Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nâng cao chất lươnghojc tập của HS yếu kém môn Anh văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.59 KB, 14 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm 2007
ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO CHẤT LƯNG HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH YẾU KÉM MÔN ANH
VĂN 7

A. PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Việc nâng cao chất lượng đối với bộ môn Anh văn tại các trường học ,
nhất là trường ở vùng nông thôn là một vấn đề quan trọng và cần thiết . Bởi
do điều kiện sinh sống , ngoài một buổi đến trường , các em còn phải lao
động phụ giúp gia đình, không có thời gian đầu tư cho bất kỳ môn học nào,
nhất là bộ môn Anh văn- không phải là tiếng mẹ đẻ. Cha mẹ các em thường
không có thời gian , không đủ trình độ để kềm cặp thêm ở nhà . Hơn nữa,
việc trang bò cơ sở vật chất,các phương tiện cần thiết để phục vụ cho việc
dạy và học môn Anh văn ở trường nông thôn còn nhiều khó khăn.
Trong khi đó môn Anh văn ngày càng giữ vò trí quan trọng . Nó cần thiết cả
khi lên cấp ba và đại học, trong khi cấp hai là nền tảng để làm cơ sở cho
việc tiếp thu bài vở ở các cấp học sau này
- Qua dự giờ ở các lớp, qua khảo sát trực tiếp sản phẩm của học sinh ở khối
lớp mình đang giảng dạy, tôi thấy mỗi lớp thường có hơn 1/3 số học sinh yếu
kém bộ môn Anh văn ở đầu mỗi năm học.
2. Nước ta đang trong giai đoạn phát triển, đã gia nhập WTO, hoà mình
với xu thế phát triển chung trên toàn thế giới, nên rất cần một lực lượng trí
thức trẻ, đông đảo, rộng khắp. Để có một lực lượng tài năng đồng đều đòi
hỏi người giáo viên phải tìm cách nâng cao chất lượng học tập cho những
học sinh yếu kém- một lực lượng khá đông đúc trong các trường học hiện
nay .
Đó là những nguyên nhân đã khiến tôi chọn đề tài:”Làm thế nào để nâng
cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém môn Anh văn?”
1


Sáng kiến kinh nghiệm 2007
B.PHẦN NỘI DUNG
I. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ:
- Tìm biện pháp “ Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém
môn Anh văn 7”là một vấn đề nan giải , rất cần thiết đối với đa số giáo viên
bộ môn nói chung, đặc biệt là bộ môn Anh văn 7 nói riêng. Vấn đề này đã
được giáo viên trong tổ thảo luận nhưng chưa tìm được biện pháp hữu hiệu
nhất. Vì thế, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Anh văn 7,
qua nhiều năm thực hiện tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm trong việc
dạy phụ đạo học sinh yếu kém có hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ :
- Trường THCS Long Trung là một trường thuộc vùng nông thôn , nên
học sinh vất vả, phải phụ giúp cha mẹ hàng ngày ngoài giờ học , trong khi
cha mẹ không hiểu biết về bộ môn Anh văn. Phần lớn các em là học sinh
nghèo , còn lam lũ, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không người
quan tâm kềm cặp ở nhà. Qua thực tế ở trường, cụ thể là những bài kiểm tra
đònh kỳ(15 phút,1 tiết) , các bài thi do Phòng giáo dục , Sở giáo dục ra đề
chất lượng bộ môn Anh văn chưa cao. Trong khi một số em khá giỏi rất hứng
thú với phương pháp học Anh văn mới này thì một bộ phận những em yếu
kém vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng nên dễ dẫn đến việc các em trốn học ,
nghỉ học, hay chán nản không muốn học bộ môn này. Những học sinh yếu
kém khi tiếp xúc với hình thức đề kiểm tra hoặc đề thi , các em thường
không biết nội dung yêu cầu của đề bài. Ví dụ như: chuyển câu sang thể phủ
đònh hoặc nghi vấn ; chia động từ trong ngoặc; đặt câu hỏi cho từ gạch dưới
hoặc từ trong ngoặc. Với dạng bài tập đặt câu hỏi , đa số học sinh yếu kém
không biết cách làm bài, các em thường làm sai , hoặc bỏ trống, không ghi
gì cả…. Do đó làm cho tinh thần công tác của giáo viên sa sút vì số học sinh
yếu kém bộ môn còn nhiều, một số giáo viên dạy Anh văn còn hạn chế về
mặt thi đua cuối năm do chất lượng bộ môn chưa đạt.
- Trước tình hình trên đòi hỏi người giáo viên phải suy nghó bằng nhiều

