Chế tạo thành công thiết bị
lọc khử nitơ trong nước
Chế tạo thành công thiết bị lọc khử nitơ trong nước
Viện Công nghệ Sinh học thuộcTrung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc
gia, đã nghiên cứu, chế tạo thành công thiết bị lọc khử Nitơ liên kết trong nước, góp phần
bảo vệ sức khỏe và làm giảm các bệnh ung thư do nước bị nhiễm ni-tơ gây ra. Thiết bị
này gồm bốn khoang: khoang nitrat hóa, khoang phản nitrat hóa và hai khoang xả cặn. Vỏ
và các khoang của thiết bị được chế tạo bằng thép inox. Bộ phậ
n thu và xả cặn sử dụng
trong thời gian từ một đến hai năm. Viện Công nghệ Sinh học có thể cung cấp những loại
bình lọc như NIRFE 50, 100, 200 với lưu lượng nước được xử lý từ 15 lít/giờ đến70
lít/giờ. Thiết bị này đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn của Việt Nam và hiện đang được áp
dụng thành công tại nhiều địa phương.
Hiện nay, tại nhiều địa phươ
ng trong cả nước, tình trạng nước ăn, uống bị nhiễm Nitơ
liên kết rất cao. Theo điều tra mới đây của Bộ Xây dựng tại một số làng xã vùng nông
thôn đồng bằng tập trung đông dân cư, các làng nghề, vùng ven đô, nước sinh hoạt bị
nhiễm Nitơ liên kết rất cao, vượt quá chỉ tiêu cho phép từ hàng chục lần, điển hình là Phú
Đô, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm (Hà Nội), thậm chí có nơ
i vượt tiêu chuẩn cho phép đến
hàng trăm lần.
Nguồn: Tin tức, N.D, 5/1/2003
Nhà máy xử lý rác thải hiện đại nhất Đông Nam Á
Mới xử lý được 1/7 lượng rác thải của Hà Nội
Theo con số thống kê hiện nay của Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội, thì lượng rác
thải sinh hoạt trong một ngày của toàn thành phố Hà Nội thu gom được là 1.500 tấn. Xử
lý hết số rác sinh hoạt hàng ngày này là một vấn đề đáng quan tâm của Thành phố. Giám
đốc Xí nghiệp Chế biến Phế thải Đô thị, cho biết: “Dự án nâng cấp Nhà máy xử lý rác thải
Cầu Diễn” bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 9/2002 vớ
i tổng số vốn đầu tư là 65 tỷ đồng.
Nhà máy có công suất xử lý là 210 tấn rác/ngày, nhưng hiện nay đang trong giai đoạn bảo
hành nên chỉ có thể cho chạy máy 1 ca với công suất 130 tấn rác thải/ngày. Với quy trình
sản xuất nhanh gọn như rác được đưa đến xí nghiệp, qua dây chuyền chọn lọc và xử lý
chọn rác hữu cơ, loại bỏ rác trơ, sau đó đưa vào bể ủ. Tại đây rác
được ủ lên men và lên
băng chuyền đổ vào máy nghiền rác, máy hút chân không. Cuối cùng là khâu cân và đóng
bao, tất cả các thao tác này đều được thực hiện bằng máy. Dây chuyền này đã giúp xí
nghiệp giảm bớt được nhân công và các chi phí khác phát sinh trong công đoạn tiêu hủy
rác.
Ưu điểm của dây chuyền
-Bằng phương pháp công nghiệp ủ lên men không sinh ra nước và không gây mùi hôi,
do đó nhà máy có thể được đặt gần thành phố, tiết kiệm được một phần chi phí vận
chuyển hay mang đi chôn lấp, tiết kiệm được quỹ đất cho Thành phố, vì mỗi nhà máy chỉ
có 4 ha đất để xử lý rác trong 15 năm với khối lượng rác là 50.000 tấn. Một ưu điểm nữa
của dây chuyền là đảm bảo sự trong lành của môi trường xung quanh, không gây
ảnh
hưởng đến người dân sinh hoạt ở cạnh nhà máy. Tiếp đó là giảm bớt cường độ lao động,
vì đây là dây chuyền sản xuất tự động hoá hoàn toàn. Nếu như trước đây chưa có dây
chuyền này, khi sàng và phân loại rác có những lúc cao điểm ngoài lực lượng nhân công
sẵn có trong nhà máy, chúng tôi đã phải thuê 100 nhân công nữa, nhưng đến nay phân
xưởng đó chỉ có 2 công nhân đứng máy mà vẫn đảm bảo được dây chuyền sản xuất. Theo
tôi thì đây là một dây chuyền xử lý rác thải hiện đại nhất Đông Nam á.
Hiện nay việc chọn lựa rác đầu nguồn đang là một khó khăn và tốn rất nhiều thời
gian, chi phí phí, bởi vì làm ra sản phẩm phân vi sinh phải là loại rác có 50% chất hữu cơ,
những thành phần chất hữu cơ thường có và có cao nhất là ở rác chợ, mà khâu chọn lựa
rác đầu nguồn của mình còn nhiều hạn chế. Thực t
ế, Xí nghiệp đã giám sát một bể rác có
216 tấn rác, mới lựa được 105 tấn rác hữu cơ, lượng rác trơ còn lại chúng tôi lại phải vận
chuyển lên bãi rác Sóc Sơn để chôn lấp, chi phí để vận chuyển, chọn lựa rất tốn kém.
Chúng tôi đang hạn chế đến mức tối đa khâu này để hạ giá thành sản phẩm xuống.
Nguồn: Lao động, 9/1/2003
Lò sấy gỗ bằng năng lượng mặt trời
Dùng gỗ tươi đóng đồ, sản phẩm sẽ bị nứt, cong, vênh do co ngót. Nhưng thời gian
chờ cho gỗ khô phải tính bằng tháng. Vào mùa vụ, các nhà sản xuất phải sấy gỗ; bằng
than, bằng điện hay gas đều rất tốn kém. D
ưới đây là ý tưởng sấy gỗ bằng năng lượng mặt
trời, thông qua hiệu ứng nh
à kính, giúp giá thành sản phẩm giảm rất nhiều.
Nguyên lý
Dùng luồng khí lưu thông tự nhiên (hoặc cưỡng bức nếu cần thiết) đã hấp thụ sức
nóng của ánh sáng mặt trời trên cơ sở hiệu ứng nhà kính để làm bốc hơi nước trong
gỗ.
Cấu tạo lò
Buồng chứa gỗ: Tuỳ theo công suất mong muốn mà làm buồng to hay nhỏ, cao hay
thấp. Có thể xây bằng gạch trát vữa ximăng hoặc dùng các container cũ cải tạo nên. N
ếu
được, nên sử dụng thêm các hình thức cách nhiệt cho buồng chứa gỗ.
Mái lò được làm bằng kính để thu năng lượng mặt trời, dốc sang hai bên để thoát
nước mưa và tạo ra hầm mái. Để tăng hiệu quả thu năng lượng, sàn hầm mái có thể trải
các vật liệu màu đen.
Gỗ được xếp dựng đứng trong buồng thành từng lớp. Các lớp gỗ được ngăn cách
nhau bởi một hoặc hai nẹp gỗ dày 2cm. Các nẹp gỗ này còn có tác dụng ngăn khoảng
không gian giữa hai lớp gỗ thành hai phần để bắt dòng không khí phải lưu thông qua toàn
bộ khối gỗ. Để tránh dòng không khí đến miệng hút gió quá nhanh mà không đi qua hết
khối gỗ, thì yêu cầu các thanh gỗ trong một lớp phải có cùng chiều dày và xếp sát liền
nhau. Các nẹp gỗ được đỡ bằng các giá đỡ dọc theo thành lò.
Sàn lò được làm bằng gỗ và có khoảng cách với nền để nước trong gỗ thoát ra có thể
chảy xuống nền và thoát ra ngoài nhờ tạo độ dốc cho nền lò.
Hệ thống dẫn khí gồm hộp phân phối khí nóng và hộp thu khí nguội được bố trí ở một
bên và dọc theo thành lò. Hộp khí nóng thông với hầm mái và có thể phủ thêm bằng vật
liệu cách nhiệt, có cử
a liên hệ với hệ thống cấp nhiệt bằng than tổ ong khi cần thiết. Hộp
khí nguội có các ống hút khí, lắp cầu hút và có cửa chờ để lắp quạt thông gió trong trường
hợp không khí không lưu thông tự nhiên được. Hai hộp này liên hệ với buồng sấy bằng
các lỗ trên tường lò.
Vận hành
Xếp gỗ trong lò: Một đầu các thanh gỗ được phủ kín bằng nilông. Mục đích là để không
cho nước thoát ra ngoài theo m
ặt này để chống nứt gỗ. Đầu thanh gỗ có bịt nilông quay
lên phía trên.
Do năng lượng mặt trời không duy trì được liên tục trong suốt quá trình sấy hoặc sấy
ban đêm, nên có thể dùng các biện pháp hỗ trợ như cấp nhiệt bằng bếp than tổ ong để làm
tăng nhiệt cho lò, dùng quạt thông gió khi trời không có gió.
Nguồn: Lao động, 19/1/2003
Xử lý bã khoai mì bằng công nghệ trong nước
Những năm 1995-1997, một số đơn vị
sản xuất tinh bột như Vedan - Việt Nam (Đồng
Nai), các nhà máy sản xuất tinh bột Tây Ninh, An Giang, Quảng Ngãi, Đăk Lăk, Ninh
Thuận,v.v đi vào hoạt động. Các nhà máy sau khi đã lấy được tinh bột từ củ khoai mì
sắn thì bỏ lại phần bã mì. Phần bã này không không những gây ô nhiễm môi trường mà
còn gây lãng phí rất lớn, vì trong phần bã mì bị thải vẫn có đến từ 5-7% tinh bột.
Năm 1997, nhà máy Vedan - Việt Nam đặt hàng Công ty Tư vấn và Đầu tư Kỹ thuậ
t
Cơ điện TP Hồ Chí Minh, thiết kế và chế tạo một dây chuyền thiết bị xử lý bã mì. Sau gần
cả năm thiết kế, thử nghiệm, cuối cùng đã có dây chuyền chuyển giao được cho Nhà máy
Vedan một hệ thống xử lý, nhưng chưa thật sự trọn vẹn. Bởi lẽ phần sấy khô bã mì thì coi
như tạm ổn. Song phần ép tách nước bã khoai mì để sấy khô vẫn chưa giải quyết được.
Sau hơn 5 năm, kỹ sư Thành thuộc Công ty tư vấn và Đầu tư Kỹ thuật Cơ điện TP.Hồ Chí
Minh đã tìm ra được giải pháp để khắc phục nhược điểm này qua tham khảo hàng loạt các
kiểu máy của Pháp, Đức; những công nghệ như máy ép kiểu vít xoắn đường kính tăng
d
ần, ép kiểu chày cối, ép kiểu băng trống,v.v đã xử lý bã mì một cách triệt để. Theo đó,
bã mì sẽ không còn phải tốn thêm công đoạn phơi nắng trước khi sấy nữa, mà bã mì thải
ra khi vừa thu hồi tinh bột xong sẽ được tiếp nhận ngay. Sau khi được tách nước sơ bộ, bã
mì được chuyển đến máy ép. Tiếp đó bã mì sẽ được chuyển tiếp sang máy sấy thùng
quay. Độ ẩm của bã mì lúc này được rút xuố
ng còn khoảng 20-30% nước. Rồi tiếp tục
được chuyển tới máy sấy khí động, sau khi qua máy sấy khí động, bã mì chỉ còn khoảng
dưới 10% nước. Với độ ẩm này thì bã mì đã đủ tiêu chuẩn để đóng bao tồn trữ, đủ tiêu
chuẩn để bán cho các nhà máy làm thức ăn gia súc.
