nhất là đối với
nông dân miền Bắc khi phải trồng lúa vào mùa đông lạnh giá.
Nguồn:
Tuổi Trẻ
, 23/8/2001

Công nghệ mới sản xuất titan siêu sạch

Các nhà khoa học của Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh mới đây đã
đưa ra quy trình sản xuất titan siêu sạch từ nguồn quặng sa khoáng titan có nhiều ở Hà
Tĩnh, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận để xuất khẩu và thay thế hàng
ngoại nhập,. Từ quặng sa khoáng titan, có thể chế ra xỉ giàu TiO
2
, TiO

2
tinh khiết, hợp
kim titan hoặc titan kim loại sử dụng trong nhiều lĩnh vực: công nghệ sơn, công nghệ
que hàn, chế tạo thép hợp kim titan, trong công nghiệp hàng không và vũ trụ,v.v. Bốn
công đoạn của quy trình công nghệ sản xuất titan sạch như sau:
- Làm giàu quặng titan sa khoáng bằng cách tuyển, tinh quặng thu được chứa
50%-52% TiO
2
.
- Làm giàu tinh quặng titan bằng cách luyện xỉ titan trong lò điện hồ quang, xỉ
titan thu được chứa 80%-87% TiO
2
.
- Chế tạo TiO
2
sạch bằng phương pháp hóa học, sản phẩm thu được chứa 97%-
99% TiO
2
.
- Chế tạo FeTi với hàm lượng từ 20%-70% Ti, chế tạo titan kỹ thuật chứa 97%-
99% Ti và titan siêu sạch chứa 99,99% Ti.
Titan kim loại được sử dụng trong kỹ thuật hàng không vũ trụ. Giá bán: 13.000
USD/tấn titan kỹ thuật và 21.000 USD/tấn titan siêu sạch.
Nguồn: Theo
SGGP
, 24/8/2001

Xử lý nước thải công nghiệp đạt hiệu quả cao

Công ty Thuốc trừ sâu Sài Gòn là một cơ sở chuyên pha chế, trộn phụ gia hòa tan

và đóng gói, chiết chai các loại thuốc bảo vệ thực vật ở các dạng thuốc bột, thuốc nước
hoặc dạng hạt . Trong quá trình sản xuất, dù hạn chế tối đa việc sử dụng nước, song
vẫn có nước thải ô nhiễm rấ
t trầm trọng với lượng COD ( Nhu cầu ô xy hóa học) từ
3.000 - 5.000 mg/lít, thậm chí ở các hố ga, COD lên cao tới 200.000- 300.000
mg/lit,v.v nước thải chứa hàm lượng chất độc hại hàng ngày được Công ty giữ lại
trong các thùng phuy bằng nhựa để ngoài trời để xử lý bằng vôi và xút . Sau 6 tháng
mới xả ra bên ngoài và loạt nước thải mới lại được đóng thùng để xử lý và Công ty
luôn trong tình trạng bị đe dọa bởi sự cố ô nhiễm lớ
n của nước thải
Trung tâm Công nghệ Hóa học và Môi trường Việt Nam đã xử lý có hiệu quả các chất
gây ô nhiễm nguồn nước thải tại Công ty Thuốc trừ sâu Sài Gòn, nước sau xử lý có
khả năng đạt tiêu chuẩn nước thải loại A của Việt Nam bằng việc kết hợp các phương
pháp hóa học, hóa lý và sinh học thành một công nghệ tổ hợp.
Về công nghệ hóa học, Trung tâm sử dụng công nghệ phân hủy hóa học dưới tác dụng
của các chất xúc tác mạnh (trong đó quá trình chủ yếu trong công nghệ là oxy hóa
nâng cao) nhằm thự
c hiện mạnh hơn, hiệu quả hơn trong xử lý nước thải. Trung tâm
đã dùng xúc tác Perozone và Fenton để thực hiện các quá trình phân hủy trên. Nhiều
loại thuốc bảo vệ thực vật gốc clo hữu cơ, phospho hữu cơ, gốc carbamat, pyrethoroid
đạt từ 85% đến 95%. Để tăng hiệu quả xử lý, Trung tâm đã nghiên cứu một công nghệ
kết hợp giữa công nghệ nói trên với công nghệ truyền thống là phương pháp phân hủy
sinh học và phương pháp keo tụ hóa lý. Đồng thời Trung tâm đã chế tạo ra thiết bị
phản ứng hóa học cho các quá trình. Hệ thống thiết bị này nằm gọn trên diện tích 200
m
2
có công suất xử lý 50 m
3
nước thải mỗi ngày.
Theo Giám đỗc Công ty Thuốc trừ sâu Sài Gòn, ngoài việc xử lý nước thải do sản

xuất công nghiệp của Công ty mỗi ngày, từ nay đến cuỗi năm 2001, Công ty sẽ giải
quyết xong hàng chục thùng phuy chứa nước thải tồn đọng trong nhiều năm nay bằng
công nghệ phối hợp nói trên.
Nguồn: TTXVN, 29/8/2001