cách để nâng cao chất lượng bộ môn ngày một cao hơn.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
- Bao gồm cả công tác tư tưởng và tổ chức quản lý lớp. Cả hai biện pháp
này không thể tách rời mà cần được sắp xếp đan chéo nhau , được phối hợp
2
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
hài hoà có chủ đònh vì công tác tư tưởng là biện pháp hàng đầu, còn biện
pháp tổ chức quản lý là nhân tố quyết đònh.
1. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG:
Như trên đã nói, đây là biện pháp hàng đầu để hỗ trợ cho biện pháp
quyết đònh là tổ chức và quản lý học sinh. Thế nên trong việc nâng cao chất
lượng học tập của học sinh yếu kém môn Anh văn đã coi trọng công tác tư
tưởng bằng các việc làm sau :
a. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình:
Học sinh ở trường THCS Long Trung yếu kém môn Anh văn có nhiều
hoàn cảnh đặc biệt , nhiều em mồ côi , cha mẹ ly hôn, các em phải sang
ởvới ông bà , cô dì….Một số ít là con được nuông chìu quá mức, được cha mẹ
bao che các lỗi lầm.
Các em có những đặc điểm tâm lý riêng, thế nên tôi thường thăm dò hoàn
cảnh gia đình của các em qua sơ yếu lý lòch, bạn bè gần nhà, giáo viên chủ
nhiệm và tìm ra biện pháp giáo dục thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao trong
việc nâng cao chất lượng học tập của các em.
Chẳng hạn, năm học 2003-2004, em Hoàng Oanh (7A
4
) đầu năm được
xếp vào nhóm trung bình khá, vài tháng sau đó em lơi lỏng việc học, trở
thành học sinh yếu kém. Tìm hiểu tôi được biết ở nhà em chỉ sợ cha, chẳng
may cha em bò tai nạn vừa mất, em sống với mẹ tha hồ trốn tiết đi chơi với
bạn bè. Nắm được tình hình đó, tôi đã giải thích cho em biết rằng : cha em
mất đi thì trách nhiệm của em đối với mẹ em sau này càng nặng nề hơn. Do

đó bản thân em phải chăm học hơn . Tôi thường xuyên trò chuyện với em và
em đã có chuyển biến tốt hơn ở bộ môn Anh văn so với đầu học kỳ.
b. Duy trì sỉ số:
Đi học đầy đủ là điều kiện tất yếu để học sinh học tốt. Cần quan tâm đến
việc vắng mặt của học sinh trong lớp, vì phần lớn những học sinh trốn tiết ,
bỏ tiết là những em học yếu, chán học, sẽ có nguy cơ nghỉ học luôn. Những
trường hợp như thế , giáo viên bộ môn cần thông báo kòp thời cho giáo viên
chủ nhiệm để báo cho phụ huynh học sinh ngay, nhằm giúp các em chấn
chỉnh lại , đưa các em trở lại lớp học.
Như trường hợp em Minh Thiện – lớp 7A
4
(2003-2004), cha mẹ ly hôn ,
gia đình nghèo, em chán học và đã thôi học.
Hoặc em Vinh Quang – lớp 7A
5
(2004-2005), cha mẹ ly thân , em sống
với ông bà nội, gia đình nghèo, ngoài một buổi học ở lớp em còn phải đi bán
3
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
vé số phụ giúp ông bà, có nhiều lúc em đi trễ hoặc cúp tiết vì vé số bán
chưa hết, gia đình lại thường xuyên buộc em phải nghỉ học luôn.
Hay em Minh Nhân – lớp 7A
1
(2004-2005) thường xuyên trốn học , gia
đình không hay biết. Ban Giám Hiệu nhà trường và Giám thò đã mời cha mẹ
các em vào và thông báo cho phụ huynh biết để quản lý con cái chặt chẽ
hơn.
c. Xây dựng tốt mối quan hệ Thầy trò:
Học sinh yếu kém thường mang nhiều mặc cảm. Các em có hai mặt tâm
lý đối nghòch nhau : một số em quậy phá, nghòch ngợm, trốn học , bỏ tiếtø và