Thiết bị xử lý trọn gói bã khoai mì này đã hoạt động tốt ở Công ty Chế biến & Xuất
Nhập khẩu Nông sản An Giang. Thiết bị này có n
ăng suất 2.500 - 2.800 kg bã khoai
mì/giờ, và xử lý khá tốt ngay khi bã khoai mì còn sũng nước. Hiện nay, chỉ mới có thiết bị
do Việt Nam chế tạo này là "trị" bã khoai mì có độ ẩm cao như vậy. Có thể khẳng định
rằng thiết bị xử lý này có chất lượng không kém thiết bị nhập ngoại, mà giá thành chỉ
khoảng 1/3 máy ngoại.
Nguồn: Người lao động, 11/2/2003
Nhiệt độ mặt đất giúp tính được mực nước ngầm
Các nhà khoa học đã phát hiện ra một phương pháp mới để đo tốc độ chuyển động
của nước từ mặt đất tới gương nước bằng cách phân tích nhiệt độ của mặt đất.
Hội Khoa học thổ nhưỡng Hoa Kỳ đã công bố công trình nghiên cứu này trên tạp chí
Vadose Zone, mô tả phương pháp luận về việc sử dụng nhiệt độ mặt đất để phân tích
lượng n
ước được nạp vào tầng nước ngầm ở một vị trí cụ thể. Công trình nghiên cứu mô
tả các kết quả khoa học thu được ở các địa điểm hiện trường thuộc New Mexico và
Nevada, là những nơi mà các nhà nghiên cứu đã phát hiện được cách tính tốc độ nước
chuyển động xuống gương nước ngầm bằng các phép đo nhiệt độ giữa bề mặt đất với
gươ
ng nước tại các lỗ khoan thăm dò.
Theo Jim Constantz thuộc Cơ quan Khảo sát địa chất Hoa Kỳ, "nếu biết được tốc độ
chuyển động của lượng nước nạp sẽ giúp xác định được lượng nước cho phép khai thác,
tránh khai thác quá nhiều lượng nước ngầm do mưa và các dòng chảy nạp".
Các nhà khoa học còn nghiên cứu các dữ liệu về nhiệt độ dưới sâu núi Yucca và đồng
bằng French, Nevada, cũng như nghiên cứu các dữ liệ
u nhiệt độ tầng nước nông hơn
trong lưu vực Rio Grande, New Mexico. Khi so sánh các phép đo chuyển động của nước
dựa vào nhiệt độ giữa các địa điểm ở các vùng núi, thung lũng và các vùng trung gian,
các nhà nghiên cứu đã phát hiện được hàng loạt các giá trị tốc độ chuyển động của nước
từ bề mặt tới gương nước ngầm. Các dòng chảy nằm sâu dưới vùng xa mạc, chuyển động
đi xuố
ng của nước có tốc độ tới vài fít/ngày, trong khi dưới sâu các lưu vực khô hạn,
chuyển động của nước không quá hoặc dưới một phần inch/năm.
Theo Constantz, trong tương lai, các phép đo thường xuyên nhiệt độ mặt đất sẽ giúp
xác định được các tốc độ chuyển động tổng của nước xuống gương nước trên diện rộng,
và như vậy cho phép bơm nước ngầm với lưu lượng không vượt quá tốc độ nạp lại nước
ngầm. Từ đó có thể tạo ra tính bền vững trong việc sử dụng các nguồn nước ngầm cho các
thế hệ tương lai ở vùng Tây Nam.
Nguồn: American Society ofAgronomy, 2/2003
Ứng dụng công nghệ viễn thám (SAR) và hệ thống thông tin địa lý (GIS) bảo vệ môi
trường
Những nhu cầu thực tế của Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa khô và một mùa
mưa riêng biệt. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 5 và mùa mưa từ tháng 6
đến tháng 11. Những năm gần đây, khí hậu thường có sự thay đổi, lũ lụt gia tăng và
thường xuyên gây thiên tai. Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều
vào thiên nhiên, thì môi trường cũng sẽ rất dễ bị hủy hoại bởi các hoạ
t động kinh tế. Vì
vậy, việc ứng dụng công nghệ viễn thám và Hệ thống thông tin địa lý trong lồng ghép bảo
vệ môi trường và phát triển kinh tế là một nhu cầu thực tế của nước ta, đặc biệt là trong
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ này vẫn còn gặp những khó
khăn đáng kể.
Theo kết quả ứng dụng ban đầu của các chuyên gia, trước hết chúng ta có thể sử dụ
ng
công nghệ này để theo dõi diện phân bố vùng lũ và xây dựng bản đồ lũ theo thời gian.
Cho đến nay, việc khẩn cấp đưa ra một bản đồ vùng ngập lụt là cần thiết. Dạng bản đồ
này là nguồn thông tin tốt để phân tích phục vụ việc quản lý lũ lụt nhằm đáp ứng yêu cầu
của các nghiên cứu và ứng dụng khác nhau. Một trong những công cụ mạnh cho việc lập
các bản đồ như vậy là hệ thống ảnh Radar. Dữ liệu ảnh Radar không bị ảnh hưởng bởi
điều kiện thời tiết nên có khả năng thu ảnh bất cứ lúc nào mà chúng ta cần. Do đó, việc
theo dõi theo thời gian lúc nào cũng được bảo đảm. Thời gian qua, tập đoàn quốc tế
Radarsat, CIAS và Uỷ ban Giảm nhẹ Thiên tai thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông
thôn đã kết hợp với nhau trong dự
án về Geomatic nhằm tạo một hệ thống ứng dụng để
thành lập bản đồ lũ, giảm nhẹ thiệt hại và dự báo lũ. Dữ liệu viễn thám chính được sử
dụng là Radasat, ảnh hưởng của vệ tinh hoạt động với đầu chụp SAR. Một cơ sở dữ liệu
và hệ thống thông tin đã đồng thời được xây dựng nhằm bảo đả
m hoạt động cho cả hệ
thống. Lần đầu tiên hệ thống theo dõi lũ được thiết kế cho đồng bằng sông Hồng, đồng
bằng sông Cửu Long và miền Trung.
Đây là những ưu điểm của việc ứng dụng SAR trong việc phục vụ đánh giá nhanh
diễn biến của lũ lụt. Với sự trợ giúp của hệ thống thông tin địa lý, các kết quả này có thể
đượ
c tích hợp với nhau, giúp chúng ta nhanh chóng đánh giá được tác động của lũ tới sản
xuất và đời sống dân sinh.
Mặc dù việc ứng dụng công nghệ này trong lồng ghép bảo vệ môi trường và phát triển
kinh tế sẽ có hiệu quả rất cao, song đối với Việt Nam, việc áp dụng công nghệ cao vẫn
phải đối mặt với nhiều thách thức. Một trong số thách thức này là giá cả dữ liệu, chi phí
đào tạ
o công nghệ và những vấn đề có liên quan đến tổ chức sử dụng công nghệ cao như
viễn thám SAR ở Việt Nam. Kinh nghiệm cho thấy, việc ứng dụng công nghệ SAR có thể
chuyển giao và sử dụng có hiệu quả ở Việt Nam cho các dự án thử nghiệm, trong khi đó
việc chuyển giao công nghệ cho các hệ thống ứng dụng đòi hỏi thời gian và nỗ lực lớn
hơn. Như vậy, những thách thức mà chúng ta đang đối mặt không còn là vấn đề kỹ thuật.
Việc chuyển giao ứng dụng SAR ở các nước đang phát triển phải đối phó với hàng loạt
vấn đề về tổ chức, nhận thức của các nhà lãnh đạo về giá trị đ
ích thực của công nghệ viễn
thám. Còn ở Việt Nam vấn đề kinh tế, chính sách giá cả của các nhà sản xuất hiện đang là
rào cản lớn cho việc sử dụng hiệu quả dữ liệu SAR trong việc theo dõi lũ.
Nguồn: Hà Nội mới, 26/2/2003
Đà Lạt ứng dụng GIS trong quản lý đô thị
Theo kế hoạch, đến tháng 12/2004 thì toàn bộ hệ thống tích hợp thông tin địa lý
phục vụ quản lý đô thị (GIS) của Đà Lạt sẽ được hoàn thành.
GIS là hệ thống tích hợp
thông tin địa lý nhằm phục vụ cho nhiều mục đích, trong đó đặc biệt là mục đích quản
lý đô thị. Trên thế giới, GIS không còn xa lạ với nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, công
nghệ GIS cũng đã được khai thác ở một vài thành phố lớn như TPHCM, Biên Hoà
(Đồng Nai),v.v Song, với Lâm Đồng, đây là lần đầu tiên công nghệ GIS được triển
khai tại thành phố Đà Lạ
t. Theo các nhà chuyên môn, việc ứng dụng GIS sẽ giảm được
khoảng 40% chi phí xây dựng dữ liệu đơn lẻ cho từng cơ quan, đơn vị. Đặc biệt, GIS
chính là "ngân hàng" đáng tin cậy chứa đựng những thông tin cần thiết cho các nhà
quản lý, các chủ đầu tư, những người lập dự án,v.v tìm đến trước khi đưa ra một
quyết định đạt tính chính xác cao nhất.
Tại Đà Lạt, những thông tin, dữ liệu v
ề nhà, đất, môi trường của từng hộ cá thể
đến các đơn vị, cơ quan cũng như cả quy hoạch chung của thành phố từ trước đến nay
chỉ được lưu trữ rời rạc trên các phương tiện hiện có như văn bản giấy tờ, máy vi tính
và một số dạng lưu trữ khác. Do đó, nhà quản lý trước khi đưa ra một quyết định nào
đó có liên quan đến vấn đề
nhà đất, môi trường,v.v thì cần rất nhiều thời gian và đặc
biệt là cần rất nhiều về các dạng tài liệu liên quan. Bởi vậy, với quyết tâm cải cách thủ
tục hành chính theo chiều sâu, UBND TP. Đà Lạt được sự trợ giúp của Trường Đại
học Bách khoa TPHCM đã lên đề cương thiết lập hệ thống tích hợp thông tin phục vụ
quản lý đô thị (GIS) và đã được UBND tỉnh Lâm Đồng phê duy
ệt và chính thức cho
triển khai thực hiện. Theo Trưởng ban Chỉ đạo thực hiện dự án GIS Đà Lạt, thì dự án
được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 bắt đầu từ đầu năm nay đến tháng 6/2003 với
nhiệm vụ phải hoàn thành việc xác định hiện trạng Đà Lạt; đưa ra các cấu trúc dữ liệu
tương ứng với các chuyên đề (như các chuyên đề về nhà, đất, mạng lưới giao thông,
quy hoạch,v.v ); xây dựng không gian 3 chiều của thành phố, thiết kế quy trình cập
nhật dữ liệu trên GIS, tạo phần mềm cung cấp cho các đối tượng về các lĩnh vực (như
quản lý nhà đất, quản lý giao thông,v.v ) và cập nhật mọi diễn biến khác. Giai đoạn 2
bắt đầu từ tháng 7/2003 đến tháng 7.2004: Hoàn thiện khả năng liên thông GIS giữa
các phòng ban chức năng (Phòng Nhà đất - Địa chính, Phòng Xây dựng - Giao
thông.v.v ) với Văn phòng UBND TP. Đà Lạ
t. Ttrong giai đoạn cuối, từ tháng 8/2004
– 12/2004, toàn bộ hệ thống tích hợp thông tin địa lý phục vụ quản lý đô thị của TP.
Đà Lạt phải được hoàn thành để trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị cho sự
phát triển đô thị trong tương lai.
Đầu tháng 1.2003, đề cương này được Hội đồng Khoa học tỉnh thẩm định với
đánh giá khá cao và được UBND tỉnh Lâm Đồ
ng phê duyệt cho triển khai thực hiện từ
giữa tháng 1/2003 đến hết năm 2004 với tổng kinh phí 650 triệu đồng.
Nguồn: Lao Động, số 44, 13/2/2003
Xử lý nước thải các làng nghề bằng lau sậy
Lau sậy là loài cây có thể sống trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất.
