Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bệnh ung thư vòm họng (Kỳ 1) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.4 KB, 5 trang )

Bệnh ung thư vòm họng
(Kỳ 1)
1. Đại cương:
Bệnh ung thư vòm họng (NPC - Nasopharyngeal Carcinoma) ở
nước ta có tỷ lệ cao, đứng hàng đầu trong ccác bệnh ung thư đầu cổ, đứng hàng
thứ 5 trong các bệnh ung thư nói chung. Nhưng các triệu chứng lại không điển
hình hầu hết là các triệu chứng "mượn" của các cơ quan lân cận như: tai, mũi, thần
kinh, hạch…do đó việc chẩn đoán gặp nhiều khó khăn. Cần phát hiện sớm, điều trị
kịp thời để cứu sống bệnh nhân.
1.1. Giải phẫu vòm họng.
Cấu tạo giải phẫu: vòm họng còn gọi là họng mũi, thuộc lá thai trong có
cấu
trúc là một hình hộp có sáu mặt.
- Mặt trước là cửa mũi sau.
- Mặt sau là niêm mạc họng và cân quanh họng, liên quan với xương
chẩm, đốt sống cổ 1, 2.
- Hai bên là loa vòi nhĩ cách đuôi xương xoăn dưới khoảng 1 cm,
xung quanh loa vòi có tổ chức bạch huyết gọi là amiđan gerlach. Phía trên gờ vòi
nhĩ hai bên có hố Rosenmuller.
- Mặt trên là bờ dưới của thân xương bướm và mảnh nền của xương
chẩm. Ở mặt này tổ chức bạch huyết tập trung thành đám gọi là amiđan luschka.
Khi tổ chức này quá phát được gọi là viêm V.A.
- Mặt dưới thông với họng miệng.
Mạch máu nuôi dưỡng: là động mạch bướm khẩu cái, xuất phát từ động
mạch hàm trong (là 1 trong 2 ngành cùng của động mạch cảnh ngoài).
Tổ chức học: phần trên được cấu tạo bởi biểu mô trụ đơn có lông chuyển
thuộc niêm mạc đường hô hấp. Phía dưới là lớp biểu mô lát tầng thuộc niêm mạc
đường tiêu hoá.




Thiết đồ bổ dọc qua vòm họng
1.2. Lịch sử nghiên cứu về ung thư vòm họng.
- Trong nghiên cứu các xác ướp ở Ai Cập, Elliot Smith đã phát hiện
được hai sọ người có tổn thương ở nền sọ như thương tổn của bệnh ung thư vòm
họng.
- Theo Fardel năm 1837 ở châu Âu đã có những bệnh án đầu tiên của
bệnh nhân có bệnh cảnh giống ung thư vòm họng.
- Tại Việt Nam cố giáo sư Trần Hữu Tước đã nghiên cứu trên 612
bệnh nhân ung thư vòm họng tại Bệnh viện Bạch Mai (1955 - 1964).
1.3. Dịch tễ học:
- Thế giới: ung thư vòm mũi họng xuất hiện nhiều ở Trung Quốc,
Châu Phi và một số nước Đông nam Á, rất hiếm gặp ở Châu Âu, Châu Mỹ. Đặc
biệt là vùng Quảng Đông (Trung Quốc) gặp nhiều với tỷ lệ: 30-45 bệnh
nhân/100.000 dân/năm. Người ta còn gọi ung thư vòm họng là U "Quảng Đông".
- Việt Nam: vẫn chưa có một thống kê đầy đủ, chính xác. Nhưng theo
thống kê của Bệnh viện K-Hà Nội (1998) thì ung thư vòm họng đứng hàng thứ 4,
5 sau ung thư phổi, tử cung buồng trứng, vú, ung thư gan và là bệnh đứng đầu
trong các ung thư vùng đầu, cổ với tỷ lệ: 9-10 bệnh nhân/100.000 dân/năm.
- Giới tính hay gặp ở nam giới, tỷ lệ nam/nữ: 2-3/1.
- Tuổi: bệnh thường xuất hiện từ 20 tới 65 tuổi, sau 65 tuổi tỷ lệ bệnh
giảm dần.
1.4. Yếu tố liên quan.
- Yếu tố môi trường: bao gồm điều kiện vi khí hậu, bụi khói, tình
trạng ô nhiễm và tập quán ăn uống (ăn cá muối, tương, cà và những chất mốc do
những thứ này chứa nitrosamine chất gây ung thư).
- Do Virus Epstein Barr (EBV): đây là loại virút ở người thuộc nhóm
Herpès là nguyên nhân gây bệnh u lympho Burkitt ở trẻ em. Những năm gần đây
người ta hay nói đến sự liên quan giữa UTVH với EBV, do phát hiện được bộ gen
của EBV trong tế bào khối u vòm họng và trong huyết thanh người bệnh ung thư
vòm họng, hiệu giá kháng thể IgA kháng VCA-EBV rất cao, trong khi đó lại rất

thấp hoặc không có ở huyết thanh người bình thường hoặc bị các bệnh ung thư
khác.
- Yếu tố gen di truyền: gần đây có một số tác giả cho rằng những
người cùng huyết thống có khả năng cùng mắc bệnh UTVH. Ngành di truyền học
đã tìm thấy khoảng 30 gen ung thư nội sinh. Những gen này bình thường ở trạng
thái tự động đóng lại và nằm im nhưng nếu có một cơ chế cảm ứng nào đó, gen
ung thư sẽ thức dậy và gây nên hiện tượng phát triển vô tổ chức tạo ra ung thư.
- Tuy nhiên nhiều tác giả cho rằng căn nguyên của ung thư vòm họng
không phải là đơn độc mà do nhiều yếu tố cùng tác động gây nên. Vì vậy công tác
phòng chống ung thư vòm họng phải làm ở nhiều khâu, nhiều lĩnh vực khác nhau
mới mang lại kết quả.

×