một số em rút vào cái vỏ của mình qua những biểu hiện như : nhút nhát,
không phát biểu, xa lánh bạn bè, thầy cô.
Biện pháp cần đặt ra ở đây là giáo viên phải thường xuyên quan tâm đến
các em, gần gũi , trò chuyện, nâng đỡ các em, đôi lúc cũng phải cứng rắn
qû phạt các em.
Học sinh yếu thường phạm nhiều khuyết điểm kéo dài cả về học tập lẫn
đạo đức, chúng ta không thành kiến với các em , không vội vàng cho điểm
xấu mà phải tìm cách giúp đỡ để các em vượt qua khó khăn, ham thích học
tập hơn.
Như em Trãi- lớp 7A
2
(2003-2004) mất căn bản, tiếp thu bài chậm, lo sợ
khi giáo viên gọi đến. Đối với những em như Trãi, tôi thường có thái độ dòu
dàng, nâng đỡ , kềm cặp , bổ sung kiến thức cho em ngoài giờ.
Em Hoà – lớp 7A
1
có khả năng tiếp thu nhanh hơn em Trãi, nhưng lại lười biếng
trong học tập. Những em trong nhóm này đều được răn dạy theo cả hai biện
pháp”cứng rắn- nhẹ nhàng”, la rầy và động viên.
d. Nêu tấm gương sáng:
Chọn những em tiêu biểu nêu gương , mẫu cho các em noi theo. Khen
thưởng những em yếu kém có tiến bộ dù chỉ 0,25 điểm nhằm khích lệ , động
viên tinh thần của các em.
e. Tìm hiểu , đóng góp ý kiến với cha mẹ học sinh:
Nhà trường và gia đình là cầu nối quan trọng trong việc học tập của các
em . Cha mẹ phải thực sự là một “giáo viên” ở nhà , nhắc nhở các em chuẩn
bò bài, học bài và hướng dẫn làm bài tập nếu được.
Cha mẹ phải quan tâm đến con cái, phải sống lành mạnh cả về thể chất lẫn
tinh thần.
Giáo viên bộ môn ít có dòp gặp trực tiếp cha mẹ học sinh. Do đó, chúng ta