Hệ sinh vật xung quanh rễ của chúng vô cùng phong phú, có thể phân hủy chất hữu cơ
và hấp thụ kim loại nặng trong nhiều loại nước thải khác nhau, như các loại nước thải
làng nghề.
Phương pháp dùng lau sậy để xử lý nước thải do Giáo sư Kathe Seidel người Đức
đưa ra từ những năm 60 của thế kỷ 20. Khi nghiên cứu khả năng phân hủy các chất
hữu cơ của cây cối, ông nhận thấy điểm mạnh của phương pháp này chính là tác dụng
đồng thời giữa rễ, cây và các vi sinh vật tập trung quanh rễ. Trong đó, loại cây có
nhiều ưu điểm nhất là lau sậy. Không như các cây khác ti
ếp nhận ôxy không khí qua
khe hở trong đất và rễ, lau sậy có một cơ cấu chuyển ôxy ở bên trong từ trên ngọn cho
tới tận rễ. Quá trình này cũng diễn ra trong giai đoạn tạm ngừng sinh trưởng của cây.
Như vậy, rễ và toàn bộ cây lau sậy có thể sống trong những điều kiện thời tiết khắc
nghiệt nhất. Ôxy được rễ thải vào khu vực xung quanh và được vi sinh vật sử dụng cho
quá trình phân h
ủy hoá học. Ước tính, số lượng vi khuẩn trong đất quanh rễ loại cây
này có thể nhiều như số vi khuẩn trong các bể hiếu khí kỹ thuật, đồng thời phong phú
hơn về chủng loại từ 10 đến 100 lần.
Chính vì vậy, các cánh đồng lau sậy có thể xử lý được nhiều loại nước thải có chất
độc hại khác nhau và nồng độ ô nhiễm lớn. Hiệu quả xử lý nước thải sinh ho
ạt (với các
thông số như amoni, nitrat, phosphát, BOD
5
, COD, colifom) đạt tỷ lệ phân hủy 92-
95%. Còn đối với nước thải công nghiệp có chứa kim loại thì hiệu quả xử lý COD,
BOD
5
, crom, đồng, nhôm, sắt, chì, kẽm đạt 90-100%.
Theo Vụ Khoa học- Công nghệ, Bộ Xây dựng, nước ta hiện có khoảng 1.450 làng
nghề truyền thống, tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ, với các nghề như chế biến
sản phẩm nông nghiệp (làm bún, miến, nấu rượu, chế biến thịt gia súc, gia cầm); sản
xuất, tái chế giấy, sắt, nhựa, hoá chất; sản xuất đồ g
ốm, mộc, kim khí,v.v… Tại nhiều
làng nghề, nước thải đang là nguy cơ lớn gây ô nhiễm nước mặt, làm phát sinh nhiều
mầm bệnh nguy hiểm Nước thải không được xử lý mà xả thẳng ra sông, hồ, kênh,
mương hay đất bỏ hoang của làng.
Việt Nam là nước nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm, rất thích nghi cho sự phát triển của
các loại lau sậy. Mặt khác ở các làng, diện tích đất nông nghiệp bị bỏ hoang cũng còn
khá lớn. Do vậy, việc áp dụng phương pháp xử lý nước thải bằng lau sậy sẽ rất hiệu
quả. Lợi dụng các vùng đất bỏ hoang chia làm nhiều ô, diện tích mỗi ô khoảng 0,4 ha
và có cấu tạo gồm: trên cùng là lau sậy được trồng với mật độ 20 cây/m
2
trên lớp đất
và phân. Lớp tiếp theo là cát 0,1 mét, rồi đến lớp sỏi cỡ lớn dày 0,55 m và sỏi nhỏ 0,25
m. ở độ sâu 0,7 m, cứ cách 10 m đặt các ống thoát nước đường kính 100 mm. Tải
trọng lọc trên cánh đồng lau sậy đạt 750 m
3
/ha/ngày.
Quy trình hoạt động: nước thải tập trung từ bồn chứa được bơm vào bãi thấm qua
“bộ lọc” là tấm thảm rễ lau sậy, sau đó tiếp tục thấm qua các lớp vật liệu lọc, rồi chảy
xuống các ống thoát nằm phía dưới và thải ra tự nhiên. Nước sau xử lý đạt tiêu chuẩn
loại B. Độ pH và các chỉ số sinh hóa ổn định cho phép vi sinh vật hoạt động bình
thường, riêng chấ
t rắn lơ lửng đạt loại A (50mg/l).
Nguồn:
Khoa học và Đời sống, 3/3/2003
Thức ăn có cá cắt giảm lượng metan từ chăn nuôi
Theo công trình nghiên cứu mới đây, bổ sung một chút dầu cá vào thức ăn gia súc có thể
giúp nông dân hạn chế các khí nhà kính phát thải từ các trại chăn nuôi. Thay đổi thành phần
thức ăn gia súc từ chế độ ăn bình thường sang chế độ ăn có bổ sung chất cá sẽ cắt giảm 1/2
lượng phát thải metan.
Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ, phát thải metan từ các trại chăn nuôi gia súc
chiếm khoảng 22% tổng lượng phát thải metan khí nhà kính trên toàn cầu. Về khối lượng,
metan giữ nhiệt nhiều hơn các CO
2
gần 20 lần, góp phần chủ yếu gây nóng lên toàn cầu.
Veerle Fievez và các nhà nghiên cứu thuộc đại học Ghent, Bỉ đã đo hiệu quả tiềm tàng
của việc bổ sung dầu cá vào thức ăn gia súc bằng cách trộn dầu cá với chất lưu lấy từ phần
trước dạ dày ngựa. Thông thường, khuẩn trong chất lưu sẽ phân huỷ thức ăn, rồi giải phóng
metan. Tuy nhiên, Fiewez phát hiện, nếu bổ sung khoảng 4% d
ầu cá đã cắt giảm 80% lượng
metan do vi khuẩn tạo ra.
Khi cho cừu ăn dầu cá, thì hiệu quả không nhiều, song lượng metan mà gia súc thải ra
vẫn ở mức từ 25 đến 40%. Theo Fiever, thì dầu cá có khả năng rất lớn làm giảm phát thải
metan từ chăn nuôi gia súc.
Điều quan trọng là nhóm nghiên cứu đã phát hiện việc bổ sung dầu cá không gây rối loạn
quá trình tiêu hóa bình thường. Đây là vấn đề thường gặp phải trước
đây khi cho gia súc ăn
thức ăn có dầu để kiềm chế quá trình phát sinh metan.
Fiever và nhóm nghiên cứu cho rằng dầu cá còn có thể tạo ra nhiều lợi ích khác. Khi
kiểm tra bề mặt dạ dày của cừu nuôi theo chế độ ăn mới, nhóm nghiên cứu phát hiện thấy axít
béo -omega 3 và mỡ chưa bão hoà, giàu hơn mức bình thường, có thể giúp giảm cholesterol.
Nhóm nghiên cứu còn hy vọng, thịt và sản phẩm khác của các động vật được nuôi bằng thức
ăn có dầ
u cá, sẽ có các tỷ lệ mỡ “ tốt” cao hơn và bổ hơn.
Do một số đàn cá đang bị cạn kiệt nghiêm trọng, theo Fievez, có thể chiết xuất dầu chủ
yếu từ tảo hoặc từ các động vật giáp xác có nhiều dầu hơn cả cá, gọi là bộ chân kiếm.
Một vấn đề nhóm nghiên cứu quan tâm đến là các sản phẩm thịt và sữa có thể có mùi
tanh của cá, vì vậy họ
đã có kế hoạch nghiên cứu mức axít béo trong thịt và sữa.
Nguồn: New Scientist, 13 Mar. 03
Công nghệ sạch sản xuất axit sunphuric
Nhà máy Supe Lâm Thao đã cải tiến một công nghệ cũ của Liên Xô thành dây chuyền
sản xuất axit sunphuric (H
2
SO
4)
mới bằng việc thay đổi tỷ lệ nguyên liệu, kết hợp với cải tiến
các công nghệ đốt lò, tận dụng được nguyên liệu pyrit trong nước và giảm triệt để chất thải
gây ô nhiễm như khói, bụi, SO
2
và axít. Công trình này đã đoạt giải nhất trong lĩnh vực Công
nghệ bảo vệ môi trường, Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ Việt Nam năm 2002.
Từ năm 1985, nhà máy đưa vào vận hành dây chuyền sản xuất axit sunfuric số 2 theo
thiết kế của Liên Xô trước đây. Dây chuyền này sử dụng loại lò phi tiêu chuẩn KC-150, đốt
nguyên liệu là pyrit nguyên khai của Liên Xô hoặc Trung Quốc. Nhưng do không có loại
nguyên liệu trên, nhà máy đã phải chuyển sang dùng quặ
ng pyrit của công ty Giáp Lai, Việt
Nam. Với loại nguyên liệu mới, dây chuyền không vận hành được vì không phù hợp thiết kế
và lượng xỉ thải quá nhiều gây ô nhiễm môi trường khu vực.
Những năm sau đó, nhà máy đã hai lần thử chuyển đổi nguyên liệu mới, là quặng pyrit
nhập từ Anbani, rồi đến lưu huỳnh hoá lỏng nhập khẩu. Mỗi lần thay thế, tuy dây chuyền đã
tăng được sản lượ
ng, nhưng vẫn chỉ bằng hoặc hơn nửa công suất thiết kế. Điều đáng nói là
tổn thất axit và khí SO
2
quá lớn, quy ra axit sunfuric nguyên chất là 12-14 tấn/ngày đêm.
Lượng chất thải khổng lồ này đã gây ô nhiễm nặng khu dân cư xung quanh và ăn mòn chính
các thiết bị trong nhà máy, ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động. Ước tính, nếu chỉ dùng
vôi để trung hoà toàn bộ số axit này thì phải cần tới 3.500 tấn mỗi năm, tương đương với 1,3
tỷ đồng. Sản xuất luôn gián đoạn vì phải dừng xưởng để xử lý sự cố. Một thực tế khác là nhà
máy phải nhập khẩu toàn bộ nguyên liệu, mà không sử dụng được nguồ
n pyrit trong nước.
Trước tình hình này, các kỹ sư của công ty đã đề xuất phương án- phối trộn lưu huỳnh
hoá lỏng nhập khẩu với pyrit của công ty Giáp Lai trong nước. Đây là một giải pháp công
nghệ chưa từng có (trên thế giới hiện thịnh hành hai loại công nghệ sản xuất axít sunfuric:
hoặc chỉ đốt pyrit hoặc chỉ đốt lưu huỳnh trong lò tiêu chuẩn), trong khi dây chuyền sản xuất
số 2 củ
a nhà máy sử dụng lò phi tiêu chuẩn và nguyên liệu hỗn hợp.
Để thực hiện giải pháp này, nhóm đã nghiên cứu, tổ chức lắp đặt hệ thống thiết bị trộn
pyrit với lưu huỳnh theo những tỷ lệ khác nhau, nhằm tìm ra tỷ lệ ưu việt nhất; tính toán các
thông số kỹ thuật như lưu lượng khí thổi vào lò, chiều cao lớp sôi hợp lý, nhiệt độ lớp sôi,
nồng độ khí SO
2
ra khỏi lò, thay thế xúc tác,v.v…
Nhờ thay thế nguyên liệu và thực hiện cải tiến đồng bộ, từ năm 1995, dây chuyền số 2 đã
đạt sản lượng trên 360 tấn axit sunfuric/ngày, vượt công suất thiết kế 6%. Lượng SO
2
và bụi
xỉ bay ra giảm xuống tới dưới mức tiêu chuẩn và xỉ thải giảm từ 280 tấn xuống còn 80
tấn/ngày. Nhiệt độ xỉ giảm từ 150
0
C xuống còn 60
0
C, đồng thời nhà máy cũng thu hồi được
toàn bộ lượng axit phải thải bỏ trước đây. Cũng do sản xuất ổn định nên hầu như không cần
khởi động lại dây chuyền, vì vậy giảm cường độ làm việc và cải thiện môi trường cho người
lao động. Qua 7 năm ứng d ụng, từ năm 1995 đến nay, giải pháp đã làm lợi trực tiếp trên 74 tỷ
đồng, ngoài ra còn làm tăng đ
áng kể sản lượng và doanh thu nói chung của toàn công ty. Giải
pháp này có thể áp dụng được cho tất cả các doanh nghiệp sản xuất axit sunfuric có dây
chuyền công nghệ tương tự với dây chuyền của Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm
Thao. Ngoài ra, cũng có thể tận dụng nguồn pyrit nghèo hơn quặng pyrit Giáp Lai.