Xử lý nước thải từ bãi rác Nam Sơn ở Hà Nội

Khu liên hợp Xử lý chất thải Nam Sơn là nơi tập trung xử lý rác thải lớn nhất của
thành phố Hà Nội, có diện tích 83 ha, nằm trên địa bàn 3 xã Nam Sơn, Bắc Sơn và
Hồng Kỳ (huyện Sóc Sơn). Khu liên hợp này đã xử lý được khoảng 10.000 m
3
nước
rác tồn đọng trong khoảng hơn 10 ngày. Trong quá trình đổ rác, do độ ẩm tự nhiên,
quá trình vận hành, xử lý rác và đặc biệt là do mưa, đến nay lượng rác không được xử
lý tồn đọng trong các ô chôn lấp lên tới 200.000 m
3
, gây nguy cơ rò rỉ nước thải từ bãi
rác, ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Để giải quyết vấn đề này, UBND thành
phố Hà Nội đã phê duyệt dự án "Xử lý khẩn cấp nước rác tồn đọng tại khu liên hợp xử
lý chất thải Nam Sơn". Sau gần 2 tháng thi công, ngày 15/8/2001, Liên hiệp Khoa học
sản xuất công nghệ hoá học và Trung tâm Tư vấn chuyển giao công nghệ CTC đã
hoàn thành hiệu chỉnh thiết bị vớ
i tổng kinh phí trên 3 tỷ đồng và bắt đầu xử lý nước
rác với công suất từ 1.000-1.500 m
3
nước rác/ngày. Kết quả phân tích cho thấy, nước
rác sau khi xử lý bằng thiết bị mới đã đạt các thông số theo yêu cầu và đạt tiêu chuẩn
nước thiên nhiên.
Nguồn:
Hà Nội Mới

, 27/8/2001

Chế biến vỏ trấu thành chất đốt cao cấp

Công nghệ định hình sinh khối để sản xuất thanh nhiên liệu có chất lượng cao từ
trấu là một giải pháp khả thi, mở ra triển vọng giải quyết tình trạng khan hiếm chất đốt
ở các vùng nông thôn, đồng thời góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường.
Ước tính hàng năm có khoảng gần 2 triệu tấn trấu được thải ra từ
các cơ sở xay
xát. Nhiều nhà máy, xí nghiệp mà chủ yếu ở phía Nam đang phải đối mặt với việc xử
lý lượng phế thải khổng lồ trên do không đủ mặt bằng kho chứa và thiếu đầu ra. Chẳng
hạn, một nhà máy xay xát có công suất trung bình 100 tấn/ca, 1 giờ sẽ thải ra 2,5 tấn
trấu, 1 ngày là 60 tấn và 1 tháng là 1.800 tấn. Với khối lượng riêng của trấu là 130
kg/m
3
thì phải cần một thể tích kho chứa trên 13.000 m
3
. Mặt khác, do khối lượng
riêng nhỏ nên chi phí vận chuyển đến các vùng nông thôn, nơi đang thiếu chất đốt và
vẫn phải chặt phá rừng để lấy củi, là rất tốn kém.
Trước tình hình đó, từ năm 1997, Viện Năng lượng, thuộc Tổng công ty Điện lực
Việt Nam đã thực hiện dự án “Công nghệ định hình sinh khối các phế thải - phụ phẩm
nông nghiệp để sả
n xuất thanh nhiên liệu có chất lượng cao”. Mới đây, Viện đã chế tạo
thành công máy ép trục vít dùng để ép các phế thải - phụ phẩm nông nghiệp thành
thanh nhiên liệu với nhiệt năng cao, tiện lợi trong vận chuyển. Máy có các chỉ tiêu kỹ
thuật tương đương với máy của Thái Lan và Bangladesh nhưng giá thành chỉ bằng 1/2
đến 1/3.
Nguyên lý làm việc của máy như sau: trấu sau khi xay xát thường có độ ẩm đến
11% được rót thẳng vào hệ thố

ng cấp liệu. Máy ép hoạt động nhờ một động cơ điện
công suất 11 kW, trục vít quay trong khuôn ép với tốc độ 200 đến 400 vòng/phút nhờ
bộ truyền đai. Xung quanh khuôn ép được gia nhiệt bằng 3 vòng điện trở có công suất
6 đến 8 kW. Mục đích của việc gia nhiệt nhằm làm mềm nguyên liệu - giảm ma sát và
lực ép, đồng thời làm chảy lignin có sẵn trong nguyên liệu thô tạo độ kết dính. Sản
phẩ
m sau khi ép chắc - bóng, bề mặt được carbon hóa cao. Chiều dài của thanh nhiên
liệu có thể thay đổi theo yêu cầu.
Kết quả phân tích cho thấy thanh nhiên liệu có ưu điểm hơn hẳn nhiên liệu thô
ban đầu do một số đặc tính cơ - lý - hóa được cải thiện như: tăng được khối lượng
riêng lên từ 5-10 lần, rất dễ dàng cho vận chuyển đi xa với chi phí thấp; nhiệt lượng
tăng theo đơn vị khố
i; dễ dàng cải tiến công nghệ đốt để có hiệu suất sử dụng cao,
giảm ô nhiễm môi trường. Hiện nay, máy do Viện Năng lượng chế tạo đang được ứng
dụng thử nghiệm ở thị trấn Trôi (Hà Tây) cho kết quả khả quan, mở ra triển vọng cho
phát triển công nghệ này ở Việt Nam. Sau khi công nghệ được hoàn thiện, ước tính có
thể phát triển được gần 10.000 máy ở khắp các vùng trong c
ả nước. Nó sẽ giúp giải
quyết tình trạng khan hiếm chất đốt ở các vùng nông thôn và thay thế cho gỗ củi, giảm
chặt phá rừng. Hiện nay, giá 1 kg sản phẩm tương đương với giá củi trên thị trường (từ
400 đến 450 đ/kg).

×