phải kòp thời báo những vi phạm của học sinh mình qua giáo viên chủ nhiệm để
4
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
nhờ họ liên hệ phụ huynh , nếu cần có thể gặp gỡ họ trực tiếp để trao đổi một
số vấn đề có liên quan.
f. Tinh thần , trách nhiệm của người thầy:
Cũng như cha mẹ học sinh, người thầy cũng phải gương mẫu , là tấm gương cho
học sinh noi theo. Người thầy phải có tinh thần trách nhiệm cao, không thành
kiến bỏ rơi một học sinh nào . Luôn tìm tòi học hỏi không ngừng để cải tiến
phương pháp , dùng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau sao cho phù hợp
với từng đối tượng học sinh.
2. CÔNG TÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỌC SINH YẾU KÉM:
a. Đánh giá chất lượng học tập của học sinh:
Nhằm đánh giá đúng mức độ học tập của học sinh , vào đầu năm học nhà
trường thường tổ chức kiểm tra chất lượng đầu năm . Từ đó , giáo viên bộ môn
có thể phân học sinh ra làm 4 nhóm: giỏi - khá - trung bình – yếu kém.
Từ đó , giáo viên bộ môn lập danh sách theo dõi học sinh yếu kém , quan sát
hàng ngày , ghi nhận kết quả qua từng kỳ kiểm tra. Muốn theo dõi chất lượng
học tập của học sinh yếu kém một cách chính xác , giáo viên phải thực sự
nghiêm túc trong việc coi và chấm trả . Việc làm này có đúng đắn , chúng ta
mới nắm được các mặt tồn tại của học sinh để kòp thời phụ đạo bổ sung. Mỗi
giáo viên bộ môn đều có trong tay sổ “ Theo dõi sự tiến bộ của học sinh”.
STT
Họ và tên
học sinh
Kết quả
Đầu HKI
Giữa
HKI
Cuối

HKI
Giữa
HKII
Cuối
HKII
b. Phụ đạo học sinh yếu kém:
Đây là một công tác cần phải có đối với những học sinh yếu kém. Ngay
từ bài khảo sát chất lượng đầu năm và căn cứ vào tình hình học tập ở lớp dưới,
giáo viên bộ môn có thể lập danh sách những em dưới trung bình để có thể cho
vào lớp phụ đạo . Một học sinh yếu kém có tiến bộ hay không là nhờ vào sự
phối hợp nhòp nhàng giữa ba môi trường : nhà trường – gia đình – xã hội. Dựa
vào danh sách học sinh yếu kém của từng lớp, Ban Giám Hiệu nhà trường tổ
5
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
chức một buổi họp mặt phụ huynh của những em yếu kém đó nhằm thông báo
cho phụ huynh về việc học tập của con em mình. Qua đó đa số phụ huynh đều
đồng tình với việc phụ đạo cho con em họ.
Nhờ có sự tổ chức quản lý của Ban Giám Hiệu nhà trường , việc dạy phụ
đạo cho học sinh yếu kém một phần nào đó cũng góp phần nâng cao chất lượng
học tập. Trong quá trình dạy phụ đạo, tôi thường phân chia các em yếu ra từng
nhóm khác nhau : yếu về từ vựng hay yếu về ngữ pháp.
Ở nhóm yếu về từ vựng, đa số các em không biết cách học từ vựng,
không biết từ loại của từ , học mà không nhớ rõ nghóa , hoặc nhớ nghóa mà
không thuộc từ . Đối với học sinh nhóm này, tôi yêu cầu các em mỗi ngày học
ba từ vựng. Vào 15 phút đầu giờ, tôi nhờ cán sự bộ môn và một số em học giỏi
trong lớp đi kiểm tra những em yếu từ vựng này và báo kết quả lại cho tôi . Đến
ngày học phụ đạo lần sau , tôi sẽ kiểm tra tất cả từ vựng mà tôi đã yêu cầu các
em học trong một tuần. Làm được như thế, đối với một em chòu học từ vựng một
cách nghiêm túc thì chẳng bao lâu lượng từ vựng trong trí nhớ của các em sẽ
được nâng lên rất nhiều.

Riêng các em yếu về ngữ pháp, tôi sẽ phụ đạo cho các em theo từng loại
hình bài tập khác nhau: chia động từ trong ngoặc, chuyển câu sang thể phủ đònh
hoặc nghi vấn, đặt câu hỏi với từ gạch dưới hoặc từ trong ngoặc… Trước khi đưa
ra dạng bài tập nào đó , tôi thường dành 15 phút đầu giờ để nhắc lại những kiến
thức cơ bản về phần ngữ pháp đó.
Chẳng hạn ,hôm nay tôi muốn yêu cầu học sinh làm bài tập chia động từ ở thì
quá khứ đơn, trước khi đưa lên bảng một số câu cụ thể , tôi nhắc lại phần lý
thuyết cơ bản.
*Thì quá khứ đơn( The Simple Past Tense):
Công thức :