Nguồn: VnExpress, 18/3/2003
Đảm bảo môi sinh và chức năng của hồ điều hoà
Công ty Công viên Thống Nhất đã tiến hành làm dự án xây dựng và cải tạo công
viên Lênin, đầ
u tiên tập trung vào hạng mục tách nước thải sinh hoạt khỏi hồ Bảy Mẫu
để đảm bảo môi sinh cũng như chức năng của một hồ điều hoà.
Nước hồ bị ô nhiễm nặng
Hồ Bảy Mẫu nằm trong công viên Lênin, có diện tích 21 ha, là một trong 26 hồ
điều hoà nước mưa và nước thải của thành phố Hà Nội. Từ nhiều năm nay, hồ Bảy
Mẫu là nơi vui chơi của nhân dân thủ đô, cải thiện điều kiện vi khí hậu khu vực. Tuy
nhiên, do 3 mặt công viên đều tiếp giáp với các khu đông dân cư thuộc hai quận (Đống
Đa, Hai Bà Trưng) gồm 6 phường (Bách Khoa, Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Kim Liên,
Phương Liên, Trung Phụng) nên một số tuyến nước thải sinh hoạt đã được đổ thẳng ra
hồ mà không qua xử lý. Đó là các tuyến nước thải từ khu vực Nhà Dầu Khâm Thiên,
Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Du, Vân Hồ, đường Lê Duẩn. Trong đó có hai cửa
nước thải lớn gây ô nhiễm nhiều nhất là cống Trần Bình Trọng và cống Lê Duẩn qua
eo Quán Gió ở phía Bắc. Lưu vực thoát nước vào hồ tương
đối lớn, trong lưu vực lại
có nhiều điểm xả nước thải lớn như khu vực ga Hà Nội, khách sạn Nikko, các trạm sửa
chữa và rửa xe ô tô. Các cửa xả khác như cống Nguyễn Đình Chiểu, cống Vân Hồ do
được xây dựng sau, có ngưỡng tràn nên mức độ ô nhiễm ít hơn. Tổng lượng nước thải
xả vào hồ Bảy Mẫu về mùa khô dao động từ 8.500 – 10.000 m
3
/ngày. Về mùa mưa,
nước thải được pha trộn với nước mưa đầu mùa (còn gọi là nước mưa rửa cống) chảy
vào hồ, mặc dù trên đường Lê Duẩn đã có tuyến cống thoát nước mưa nhưng tuyến
này vẫn chưa được nối với cống ở đường Đại Cổ Việt, nên nước thải và nước mưa
khu vực vẫn đổ vào hồ. Bùn cặn trong nước thải, nước mư
a chảy tràn lắng đọng vào
đầu hồ làm giảm dung tích chứa của hồ, tăng lượng chất hữu cơ và các chất ô nhiễm
khác trong hồ. Đó là một trong những nguyên nhân làm giảm độ sâu của hồ. Sau đợt
nạo vét hồ năm 1992, chiều sâu trung bình của hồ là 3,0 m, đến nay độ sâu trung bình
của hồ chỉ còn 2,5 m, ở vùng đầu hồ từ 0,5-1,0 m. Qua khảo sát, phân tích nước hồ
Bảy Mẫu, Trung tâm Kỹ thuật Môi trường
Đô thị và Khu công nghiệp đã khẳng định:
các chỉ tiêu COD, BOD đều có giá trị lớn hơn các quy định cho phép. Tại vùng đầu hồ,
hàm lượng dầu lớn, cản trở quá trình quang hợp và hoà tan oxy. Hàm lượng nitơ amoni
(NH
4
) trong nước hồ lớn, hồ bị phú dưỡng nên màu nước xanh thẫm. Bùn cặn tích tụ
nhiều, hàm lượng sunphua (S
2
) lớn, ở phía cuối hồ hàm lượng chì và cadmi tăng. So
sánh kết quả phân tích với TCVN 6774: 2000 về chất lượng nước ngọt, bảo vệ đời
sống thủy sinh và chất lượng nước mặt loại B theo TCVN 5942-1995 cho thấy: Nước
hồ Bảy Mẫu đang bị ô nhiễm nặng, trong nước có hàm lượng hydro sunphua (H
2
S)
cao, lượng oxy trong nước rất ít nên đã nhiều lần xảy ra hiện tượng cá chết hàng loạt,
ảnh hưởng đến môi sinh của hồ.
Tách nước thải bằng hệ thống cống mới:
Mục tiêu khi xây dựng dự án của Công ty Công viên Thống Nhất là sẽ tách nước
mưa đợt đầu bằng hệ thống cống quanh công viên. Đây là hệ thống cống được xây
dựng mới hoàn toàn, sẽ tập trung dồn nước thải vào những hố ga lớn, đi dọc theo
đường Trần Nhân Tông, Nguyễn Đình Chiểu và đổ vào cống thải của hệ thống thoát
nước thành phố. Tại một số cử
a xả sẽ được đặt một số ngưỡng tràn để nước mưa sạch
vẫn có thể tràn vào hồ, còn chất thải lắng xuống và chảy vào hệ thống cống thoát nước
với mục đích đảm bảo hồ Bảy Mẫu luôn là hồ điều hoà nước mưa của thành phố mà
vẫn không gây ô nhiễm. Song, một khó khăn là vào mùa khô, lượng nước bốc hơi bề
mặt c
ủa hồ rất lớn, trong khi đó lại không có nước bổ sung cho hồ. Để khắc phục tình
trạng này, hai cửa xả nước phía Nam là cống Bách Khoa và Nam Khang sẽ được cải
tạo lại. Cống Nam Khang trước đây chỉ là một hố giữ nước thủ công, sau khi được cải
tạo với hệ thống van sẽ đảm bảo giữ được nước vào mùa khô cho hồ. Do đây là một hồ
lớn nên quá trình xử
lý tách nước cũng phức tạp và khó khăn hơn những hồ điều hoà
khác. Cùng với các dự án xây dựng tường rào, đường dạo, tiểu cảnh, đài phun nước,
dự án tách nước thải sinh hoạt khỏi hồ Bảy Mẫu sẽ được hoàn thành trong năm 2003.
Nguồn: Lao động, 7/4/2003
Các nhà hoá học Đại học Cornell phát hiện phương pháp tạo ra chất dẻo dễ
bị vi khuẩn phân huỷ
Mục tiêu khoa h
ọc lâu dài là tìm ra một phương pháp kinh tế để sản xuất polyester,
thông thường tạo ra nhiều loại vi khuẩn đưa vào chất dẻo để sử dụng trong phạm vi
bao gói các thiết bị sinh y. Thí dụ, Polymer là chất dẻo “xanh” dễ bị vi sinh vật phá
huỷ.
Georges Coates, giáo sư về hoá học và hoá sinh, Đại học Cornell, Ithaca, New
York đã thực hiện được một phần mục tiêu trên, tìm ra phương pháp tổng hợp polymer
bằng phương pháp hóa học có hiệu quả cao, chẳng hạn như poly (beta-
hydroxybutyrate) hay PHB. Polyester có nhiều trong thiên nhiên, nhất là trong một số
loại vi khuẩn, ở đó nó được hình thành như các chất lắng nội tế bào, làm nơi trữ
cacbon và năng lượng. Ngoài ra, polyester còn có các tính chất cơ lý của
polypropylene trong dầu thô, có khả năng phân huỷ sinh học.
Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu về PHB của Coates tại Hội nghị quốc gia lần
thứ 225 , hội Hoá chất Hoa Kỳ
ở New Orleans vào tháng 3/2003: Hiện nay, PHB được
sản xuất thông qua qui trình xử lý sinh học lên men đường tiêu tốn nhiều năng lượng,
tốn kém Tuy nhiên, lộ trình hoá học của nhóm Coates nếu được hoàn thiện “sẽ là một
chiến lược cạnh tranh”.
Để tổng hợp polyester, trước tiên cần có monomer, trong trường hợp này, lactone
còn được gọi là beta-butyrolactone. Lactone phản ứng với chất xúc tác của hợp chất
kẽm, do Coates tìm ra vào cuối những năm 1990, dùng để sản xuất PHB.
Nhóm Coates
đã phải đương đầu với một vấn đề, đó là beta-butyrolactone chính là
một phân tử “ dạng bàn tay”, và có 2 ảnh gương, giống như những bàn tay. Polyester
được tạo ra từ hỗn hợp của 2 dạng bàn tay có đặc tính rất kém. Các nhà nghiên cứu
đang tập trung vào phát triển một chất xúc tác mới để sản xuất beta-butyrolactone dạng
bàn tay đơn theo mong muốn, được gọi là quy trình thấm các bon.
Chất xúc tác mới dựa trên cơ sở coban và nhôm, dễ dàng bổ sung cacbon monoxit
vào propyline oxít, một hợp chất vòng rẻ tiền được gọi là expoxit. Bằng việc sử dụng
dạng sẵn có của propylene oxit trong phản ứng, sẽ nhanh chóng thu được dạng bàn tay
tương xứng của lactone.
Coates tin rằng “qui trình thấm các bon và qui trình trùng hợp là chủ trương tốt
nhất. Lộ trình hoá học hoàn toàn liên quan tới polymer xuất hiện trong tự nhiên, dễ bị
vi sinh vật phân huỷ là điều mong muốn”.
Các thành viên nhóm nghiên cứu của Coates gồm: Yutan Getzler, Lee Rieth và
Vinod Kundnami, và nghiên cứu sinh Joseph Schmitdt. Công tác nghiên c
ứu còn được
sự hỗ trợ của Quỹ Khoa học Quốc gia, Quỹ Arnold và Mabel Beckman, Quỹ David và
Lucile Packard, Trung tâm Công nghệ sinh học Nano ở Cornell và Trung tâm Nghiên
cứu Vật liệu Cornell.
Nguồn: Science, 3/2003
Xe ô tô điện không gây tiếng ồn
Năm 1989, khi Ấn Độ ngăn cản nhập hàng hoá, gồm các sản phẩm dầu mỏ thì
Nepal buộc phải suy nghĩ về các phương thức cung cấp năng lượng thay thế hơn là chỉ
phụ thuộc vào nhiên liệu hoá thạch nhập khẩu. Sau đó, một số kỹ sư sáng chế của
Nepal, thuộc Nhóm phát triển xe chạy điện (EVDG) đã chuyển đổ
i ô tô động cơ diezen
thành ô tô điện. Đó là loại xe ô tô điện (EV) đầu tiên được phát triển ở Vương quốc
này. Sau một thời gian, EV được phát triển nhanh và trở thành động lực khi được Viện
tài nguyên toàn cầu (GRI) rất quan tâm tới hình thức giao thông này. Trong khuôn khổ
Chương trình giao thông vận tải chạy điện. GRI và các doanh nghiệp tư nhân đã có
những nỗ lực đáng kể để phát triển sản xuất EV như m
ột ngành thương mại vững chắc.
Do đó, hiện nay đã có hơn 600 xe ba bánh Safa Tempos chạy bằng điện trên các phố ở
thung lũng Kathmandu. Những xe này hàng ngày phục vụ hơn 120 000 hành khách đi
vé tháng và hàng trăm chủ xe EV tham gia kinh doanh lĩnh vực này. Khu vực tư nhân
đã đầu tư hơn 450 triệu rupi vào ngành này và các loại xe này đang được giới thiệu để
sử dụng ở các thành phố khác.