Cách dùng: Để diễn tả một hành động hay một sự việc đã xảy ra tại một thời
điểm xác đònh ở quá khứ và chấm dứt trong quá khứ, thường đi kèm với các
trạng từ sau : last…, …ago, yesterday, before, in 2000…
Chú ý: Nếu động từ có qui tắc > ta thêm –ED
Nếu động từ bất qui tắc > ta chuyển sang cột hai trong bảng động từ
bất qui tắc.
Nhắc lý thuyết trước như thế thì khi áp dụng làm bài tập , nhìn vào câu thấy có
những từ đi kèm như :yesterday, last Sunday, three years ago…thì các em dễ
dàng chia động từ được ngay.
6
S+ V
ed
/ V
2
+ O
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
Ex: Exercise B
1
/ P.63 – English Workbook 7

Complete the sentences with the simple present or simple past
tense of the verbs:
b. She …… (forget) to brush her teeth yesterday.
c. Last week the doctor …………( fill) a cavity in my eighth tooth.
…………………………………………………………………………………………………
h. Lan ………… ( have) a health examination last month.
Dựa vào những từ đã được học : yesterday, last …, ….ago,học sinh có thể
làm tốt như :
b. forget >forgot
c. fill > filled
…………………………………
h. have > had
Và điều quan trọng khi làm bài tập dạng này là giáo viên bộ môn phải yêu cầu
học sinh học thuộc lòng tất cả các động từ bất qui tắc.
*Đối với dạng bài tập chuyển câu sang thể phủ đònh hoặc nghi vấn, giáo
viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện các bước sau :
Bước 1 : xác đònh chủ từ , động từ
Bước 2 : xác đònh thì của động từ
Bước 3: xác đònh loại động từ ( động từ thường hay động từ đặc
biệt; động từ có qui tắc hay động từ bất qui tắc nếu ở thì quá khứ).
Ex: Exercise B2/ P. 56 – English Workbook 7
Complete the sentences with the verbs in the negative:
g. We returned home in the evening. We……………home in the afternoon.
S V.ed
Đây là loại bài tập hoàn thành câu với động từ ở thể phủ đònh, nói cách
khác đây là loại bài tập chuyển câu sang thể phủ đònh.
Muốn làm được bài này , giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện các bước sau:
- Xác đònh động từ : returned
- Xác đònh thì của động từ : quá khứ đơn
-Xác đònh loại động từ : động từ thường có qui tắc

Muốn chuyển câu sang thể phủ đònh , chúng ta nên mượn trợ động từ ( vì
động từ chính là động từ thường); vì câu chia ở thì quá khứ đơn nên trợ động từ
cần mượn là“ did”, câu phủ đònh phải thêm “not”. Khi mượn trợ động từ thì
động từ chính phải trả về nguyên mẫu(bỏ – ed).
7
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
Vậy đáp án cho câu này là : “ We didn’t return home in the afternoon”
* Exercise A3/ p54 – English Workbook 7
Write the questions :
Ex: a/ I went to Vung Tau for last Tet vacation.
S V
2
Đây là dạng bài tập chuyển câu sang thể nghi vấn , để giúp học sinh làm
được bài này , giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện các bước sau:
- Xác đònh chủ từ, động từ : I , went
- Xác đònh thì của động từ: quá khứ đơn
- Xác đònh loại động từ: động từ thường bất qui tắc
Với động từ thường ở thì quá khứ đơn , chúng ta mượn trợ “Did”. Vậy để
chuyển câu này sang thể nghi vấn , ta thêm “Did” ở đầu câu và “went” trả về
nguyên mẫu là “go”.
Khi đó , ta có : Did you go to Vung Tau for last Tet vacation?
* Một dạng bài tập khác : đặt câu hỏi với từ gạch dưới
Với loại bài tập này , giáo viên cần giúp học sinh thực hiện theo các bước sau:
- Xác đònh từ để hỏi cho từ hoặc cụm từ được gạch dươí.
- Xác đònh chủ từ , động từ.
- Xác đònh thì của động từ.
- Xác đònh loại động từ.
Ex: Exercise A2 / P 69 – English Workbook 7
Write the question for the answer:
e. I visited the dentist because I had a terrible toothache