Nếu chúng ta đề cập tới các mặt tích cực của các EV thì có nhiều việc phải làm
nữa về kinh tế, môi trường và tính bền vững lâu dài của đất nước. Những số li
ệu gần
đây cho thấy, hàng năm đất nước này phải nhập khẩu khoảng 60 000 kilôlit dầu mỏ,
333 000 kilôlit diezen và hơn 325 000 kilôlit xăng. Hơn nữa, mức tiêu thụ nhiên liệu
hoá thạch tăng hàng năm tới 13%, và vào những năm tới chắc chắn sẽ tiếp tục tăng.
Tổng số tiền nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch sẽ lên tới 18,4 tỷ rupi Nepal. Vì vậy, nếu
khuyến khích sử dụng EV chạ
y bằng thuỷ điện sản xuất trong nước thì có thể giảm
thiểu được khoản tiền khổng lồ này cũng như khoản ngoại tệ thất thoát.
Xe động cơ điện có mức phát tán zero sẽ đem lại lợi ích lớn đối với một thành phố
ô nhiễm như Kathmandu, nơi không khí ngày càng bẩn hơn vì số lượng xe cộ và phát
tán ô nhiễm tăng lên. Các nghiên cứu đã chứng minh rõ b
ụi hô hấp trong môi trường ở
Kathmandu, nhất là bụi có kích thước dưới 10 micron (PM10) và tổng lượng các hạt lơ
lửng (TSP) đã vượt qua giới hạn an toàn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vào
khoảng 3-4 lần. PM10 là nguyên nhân của các bệnh hô hấp như viêm phế quản và hen
suyễn. Năm 1996, một nghiên cứu do WB tiến hành đã ước tính, PM10 ở thung lũng
Kathmandu là nguyên nhân duy nhất gây ra 18.863 ca hen suyễn và 4.847 ca viêm phế
quản ở trẻ em. Hiện nay, mứ
c PM10 trong không khí tăng lên, kèm theo số người bị ô
nhiễm ngày càng nhiều, số liệu về các bệnh đường không khí có thể còn cao hơn
nhiều.
Tương tự, một nghiên cứu gần đây của Bộ Dân số và Môi trường (MPE) cho thấy,
benzen là chất gây ô nhiễm không khí chủ yếu. Mức trung bình hàng tuần của nồng độ
benzen trong môi trường ở Putalisadak, khu vực giao thông mật độ cao lên tới 77
micron. g/m
3
. Benzen được biết là chất gây ung thư cho người và khuyến nghị đây là
mức tiếp xúc không an toàn. Nguồn phát tán benzen chủ yếu trong không khí ở
Kathmandu là từ các xe cộ sử dụng xăng chứa hàm lượng benzen cao. Do đó, sử dụng
EV giúp giảm dần nhiên liệu hoá thạch, tác nhân gây ra những vấn đề nan giải về ô
nhiễm không khí, vì EV không phát tán bất kỳ chất ô nhiễm không khí nào.
Các EV còn là một biện pháp chính để tận dụng nguồn thuỷ điện d
ồi dào. Đây là
một điều hết sức ngạc nhiên, vì đã có một lượng ngoại tệ khổng lồ để nhập nhiên liệu
hoá thạch, trong lúc nguồn điện thì đang thừa. Ấn Độ đang có ý định xuất khẩu lượng
điện dư thừa, tuy nhiên, đây không phải là giải pháp tốt vì giá điện ở ấn Độ đang rất
thấp. Hơn nữa, Sufa tempos s
ử dụng điện ngoài giờ cao điểm để xạc ácquy. Về đêm,
khi nhu cầu về điện rất thấp so với ban ngày. Vì vậy, Safa tempos thực tế đã tận dụng
điện ngoài giờ cao điểm để dùng vào những giờ cao điểm.
Các EV được sử dụng ở Ấn Độ thích hợp hơn những xe chạy bằng nhiên liệu hoá
thạch, song thật đáng ng
ạc nhiên là hiện nay, việc sản xuất các EV đã bị ngừng lại.
Nếu xem xét các kế hoạch 5 năm của Ấn Độ thấy các kế hoạch này luôn khuyến khích
phát triển các EV. Từ kế hoạch 5 năm lần thứ sáu mãi đến kế hoạch 5 năm lần thứ 9
mới hoàn thành đưa các EV ưu tiên trong ngành giao thông vận tải (GTVT). Tương tự,
chính sách GTVT quốc gia đã nêu rõ, các xe động cơ điện thân thiện môi trường sẽ
được khuyến khích. Song đến khi hành động, thì những chính sách này thường bị ngăn
cản. Các xe chạy điện ở Kathmandu không được phép đăng ký và không được phép sử
dụng trên đường vành đai, vì thung lũng đã quá tải. Tuy nhiên, cũng trong thời gian
đó, hàng trăm xe diezen vẫn chạy trên các đường phố. Những xe EV bốn bánh đời mới
có thể trở thành hình thức GTVT tương lai đang chứa đầy trong các gara chưa được
Chính phủ cho phép chạy thử trong giai đoạn 6 tháng. Tương tự, hiện nay chính phủ
đang tăng thuế nhập khẩu xe chạy điện, trong khi đó lại trợ giá cho nhập khẩu diezen
và khí hoá lỏng (LPG). Do tăng thuế, nên 5 ô tô điện đã bị nằm tại Cơ quan hải quan
Birgun.
Hiện nay, các EV vẫn không được thừa nhận như một phương tiện GTVT thay thế
ưu việt hơn, cho dù các chính sách nhà nước đã ưu tiên hình thức này, và việc phát
triển EV lại không trở thành động lực thúc đẩy trong giai đoạn ban đầu. Nguyên nhân
trước tiên là, không có các chính sách ưu đãi đối với EV. Muốn có được các chính
sách trọng tâm về EV, phả
i có nhiều hình thức EV để đảm bảo vận chuyển được hết
các hành khách đi vé tháng. Tuy nhiên, cần có biện pháp ngăn cấm nhập khẩu nhiên
liệu hoá thạch chặt chẽ hơn thì mới hy vọng phát triển nhiều EV hơn.
Nguồn: The Kathmandu Post, 3/2003
Quy trình mới tái chế nhựa được triển khai
Hiện nay, nhựa có ở mọi nơi, song các kỹ thuật hiện nay chỉ cho phép tái chế một
phần rất nhỏ sau quá trình sử dụng ban đầu. Các nhà nghiên cứu của Cơ quan Kỹ thuật
Hoá học, đại học bang North Carolina đang nghiên cứu triển khai một quy trình tái chế
duy nhất cho một số loại polyme phổ biến nhất.
Chai đựng soda thông thường được sản xuấ
t từ nhựa polyethylene terephthalate
(PET). Các chai này có ở khắp nơi, song việc tái chế chúng lại đặt ra các thách thức,
chủ yếu là do chứa các chất ô nhiễm và các chất bẩn khác. Các nhà nghiên cứu đang
tiến hành một dự án được thiết kế để giải quyết vấn đề này. Các nhà nghiên cứu cho
biết họ đang cố gắng triển khai quy trình tách chất thải polime và biến chúng thành
dạng nguyên liệu mà chính từ đó để sản xuất chai PET. Trong quy trình này, tấ
t cả các
chất bẩn được tách ra khỏi polime. Trong lý tưởng, thì công việc này có thể được thực
hiện theo một biện pháp đ ơn giản do nền kinh tế phải tạo ra khả năng xử lý được ứng
dụng rộng rãi.
Quy trình này có hai yếu tố duy nhất, thứ nhất quy trình được chạy trên một máy
đùn nhựa trục vít kép với mức nạp liệu lớn. Một lượng lớn polyme có thể được x
ử lý
trong một khoảng thời gian rất ngắn. Máy có khả năng nấu chảy PET và tạo ra các
màng rất mỏng, như vậy các nhà khoa học có thể hòa trộn các polime có trọng lượng
phân tử lớn với các vật liệu khác, hoặc là ethylene glycol hay methanol, có tác dụng
giảm trọng lượng phân tử của polyme một cách bền vững. Thứ hai, CO
2
siêu tới hạn
được kết hợp với ethylene glycol hoặc methanol, để giảm độ dẻo hoặc đ ộ cứng của
polime, làm quá trình xử l ý dễ dàng và tiếp xúc tốt hơn giữa các loại vật liệu. Cuối
quy trình xử lý, CO
2
được thoát ra qua máy đùn, để loại bỏ các chất bẩn hòa tan. Sau
đó CO
2
sẽ được tái chế. tailor
Quy trình này có một số ưu điểm. Quá trình chuyển đổi được thực hiện trong các
điều kiện xử lý phù hợp và chỉ gồm một công đoạn với quy trình thân thiện với môi
trường. Ngoài ta, quy trình có thể còn “chắp nối” các vật liệu có các trọng lượng phân
tử khác nhau.
Một máy đùn nhựa trục vít đơn đã được sử dụng thành công trong phòng thí
nghiệm của trường đại học. Hiện nay nhóm nghiên cứu đang tìm kiếm các ph ương
pháp đ ể tạo ra quy trình xử l ý khả thi về mặt kinh tế để vận hành ở quy mô công
nghiệp. Người ta đã xác định được phản ứng cơ bản của ethylene glycol với polymer
Song dữ liệu ban đầu của các nhà khoa học cho thấy phản
ứng tăng cường này
diễn ra theo một số giai đoạn có cường độ nhanh hơn khi phản ứng diễn ra trong thiết
bị đùn nhựa với CO2 siêu tới hạn so với quy trình truyền thống và có chi phí thấp hơn.
Các nhà khoa học cũng cho biết, máy đùn nhựa trục vít kép rất phổ biến ở tại
công xưởng, do vậy các máy này có thể được tái định hình để sử dụng CO
2
siêu tới
hạn. Trước tiên, các nhóm nghiên cứu cần xác định những thay đổi về lưu lượng dòng
polime, lượng CO2, ethylene glycol hay methanol; nhiệt độ, áp CO
2
; cấu hình máy có
ảnh hưởng đến quy trình như thế nào.
Theo các nhà khoa học, thì các máy đùn nhựa trên thị trường chưa bao giờ được sử
dụng cho mục đích này, song có thể thay đổi chúng để phù hợp với quy trình tái chế.
Một phần trong nghiên cứu của các nhà khoa học bao gồm cả định hình các máy hiện
nay như vậy có thể tạo ra hiệu suất tối ưu
Nguồn: Earthvision, 4/2003
Cacbon dioxit – chất làm lạnh tương lai
Tiềm năng to lớn để làm đông lạnh hải sản như tôm đang rất được quan tâm trong
các nhà máy chế biến hải sản ở châu Á. Máy lạnh tiếp xúc kép được sử dụng trong
nhiều thập kỷ để làm đông lạnh tôm chất lượng cao cho các khách hàng nước ngoài,
chủ yếu là cho các thị trường Nhật Bản, châu Âu và Hoa Kỳ. Vì vậy, nhu cầu hàng
ngày về các chất làm lạnh rấ
t lớn như freon (R-22-clodiflometan) hoặc amoniac (NH
3
),
nhưng cần thiết là phải làm đông lạnh hải sản rất nhanh ở nhiệt độ thấp. Tuy nhiên,
freon chỉ được sử dụng hạn chế trong công nghiệp chế biến châu Âu và đang trong quá
trình được loại bỏ trong các nhà máy chế biến lương thực, kể cả trong các nhà máy chế
biến hải sản. Amoniac vẫn còn phổ biến và dùng nước muối trong quá trình làm lạnh
giai đoạn 2, cũng còn đang thịnh hành. Tuy nhiên, ở
nhiều khu vực đông dân, nhất là
trong các khu công nghiệp, amoniac bị cấm sử dụng. Theo các quy định và hướng dẫn
về môi trường châu Âu, thì tương lai không xa ở châu Âu, trong số các chất làm lạnh
hiện nay, cacbon dioxit (CO
2
) sẽ không được sử dụng. CO
2
và NH
3
chắc sẽ là các chất
thay thế freon tốt nhất về các mặt chú ý tới môi trường, tính năng kỹ thuật và lợi ích
kinh tế, khi ứng dụng chế độ đông lạnh ở nhiệt độ thấp. Sau khi cân nhắc các khía
cạnh này, DSI (A/S Dybvad Staal, Industri), nhà sản xuất máy lạnh tiếp xúc kép ở Đan
Mạch đã nghiên cứu kỹ khả năng phát hiện chất làm lạnh thay thế nhanh an toàn và
chi phí ít hơn cho các xí nghiệp chế biến h
ải sản trên thế giới. Sử dụng chất làm lạnh
CO
2
để phát triển hệ thống làm lạnh khá thành công. Do đó, phát triển máy lạnh cực
tiếp xúc kép rất phù hợp để làm đông lạnh tại chỗ ngay trên tàu đánh lưới rê, trên bãi
cá hoặc trong xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm. Phát hiện chất làm lạnh thay
thế không mất nhiều thời gian vì chất làm lạnh CO
2
là chất làm lạnh đang sử dụng và
lâu đời nhất thế giới.
Tháng 8/2001, York Marine đã tiến hành thử nghiệm dùng CO
2
trong tủ lạnh ngăn
đứng của Samifi trước đây cho các khách hàng ưa chuộng kiểu ngăn đứng và các máy
lạnh tấm ngang. Do đó, đã đặt sản xuất 11 đơn vị máy lạnh tấm đứng tự động, kiểu
DSIV 20 dùng chất làm lạnh CO
2
. Sau một năm nghiên cứu,
Medio 2001
, tổ chức đặc
trách cấp giấy chứng nhận sáng chế, đã chấp thuận đề nghị DSI Đan Mạch về các máy
làm lạnh tấm đứng và ngang thao tác thủ công, dùng chất làm lạnh CO
2.
Những ưu điểm đáng chú ý của chất làm lạnh CO
2
:
• Khả năng làm lạnh lớn hơn
• Giảm thời gian đông lạnh tới 25%
• Chu kỳ sản xuất /ngày làm việc nhiều hơn
• Khối lượng chất làm lạnh trong máy lạnh nhỏ hơn
• Chi phí sản xuất/ngày làm việc rẻ hơn do năng lượng tiêu thụ thấp
• Rủi ro lao động thấp hơn so với dùng amoniac
• An toàn lao động cao hơn so vớ
i amoniac
• Thân thiện môi trường hơn freon
• CO
2
không bắt cháy và có thể sử dụng để cứu hoả
• Kích thước đầu toả nhiệt của máy lạnh nhỏ hơn
• Hiệu năng máy lạnh (COP) tốt hơn so với amoniac và freon
Dùng chất làm lạnh CO
2
để bảo quản hải sản lạnh rất nhanh ở nhiệt độ thấp, đảm
bảo chất lượng sản phẩm tốt hơn, đồng thời mang lại thu nhập cao cho người xử lý.
Chi phí vận hành làm lạnh có thể giảm xuống. Cần lưu ý rằng, 1kg freon có trị số năng
lượng nóng lên toàn cầu rất lớn, tới 1700 so với CO
2
chỉ là 1. Chi phí sử dụng CO
2
rẻ
hơn so với chi phí freon và amoniac. Nếu sử dụng CO
2
có “chất lượng công nghiệp”
thì chi phí còn thấp hơn nữa.
Dựa vào những ưu điểm nêu trên, CO
2
sẽ được chọn là chất làm lạnh tương lai
cho các thiết bị lạnh hiện hành hoặc đưa vào kế hoạch sản xuất các thiết bị sử dụng các
máy lạnh lạnh tiếp xúc làm lạnh thực phẩm.
Nguồn: Infofish International, 4/2002
Ống cốt sợi thủy tinh - công nghệ cấp thoát nước mới
Ngày 4/7/2003, Công ty Mai Động (Sở Công nghiệp Hà Nội) đã tổ chức Hội nghị
giới thiệu công nghệ sản xuất ống cốt sợi thủy tinh dùng trong hệ thống cấp thoát
nước. Công nghệ này đã phổ biến ở Châu Âu từ giữa những năm 80, hiện đang phát
triển mạnh tại các nước Trung Đông, Nh
ật Bản và Trung Quốc do độ bền cao, không
độc hại, thiết kế linh hoạt, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế lâu dài. Hiện nay, Công
ty đã lên phương án liên doanh với công nghệ của Đức, dự kiến sẽ xây dựng nhà máy
ống cốt sợi thủy tinh tại khu vực Nhà máy đúc Mai Lâm với tổng diện tích khoảng 5
ha. Công ty đã trình UBND Thành phố Hà Nội phê duyệt dự án và hy vọng trong
tháng 7 /2003 sẽ xúc tiến được hợp đồng liên doanh và l
ựa chọn xong phương án xây
dựng nhà máy.
Nguồn: Hà Nội Mới, 4/7/2003
Xử lý nước nhiễm phèn
Hiện nay, có hơn 1/2 diện tích vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bị nhiễm
phèn nặng. Đặc tính của nước nhiễm phèn là độ pH thấp nên nước rất chua, chứa nhiều
nhôm, sắt, mangan, sulphate không tốt cho sức khỏe con người. Nước sinh hoạt của
những người dân nơi đây chủ yếu lấy trực tiếp từ kênh rạch không qua xử lý. Nước
uống và nấu ăn, ngoài m
ột số hộ dự trữ nước mưa, dùng giếng khoan, đa số người dân
phải đi mua nước nhưng cũng rất khó khăn với những đồng bào vùng sâu, vùng xa.
Người dân ở đây thường lắng nước lại để dùng hoặc xử lý bằng một số biện pháp đơn
giản như dùng vôi, tro nhưng nước vẫn còn chua, khi ăn uống thường bị đau bụng.
Ngoài ra, ở vùng Đ
BSCL năm nào cũng có lũ, đặc tính của nước lũ là có độ đục cao,
đồng thời có thể bị ô nhiễm các chất hữu cơ độc hại và vi sinh vật gây bệnh.
Ts. Nguyễn Bá Trinh (Viện Hoá học, Trung tâm KHTN & CN Quốc Gia) cho biết,
nguyên tắc chung để xử lý nước nhiễm phèn bằng phương pháp đơn giản là chỉnh độ
pH về trung tính, kết tủa nhôm ở dạng hydrotxit, ôxy hoá sắt II và hấp phụ hoặc kết tủa
sulphate
ở dạng muối kém tan. Ông cũng đã nghiên cứu vật liệu khử phèn DS3 và vật
liệu tăng cường phân hủy hữu cơ để xử lý nước nhiễm phèn cho hiệu quả cao. Thiết bị
xử lý nước nhiễm phèn rất đơn giản. Đối với từng hộ gia đình, chỉ cần một thùng nhựa
có dung tích từ 70-100 lít, có vòi nước. Dưới cùng rải một lớp sỏi to, sau đến một lớp
cát (15 cm–20 cm) rồi đến vật liệu khử phèn và trên cùng rải một lớp cát.
Hiện nay, Viện Hoá học đã nghiên cứu và xây dựng được trạm xử lý nước phèn,
nước lũ để cấp nước sinh hoạt quanh năm cho cụm dân cư ở ĐBSCL. Nước từ kênh
được đưa vào dự trữ trong hồ lớn, qua quá trình tự làm sạch trong hồ, nước được bơm
lên hệ thống xử lý gồm 5 bể kế
tiếp nhau. Nước sau khi khử trùng được đưa lên tháp
cao và phân phối đến nơi sử dụng qua hệ thống ống dẫn. Hệ thống xử lý này được xây
dựng thuận tiện, không chiếm nhiều diện tích, dễ vận hành. Từ quy mô xử lý nước
từng hộ gia đình, người dân ở vùng nước nhiễm phèn đã có thể yên tâm và thuận tiện
hơn nhờ những trạm cấp nước sinh hoạt cho cụm dân c
ư với công suất lớn như thế
này.
Nguồn: KH&PT, 3-9/7/2003
Chế tạo thành công lò đốt rác y tế quy mô nhỏ
Tiến sĩ Lê Thượng Mãn, Trung tâm Công nghệ mới Alpha, đã nghiên cứu thiết kế
và chế tạo thành công lò đốt rác y tế quy mô nhỏ có công suất 50 kg/ngày đêm. Thiết
bị này nhằm giúp các cơ sở y tế cấp quận, huyện, phường, bệnh xá của các công
ty,v.v tự xử lý rác thải y tế. Thiết bị cũng có thể dùng để thiêu đốt xác thú vật mang
mầm bệnh tại các Trung tâm Y tế dự phòng.
Lò hoạt động theo nguyên lý nhiệt phân và thiêu đố
t ở nhiệt độ cao để phân hủy
hoàn toàn các chất thải nguy hại, tạo thành khí CO
2
, H
2
O. Lò đốt có hai buồng đốt
gồm buồng đốt sơ cấp và buồng đốt thứ cấp. Rác thải y tế và các vật cần thiêu đốt
được đưa vào buồng đốt sơ cấp. Đầu đốt dầu hôi sẽ đốt và gia nhiệt buồng đốt sơ cấp
lên tới 400-700
o
C. Phần chất hữu cơ bay hơi chưa kịp phân hủy cùng với khí cháy
được đẩy qua buồng đốt thứ cấp. Tại đây nhờ đầu đốt dầu hôi, nhiệt độ buồng đốt thứ
cấp sẽ được nâng lên tới 900-1.100
o
C.
Nhờ nhiệt độ cao và thời gian lưu khí trong buồng đốt đủ lâu (1-2 giây), các chất
độc hại đặc biệt là dioxin, furans và PAH sẽ bị thiêu hủy hoàn toàn. Chỉ còn một lượng
nhỏ tro (từ 3-5%, chủ yếu là các ôxit kim loại hay gốm, sành, sứ trong rác) nằm lại
trên mặt ghi, khi đó được tháo ra ngoài theo chu kỳ, sau đó đem chôn lấp an toàn. Khí
thải sẽ được xả ra ngoài qua ống khói cao 6 m.
Lò đốt có vỏ lò inox, tường lò được xây bằng gạch chịu lử
a với lớp cách nhiệt
bằng bông gốm và bông đá. Nhiên liệu để đốt lò là dầu hôi với mức tiêu hao 3 lít/giờ,
thời gian đốt một mẻ là 8 giờ, công suất đốt là 16 kg rác/mẻ. Tủ điện điều khiển làm
nhiệm vụ duy trì nhiệt độ buồng đốt, tự ngưng đốt khi mở cửa cấp rác và tự động báo
lỗi khi nhiệt độ chưa đạt theo yêu cầu để tránh c
ấp tiếp rác. Thiết bị hiện đã được lắp
đặt cho một số nơi.
Nguồn:
Khoa học Phổ thông, 21/7/2003
Chất dẻo mới – cuộc cách mạng bao bì
Bao bì bằng chất dẻo sinh học của Cargill Dow là sự phát triển mới nhất về công
nghệ trong cuộc cách mạng bao bì xanh. Bao bì mới được làm từ ngũ cốc trông giống
như chất dẻo, song có thể bị vi sinh vật phân hủy hoàn toàn sau khi tiêu hủy.
Công ty Wild Oats Market là chuỗi các cửa hàng tạp phẩm đầu tiên ở Hoa Kỳ giới
thiệu sản phẩm mới bao bì xanh. Hiện nay, chỉ có thể
mua được bao bì bằng chất dẻo
sinh học trong các cửa hàng tạp phẩm ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, song
công ty Wild Oats dự kiến sẽ giới thiệu sản phẩm này tại 77 cửa hàng nữa trong cả
nước.