Để làm được bài tập này , học sinh cần thực hiện các bước sau :
- Xác đònh từ để hỏi cho cụm từ được gạch dưới: “Why?”
- Những bước tiếp theo làm tương tự như chuyển câu sang thể nghi
vấn , nhưng khác một điểm nhỏ là : chuyển câu sang thể nghi vấn thì ta
sẽ viết lại hết nguyên câu; nhưng đặt câu hỏi với từ gạch dưới, ta đặt từ
để hỏi ở đầu câu , chuyển câu đó sang thể nghi vấn nhưng phải bỏ đi từ
hoặc cụm từ được gạch dươí . Cụ thể là :
I visited the dentist because I had a terrible toothache
S V.ed
>Why did you visit the dentist?
*Tương tự như đặt câu hỏi với từ gạch dưới, đối với loại bài tập đặt câu hỏi với
từ cho sẵn trong ngoặc, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện các bước sau :
- Xác đònh từ để hỏi dùng để hỏi cho từ hoặc cụm từ nào? ; cho cái gì?
8
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
VD: What? > hỏi về vật , sự việc
Who ? > hỏi về người
Where? > hỏi về nơi chốn
When? > hỏi về thời gian
Why? > hỏi về nguyên nhân , lý do
v.v…. và v.v…
- Xác đònh chủ từ , động từ
- Xác đònh thì của động từ
- Xác đònh loại động từ
Ex: Exercise B3/ p. 56 – English Workbook 7
Write the questions with Wh- words:
b. We decorated our classroom on Saturday evening( When?)
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện các bước sau:
- When? : dùng để hỏi về thời gian , vậy nó hỏi cho cụm từ” on Saturday
evening”( đối với học sinh yếu kém , giáo viên cần nói thêm: khi ta dùng

“When” để hỏi thì cụm từ “ on Saturday evening” sẽ được bỏ đi)
- Những bước tiếp theo sẽ được làm tương tự như khi chuyển câu sang
thể nghi vấn.
Vậy đáp án chính xác là :” When did you decorate your classroom?”
Đối với mỗi loại bài tập được nêu trên , giáo viên nên “ model”( làm mẫu) cho
các em xem một câu , những câu còn lại tương tự, chúng ta có thể yêu cầu học
sinh lên bảng làm và giúp đỡ các em nếu thấy còn lúng túng. Cần chỉ cho các
em biết cách phân biệt giữa yêu cầu chuyển sang nghi vấn và phủ đònh ( nghi
vấn thì có từ “Question”, còn thể phủ đònh có từ “Negative”), đặt câu hỏi với
từ gạch dưới hay từ trong ngoặc…
Phụ đạo học sinh yếu kém chủ yếu là cho các em làm những dạng bài tập
cơ bản . Khi các thao tác đã nhuần nhuyễn, giáo viên bộ môn có thể cho các em
làm quen với các dạng đề kiểm tra, đề thi học kỳ để các em có được những kỹ
năng làm bài tốt.
Mỗi một buổi dạy phụ đạo là một loại hình bài tập khác nhau. Sau 4 tiết
phụ đạo sẽ có một bài kiểm tra xem mức độ hiểu bài của các em có tiến triển
không? Các em có làm được bài tập đã học chưa?
Nhờ biện pháp này mà nhiều năm qua , khi nhìn đề kiểm tra của trường ,
Phòng giáo dục ra đề, tôi có thể đoán gần chính xác số học sinh trên , dưới
trung bình ở các lớp mình đang giảng dạy.
c. Trắc nghiệm học sinh:
9
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
Lập câu hỏi trắc nghiệm học sinh yếu kém để tìm hiểu nguyên nhân tại
sao học sinh không có động cơ học tập bộ môn này?
Tổng
số
HS
Nội dung trắc nghiệm
Kết quả

TSHS Tỉ lệ
%
217
Câu 1:Em có thích học môn Anh văn không?
a.Thích
b. Thỉnh thoảng
c. Không thích
d. Ghét
98
79
23
17
45.2%
36.4%
10.6%
7.8%
217
Câu 2 : Trong quá trình học tiếng Anh , em thường
gặp phải những khó khăn về:
a.Từ vựng
b. Ngữ pháp
c. Phát âm
d.Cả 3 ý trên
45
73
56
43
20.7%
33.6%
25.8%

19.8%
217
Câu 3: Với một từ chưa rõ cách phát âm , em
thường:
a. Nhờ giáo viên đọc lại
b. Tra tự điển
c. Đọc theo cảm tính
d. Nhờ bạn đọc lại
67
18
82
50
30.9
%
8.3%
37.8%
23%
217
Câu 4 : Ở nhà, em học từ vựng theo cách:
a. Học thuộc lòng
b. Vừa học vừa tra tự điển về cách đọc và từ
loại
c. Vừa học vừa viết ra giấy
d. Vận dụng vào việc đặt câu
128

11
52
26
59%


5%
24%
12%
217
Câu 5 : Nguyên nhân dẫn đến việc học yếu của em
a. Lười biếng, không học bài
b. Mất căn bản
c. Giáo viên dạy nhanh
d. Không ai kềm cặp ở nhà
107
89
10
11
49.3%
41%
4.6%
5.1%
Qua những câu hỏi trắc nghiệm trên , có 2 nguyên nhân dẫn đến việc học
yếu môn Anh văn là do lười biếng học tập và mất căn bản.
10
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
d. Phỏng vấn giáo viên bộ môn Anh văn :
Nguyên nhân học sinh yếu kém bộ môn này do đa số lười học bài, một số
có khả năng tiếp thu kém, học sau quên trước do lượng từ vựng rất nhiều.
e.Về chỗ ngồi của học sinh , giáo viên bộ môn cần lưu ý:
Có một thời gian tôi thường xếp học sinh yếu kém ngồi kế bên em học
khá giỏi trong lớp,nhưng đã thất bại vì có lắm tình trạng em giỏi học thay cho
em yếu kém( nhắc bài, cho bạn yếu chép bài làm của mình…)
Học sinh yếu kém thường chán học , lo ra , nên “ưu tiên” xếp các em