Để đẩy mạnh công nghệ mới, công ty Wild Oats đóng gói rau sống, món tráng
miệng và các sản phẩm ở cửa hàng bán thức ăn ngon. Hơn nữa, các cửa hàng tạp phẩm
được đề nghị thu gom các bao bì đã qua sử d
ụng và vận chuyển chúng đến nhà máy tái
chế ở Oregon. Sau đó, các bao bì sẽ được chuyển thành đất mùn (đất hữu cơ) và được
đưa tới các địa điểm dự trữ để bán lại.
“Bao bì” được làm từ chất dẻo sinh học mới do Cargill Dow LLC phát triển.
Trong vòng 14 năm, Cargill Dow đã nghiên cứu polylactide (PLA) như nguyên liệu
đáng tin cậy thay dầu truyền thống sản xuất chất dẻo. PLA được sản xuất từ quá trình
lên men đường trong bột ngũ cốc thành axit lactic; axit này được lọc và quay thành
sợi.
Ngoài các phản ứng tích cực nhận được ở Hoa Kỳ, Cargill Dow còn phát hiện thấy
số lượng khách hàng quan tâm, ca ngợi chất dẻo sinh học ở Nhật và châu Âu lớn hơn
dự kiến. Nhật đặc biệt quan tâm đến PLA dễ bị vi sinh vật phân h
ủy, bởi các vấn đề về
tiêu hủy chất thải gây ra do diện tích đất bị hạn chế. Hàng loạt các cửa hàng tạp phẩm
ở châu Âu, IPER, đã giới thiệu “bao bì” tại 21 địa điểm ở Italia. Có 1000 cửa hiệu tạp
phẩm IPER khác mong rằng cũng sớm thông báo về các sản phẩm chất dẻo sinh học.
Không chỉ có các bao bì thực phẩm, công nghệ PLA đã phát hiện thấy hàng loạt
ứng dụng. D
ự án kinh doanh chung của Cargill Dow với Công ty hoá chất Dow đã tiếp
thị thành công sự ứng dụng chất dẻo sinh học trong các sản phẩm bộ đồ giường như
đệm, gối, chăn bông và mền.
Hơn nữa, các phát thải trong sản xuất giảm từ 15-60%. Hiện tại, các chi phí cho
sản xuất loại chất dẻo sinh học lớn hơn các chi phí cho sản xuất chất dẻo truyền thống
từ 40-50%. Tuy nhiên, công ty Wild Oats và các công ty khác không có ý đị
nh bắt
người tiêu dùng phải gánh chịu chi phí này. Các nhà phân phối mong rằng, các chi phí
sản xuất sẽ giảm khi các sản phẩm chất dẻo sinh học xâm nhập vào thị trường và được
sử dụng phổ biến.
Cargill Dow rất lạc quan về PLA, dự kiến bắt đầu sản xuất hết công suất vào cuối
năm nay. Nhà máy mới của công ty ở Blair, Nebraska sẽ khuấy 40.000 tấn ngũ cốc
mỗi ngày, tạo ra khoảng 300 tri
ệu pao PLA mỗi năm. Cargill Dow hy vọng sẽ sản xuất
được 1 tỷ pao (tương đương 454.000 tấn) PLA hàng năm vào năm 2013 – tiêu thụ một
nửa số ngũ cốc được trồng ở Hoa Kỳ.
Nguồn: earthvision, 7/2003
Lò đốt sử dụng phế thải nông nghiệp
Lò đốt ga trấu do Viện Cơ điện Nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) cải tiến, thiết kế. Nó cho phép người nông dân có thể t
ận dụng được chính những
phế thải nông nghiệp vốn được xem là nguồn gây ô nhiễm thành nguồn nhiên liệu phục
vụ chế biến nông sản tại chỗ.
Sau khi xay xát lúa, ta thu được gạo, cám và trấu. Trấu chiếm khoảng 20-25%
khối lượng của thóc. Trấu là nguồn nhiên liệu và nguyên liệu được sử dụng rộng rãi,
đa dạng. Tuy nhiên, cho đến nay, nguồn năng lượng từ trấu vẫn chưa được khai thác
tri
ệt để và hiệu quả sử dụng còn thấp, trong khi nhu cầu nhiên liệu cho việc sấy, bảo
quản nông sản lại lớn, nhất là các vùng sản xuất nông sản hàng hóa. Trước tình hình
đó, nhiều kiểu lò đốt trấu đã ra đời và ứng dụng trong sản xuất, đặc biệt là khâu sấy và
bảo quản nông sản. Đáng chú ý nhất là kiểu lò đốt ga từ trấu do một số nhà khoa học
thuộc Viện C
ơ điện Nông nghiệp Việt Nam thiết kế, cải tiến từ loại lò tương tự của
Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI). TS. Chu Văn Thiện, chủ nhiệm đề tài nghiên
cứu chế tạo lò đốt ga từ trấu, cho biết, sở dĩ gọi là lò đốt ga trấu vì trong thành phần
của trấu khi bị đốt ở nhiệt độ nhất định có tạo khí như CH
4
, chất dễ cháy v.v Những
khí này khi đốt sẽ cho nhiệt lượng phục vụ cho việc sấy, bảo quản nông sản.
So với lò đốt trấu trực tiếp, lò đốt ga trấu của Viện IRRI có ưu điểm là hiệu suất
nhiệt cao hơn (80-85%), kết cấu lò đơn giản. Tuy nhiên, loại lò này còn có những
nhược điểm cần khắc phục như lửa trong lò ga trấu không ổn định, hay bị tắt đột ngột,
phải mồi nhiều lần do đó khói tỏa ra nhiều, làm ảnh hưởng tới môi trường. Không
nh
ững vậy, vách lò chóng hỏng do bị cháy, thủng hoặc biến dạng, việc tháo, xả tro lâu,
khó sạch, thời gian nạp trấu cũng kéo dài. Nguy hiểm nhất là phần cách nhiệt buồng
đốt không tốt dễ gây mất an toàn trong sử dụng. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đã quyết
định cải tiến để hoàn thiện kết cấu loại lò đốt này nhằm đáp ứng nhu cầu rất lớn về sấy
và bảo quản nông sả
n hiện nay.
Những cải tiến đầu tiên là chung quanh buồng tạo ga và ngăn chứa ga được bọc
một lớp vật liệu cách nhiệt kiên cố. Vách lò cải tiến của Viện Cơ điện Nông nghiệp
được làm bằng vật liệu phi kim loại chịu được nhiệt độ cao. Giải quyết vấn đề khói
bụi, quạt gió được lắp đặt ở vị trí hợp lý để người sử
dụng có thể điều chỉnh dễ dàng
quá trình cháy của ga. Thân buồng đốt ngay phía trên lò được tạo thêm một cửa để có
thể lấy tro ra ngay mà không làm ảnh hưởng đến ghi lò và bảo đảm vệ sinh cho ga khi
cháy ở lần kế tiếp. Tro được lấy nhanh và hết nhờ sử dụng công cụ cào, xúc và xe lấy
tro. Sát đáy của ngăn chứa ga, các nhà khoa học đã thiết kế thêm một cửa để có thể lấy
bụ
i tro sau một vài lần thay trấu.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, ngọn lửa ga trấu cháy tốt, ổn định, ga cháy hoàn
toàn, không có khói và bụi. Sau nhiều lần cải tiến, các nhà khoa học đưa ra được loại
lò dễ điều chỉnh nhiệt độ tùy theo quy trình công nghệ sấy, chi phí nhiên liệu thấp, do
đó có thể hạ giá thành sấy sản phẩm nông sản. Từ thực tế ứng dụng lò đốt ga trấu trong
sản xu
ất, để ngọn lửa ga cháy ổn định, các nhà khoa học đã chế tạo thêm một bộ phận
trợ cháy gắn ngay trên đầu thoát ga và cho ga cháy trong bầu gió trước quạt hút của
máy sấy. Hiện nay, các lò đốt ga trấu đã được sử dụng trong hai loại lò sấy thông dụng
ở đồng bằng sông Cửu Long là loại máy sấy tĩnh (máy sấy vỉ ngang), loại máy sấy
tháp (sấy liên tục có đảo ngược). Theo tính toán, năng suất của lo
ại lò đốt ga bằng trấu
là 15 tấn một mẻ với thời gian năm giờ sấy liên tục, tiêu thụ khoảng 42 kg trấu. Giá
bán một hệ thống lò như trên rẻ hơn nhiều lần so với lò đốt dầu diezen vì giá nguyên
liệu cho một hệ thống có công suất tương tự gấp hơn 10 lần, chưa tính giá đầu tư mua
thiết bị cũng đắt gấp rưỡi.
Hiện tại,
đã có 6 mẫu lò đốt ga trấu được thiết kế, cải tiến, hoàn thiện phù hợp với
từng địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh duyên hải miền Trung. Tuy
nhiên, loại lò này vẫn có nhược điểm là, chiều cao thường lớn hơn các loại khác, gây
khó khăn trong khâu xây lắp. Các nhược điểm này đang được các nhà khoa học nghiên
cứu cải tiến.
Nguồn: Nhân dân, 14/8/2003
Công nghệ mới làm sạch nước ô nhiễm
Người ta vừa chế tạo ra một hỗn hợp thực nghiệm các hoá chất cho phép xử lý
nước nhiễm bẩn ở mức cao tại nhà, với chi phí thấp. Gói hỗn hợp có thể được sử dụng
cho các nước đang phát triển, nơi có hàng nghìn trẻ em chết mỗi ngày vì bệnh ỉa chảy
do thiếu điều kiện vệ sinh và nước uống bị nhi
ễm bẩn.
Ông Stephen Luby, Trung tâm kiểm soát và phòng bệnh, Atlanta, cho biết, việc xử
lý theo phương pháp mới chuyển nước thậm chí có màu đen, mùi hôi, đầy mầm bệnh
thành nước uống sạch như phần lớn nước máy ở Hoa Kỳ. Theo ông Greg Allgood,
Viện Khoa học Y tế, Cincinnati, giá thành hoá chất vào khoảng 1cent/lít.
Người ta chỉ cần pha gói hoá chất 4 gam vào trong 10 lít nước sông hoặc nước loại
khác đựng trong lọ trong vòng 5 phút, cho đến khi bụi và các chất lơ lửng lắng xuống.
Sau
đó, lọc chất cặn lắng bằng cách đổ nước qua một mảnh vải dệt mau. 20 phút sau,
chất làm trắng chứa Clo trong nước sẽ loại bỏ các mầm bệnh.
Bước đầu tiên của phương pháp trên giống với quá trình
kết bông
được sử dụng
để loại sạch tảo và các độc tố tảo khỏi nước thải.
Ngoài ra, quá trình
kết bông
còn khử được nhiều kim loại và các chất độc khác,
tăng thêm ích lợi của phương pháp xử lý chỉ riêng với chất tẩy trắng.
Công ty Procter và Gamble, Newscasle-upon-Type, Anh, đã chế tạo ra hỗn hợp,
với tên thương phẩm PUR. Hỗn hợp làm sạch nước ô nhiễm là sản phẩm đầu tiên dành
cho người tiêu dùng ở thế giới đang phát triển.
Hỗn hợp PUR đã giảm số lượng vi khuẩn xuống còn chưa
đến một trăm phần triệu
nồng độ ban đầu, còn vi rút chưa đến 10/1000 và các ký sinh trùng chưa tới 1/1000 giá
trị ban đầu. Quá trình
kết bông
còn khử rất hiệu quả hơn 99% thạch tín xuất hiện tự
nhiên trong nước ở Bangladesh.
Allgood nhấn mạnh, nồng độ cuối cùng của các chất độc đáp ứng được các hướng
dẫn về nước uống an toàn của Tổ chức Y tế Thế giới. Hỗn hợp PUR đã khử được 95%
DDT, ít nhất 98% chì, và hơn 99% crom trong các mẫu nước
.
Luby cùng cộng sự đã thông báo trên Báo
Nước và Sức khoẻ
rằng, trong thí
nghiệm ở Guatemalan, hỗn hợp PUR đã giúp xử lý làm giảm bệnh ỉa chảy. Trong công
trình nghiên cứu không xuất bản, nhóm của Luby đã đo được sự giảm sút 40% bệnh ỉa
chảy trong các hộ gia đình được thí nghiệm trong thời kỳ 4 tháng.
Nguồn: Science News, 28/6/2003
Công nghệ xử lý nước mặn, nước tạp chất thành nước tinh khiết
Viện Khoa học vật liệu thuộc Trung tâm Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ Quốc
gia đã hoàn chỉnh công nghệ hệ thống xử lý nước mặn, nước lợ, nước chứa nhiều tạp
chất thành nước ngọt tinh khiết với giá thành bằng 1/4 giá thành thiết bị nhập ngoại
cùng loại.
Được tạo ra dựa trên nguyên lý màng lọc, ưu điểm nổi bật của thiết bị lọc nước
mới này là có thể làm việc liên tục, không có các chất thải, không cần x
ử lý nước đầu
vào, vận hành và bảo dưỡng rất đơn giản.
Thiết bị không chỉ xử lý được nước mặn, nước lợ thành nước ngọt mà nó còn xử lý
được 95% các tạp chất và các độc tố hoà tan trong nước như Asen, Nitrat. Qua kiểm
tra, nước qua hệ thống lọc có nồng độ muối giảm hơn 6 lần so với nguồn nước cấp ban
đầu, hầu hết các tạp chất có lẫn trong nước như Amonia, Nitrat, Silic, và Cacbonic
được loại bỏ. Các chất điện ly như Ag+, Ni++ và mộ
t số loại khoáng chất khác đều
được thu hồi và tái sử dụng.
Các hệ thống thiết bị lọc nước đầu tiên có công suất từ 400-500 lít/giờ đã được lắp
đặt tại các trung tâm y tế của huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá; huyện Kim Sơn, tỉnh
Ninh Bình; và huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Viện Khoa học vật liệu đang chế tạo hệ thống lọc nước nhỏ dùng trong gia đ
ình,
có công suất khoảng 20 lít/giờ nhằm phục vụ cho các địa phương chưa có điều kiện
xây dựng các trạm xử lý nước công suất lớn, đặc biệt là cho các vùng ven biển.
Nguồn: TTXVN, 19/8/2003
Xử lý lượng tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong đất trồng bằng vi sinh vật
Các nhà khoa học thuộc Bộ môn Vi sinh vật (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp Việt Nam) đã nghiên c
ứu phân lập và tuyển chọn được một số chủng vi sinh
vật (VSV) mới có khả năng phân hủy thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) tồn dư trong đất
trồng. Phương pháp này vừa đơn giản, chi phí thấp, hiệu quả cao và đặc biệt không
gây ô nhiễm trở lại đối với môi trường.
TS. Phạm Văn Toản, Trưởng bộ môn cho biết: từ lâu, các nhà khoa học trên thế
giới cũng nh
ư ở Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá ảnh hưởng của dư
lượng thuốc BVTV đối với môi trường. Đồng thời, cũng tiến hành nghiên cứu tìm ra
các giải pháp xử lý lượng tồn dư thuốc BVTV trong đất sau mỗi vụ trồng với mong
muốn hạn chế được những ảnh hưởng xấu của nó. Cho đến nay, nhiều phương pháp lý,
hóa học để xử lý lượng tồ
n dư thuốc BVTV trong đất đã và đang được tiến hành tại
Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, các biện pháp đó thường đòi hỏi chi
phí đầu tư cao, vận hành phức tạp, mặt khác thường gây ô nhiễm thứ cấp đối với
không khí và nguồn nước ngầm. Cùng với những tiến bộ vượt bậc của khoa học và
công nghệ, xu hướng xử lý lượng tồn dư thuốc BVTV trong
đất trồng bằng phương
pháp sinh học đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới và ở Việt Nam quan tâm
nghiên cứu. Với mong muốn tìm ra một biện pháp xử lý sinh học, từ năm 2001, các
nhà khoa học thuộc Bộ môn VSV đã tiến hành nghiên cứu đề tài phân lập và tuyển
chọn một số chủng VSV có khả năng phân hủy lượng tồn dư thuốc BVTV.
Theo các nhà khoa học, lượng tồn dư thuốc BVTV trong đất ch
ủ yếu thuộc hai
nhóm: nhóm Carbamat và nhóm lân hữu cơ BSM (nguồn gốc phốt phát hữu cơ).
Nguồn VSV phục vụ quá trình nghiên cứu được thu thập từ các mẫu đất ở các vùng
chuyên canh thuộc ngoại thành Hà Nội và Hà Tây, những nơi sử dụng rất nhiều thuốc
BVTV trong mỗi vụ rau. Sau đó, bằng phương pháp làm giàu đã phân lập, làm thuần
được 10 chủng VSV có khả năng sử dụng lượng tồn dư thuốc BVTV thuộ
c nhóm
Carbamat (C 1 đến C 10) và 9 chủng VSV có khả năng sử dụng nhóm lân hữu cơ BSM
(P1 đến P9) như nguồn dinh dưỡng chính. Song song với việc đánh giá khả năng sinh
trưởng và phát triển của các chủng VSV này trên môi trường dịch thể, các nhà khoa
học còn tiến hành đánh giá khả năng tồn tại của chúng trên nền đất thanh trùng có bổ
sung các loại thuốc BVTV trong phòng thí nghiệm. Kết quả cho thấy, các chủng C4,
P5 và P8 có khả năng sinh trưởng và phát triển mạnh nhất, kể cả khi bổ sung thêm hóa
chất BVTV. Quá trình thực nghiệm cho thấy, hai chủng P5 và P8 có khả năng phân
hủy tốt hoá chất BVTV thuộc nhóm lân hữu cơ với nồng độ 250 mg/kg đất. Chủng P5
làm giảm lượng thuốc BVTV thương phẩm Suprathion (Methidathion) trong đất ở điều
kiện tự nhiên tới 97,34% so với đố
i chứng (không nhiễm) là 91,02% sau 7 ngày sử
dụng; chủng P8 tương ứng là 97,06%- 87,12%. Đối với thuốc Dimethoate, chủng P5
tương ứng là 92,32%- 78,92%. Khi sử dụng chủng C4, sau 15 ngày, lượng hóa chất
BVTV Fenobucarb (nhóm Carbamat) với nồng độ 50 mg/kg đất đã giảm 59,46%; đối
chứng (không nhiễm) chỉ giảm 35,28%. Trên thực tế, quá trình phân hủy tự nhiên các
hóa chất BVTV cũng xảy ra trong đất, nhưng rất chậm. Vì vậy, khi sử dụng các chủng
VSV này thì quá trình phân hủy sẽ xảy ra nhanh h
ơn.
Có thể nói đây là biện pháp cải tạo đất trồng tốt nhất hiện nay ở nước ta vì áp dụng
quy trình xử lý sinh học, bảo vệ được môi trường. Giá thành sử dụng các chủng VSV
này để cải tạo đất cũng tương đối rẻ, khoảng 30-60 nghìn đồng/ha tùy theo nồng độ
thuốc trừ sâu tồn dư trong đất. TS. Phạm Văn Toản nói: "Sử dụng các chủng VSV này
để cải tạ
o đất rất có lợi, đặc biệt là các vùng chuyên trồng rau sạch. Tuy nhiên, đây chỉ
là thành công bước đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu các chủng C4, P5 và P8 để
tăng hiệu quả phân hủy lượng tồn dư thuốc BVTV trong đất hơn nữa. Hy vọng, trong
tương lai gần, các chủng VSV này sẽ được sử dụng đại trà, góp phần xây dựng nền
nông nghiệp sạch ở nước ta".
Nguồn: Nông thôn ngày nay, 5/7/2003
“Sản xuất theo qui trình ngược”- Hệ thống mới thu hồi và sử dụng lại các
chất thải điện tử
Sự lo ngại của các Chính phủ trên toàn thế giới đang tăng lên về các chất thải điện
tử như các máy vi tính, tivi, điện thoại dùng pin, thiết bị radio và các ác quy bị loại bỏ.
Các chất thải điện tử này chứa chì và các chất khác có thể ngấm vào các nguồn cung
cấp nước ngầm.
Chỉ một chiếc màn hình máy tính màu hoặc một chiếc ti vi màu có thể chứa một
lượng chì tới 8 pao (tươ
ng đương 3,6kg). Theo đánh giá của Cơ quan Bảo vệ Môi
trường của Mỹ gần đây có khoảng 12 triệu tấn chất thải điện tử như vậy được đổ vào
các bãi chôn lấp chất thải ở Mỹ.
Sự lo lắng này đã tăng lên tới mức mà một số nước châu Âu đang bắt buộc các nhà
sản xuất phải thu hồi các đồ điện tử b
ị loại bỏ, và ở Mỹ, các bang Califonia,
Massachusetts đã cấm chôn lấp chúng ở các bãi chôn lấp chất thải rắn đô thị. Song,
một số công chức chính quyền đang tính đến việc tìm ra giải pháp để lấp các chỗ trống
lớn này.
Công trình nghiên cứu đang được tiến hành ở Viện Công nghệ Georgia có thể đưa
ra mô hình cho các bang khác và các quốc gia. Các nhà nghiên cứu đang thực hiện
công trình nghiên cứu này cùng phối hợp với Văn phòng Hỗ
trợ Phòng ngừa Ô nhiễm
của Vụ Tài nguyên Thiên nhiên bang Georgia, cơ quan tài trợ cho dự án với sự trợ
giúp thêm từ phía Quỹ Khoa học Quốc gia.
Các nhà nghiên cứu đã phát minh ra một hệ thống “sản xuất theo qui trình ngược”
để tạo cơ sở nền tảng cho việc thu hồi và tái sử dụng tất cả các vật liệu có trong các
chất thải điện tử: ví dụ các kim loại như chì, đồng, nhôm và vàng, các loại chất dẻo
khác nhau, thủy tinh và các loại dây kim loại. Các nhà nghiên cứu cho rằng, việc thu
hồi và sản xuất theo “qui trình khép kín” như vậy tạo cơ hội khắc phục tình trạng việc
làm cho mọi người. Số lượng không nhiều nguồn tài nguyên này của Trái đất sẽ được
khai thác làm nguyên liệu thô và nguồn nước
ngầm sẽ được bảo vệ
.
Ông Jane Ammons, giáo sư của Khoa Kỹ thuật Công Nghiệp và các Hệ thống Kỹ
thuật và là ủy viên hội đồng quản trị được chỉ định làm thành viên của Hội đồng Tái
chế và Chôn lấp Thiết bị Máy tính bang Georgia nói: Khái niệm đơn giản này đòi hỏi
phải có nhiều ý tưởng mới về nhãn hàng hoá. Ông Jane Ammons và đồng nghiệp
Matthew Realff, Phó giáo sư ở Khoa Kỹ thuật hoá học, đang phát minh ra các phương
pháp lập kế hoạch cho các hệ
thống sản xuất ngược để thu gom các đồ phế thải điện tử,
các dụng cụ, thiết bị hỏng được để riêng ra và sử dụng lại một lần nữa các thành phần
và các vật liệu trong suốt thời gian bắt buộc quy trình thực hiện được về mặt kinh tế.
Các nhà nghiên cứu cho biết, tuy hệ thống này đang được thiết kế cho bang
Georgia, thì việc ứng dụng nó
ở một nơi nào khác đã thu hút sự quan tâm ở qui mô
quốc gia và quốc tế. Các quan chức Đài Loan và Bỉ đã trao đổi ý kiến với các nhà
nghiên cứu vì họ có một số hãng điện tử đa quốc gia và các hãng cung cấp các sản
phẩm này. Ngoài ra, công việc tái chế thảm của các nhà khoa học được sử dụng để
chứng minh cho Quốc hội rõ và giúp phát triển sự liên kết ngành kinh doanh sao cho
đạt được mục tiêu thu hồi được 25% thả
m từ các bãi chôn lấp chất thải vào năm 2012.
Nguồn: Georgia Institute of Technology, 3/2003.