ngồi ở những bàn trên , em cao to ngồi bên trong để không che khuất các em
nhỏ bên dưới, ngồi gần giáo viên các em có tâm lý lo sợ, không dám xao lãng
trong giờ học.
f. Sách vở :
Sách vở rất cần thiết trong việc học ở nhà, chuẩn bò bài tốt cho tiết học
tới. Do đó phải thường xuyên kiểm tra sách vở của nhóm yếu kém này.
Giáo viên bộ môn nên phân công học sinh giỏi bộ môn( cán sự bộ môn)
có tập vở sạch đẹp, đúng yêu cầu để kiểm tra sách vở , góp ý với bạn và báo
cáo cho giáo viên .
Kiểm tra và tự kiểm tra lẫn nhau của học sinh làm giảm nhẹ lao động của
giáo viên, mà vẫn bảo đảm chính xác. Giáo viên bộ môn chỉ còn nhiệm vụ bao
quát và thỉnh thoảng gọi một vài học sinh yếu kém bất kỳ để kiểm tra lại.
Phát hiện ngay từ đầu những học sinh không đủ sách vở cần thiết theo
yêu cầu bộ môn để buộc các em mua. Đối với những em nghèo, khó khăn, giáo
viên có thể mượn sách ở thư viện thay cho các em .
g. Kiểm tra:
Kiểm tra thường xuyên và giúp đỡ cụ thể rất cần thiết cho các em yếu
kém, vì những em này với tâm lý chán học , nếu không kiểm tra các em sẽ
chẳng chòu học gì cả.
Biện pháp :
Nhờ cán sự bộ môn truy bài vào 15 phút đầu giờ, nếu hôm đó có tiết Anh
văn. Giáo viên kiểm tra các em thường xuyên bằng nhiều hình thức( miệng ,
viết , trắc nghiệm). Phát hiện những em lệch lạc , có chuyển biến nên ghi vào
sổ theo dõi tình hình học tập bộ môn.
Kiểm tra ngắn gọn ngoài giờ học chính thức để khỏi mất thời gian trong
tiết học. Gạt bỏ quan niệm chỉ cho điểm kiểm tra theo số cột qui đònh là đủ.
Quan niệm này thường dẫn đến tình trạng học sinh được kiểm tra rồi sẽ ỷ
lại, không học bài nữa.
11
Sáng kiến kinh nghiệm 2007

Biện pháp kiểm tra thường xuyên phải được làm từ lớp dưới, để phát hiện
được chỗ yếu kém của học sinh và kiên trì, bổ sung những lỗ hỏng kiến thức thì
các em mới có thể tiếp thu một cách vững vàng kiến thức ở lớp trên.
Giáo viên chúng ta thường chú ý đến khâu soạn bài , lên lớp đủ các bước,
dạy đúng phân phối chương trình là biểu hiện chỉ tốt ở bước đầu. Vấn đề tổ
chức học sinh học tập trong lớp , ở nhàgiữ một vai trò quan trọng. Thế nên lấy
biện pháp kiểm tra thường xuyên , phát hiện học sinh học bài , làm bài , cải tiến
cách học như thế nào có hiệu quả là điều cấp thiết để nâng cao chất lượng học
tập của học sinh.
h. Dự giờ thao giảng:
Dự giờ , quan sát , ghi chép , học tập kinh nghiệm của các giáo viên trong
tổ để bổ sung những thiếu sót về phương pháp, về quản lý học sinh yếu kém
trong tiết học.
IV.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯC:
Qua nhiều năm thực hiện các biện pháp trên để giáo dục nâng cao chất
lượng học tập của học sinh yếu kém, bản thân nhận thấy bộ môn mình có
chuyển biến khá tốt.
Sau đây là bảng thống kê kết quả cụ thể về tỉ lệ học sinh đạt yêu cầu bộ môn ở
cuối năm học thông qua các bài kiểm tra đònh kỳ.
Năm học
Tổng số học
sinh thực dạy
Kết quả các lần kiểm tra dưới trung bình
1 2 3 HK I HK II
2004-2005
2005-2006
2006-2007
223
231
217

47.9%
45.7%
42.8%
44.3 %
46.1 %
41.7 %
39 %
32.4 %
28.1 %
36.7 %
24.4 %
35.4 %
29.1 %
23.7 %
Theo kết quả ghi nhận qua các sản phẩm của học sinh ở từng thời kỳ thì vào
đầu năm ( kết quả khảo sát chất lượng đầu năm )
- Năm học 2004-2005: với 223 học sinh khối 7 có 107 em nằm ở nhóm
trung bình yếu.
- Năm học 2005-2006: với 231 học sinh khối 7 có 105 em nằm ở nhóm
trung bình yếu.
- Năm học 2006-2007: số học sinh yếu kém ở đầu năm được giảm xuống,
với 217 học sinh có 92 em nằm ở nhóm trung bình yếu.
12
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
- Qua các lần kiểm tra các sản phẩm của học sinh ,ta thấy không phải lúc nào
số lượng yếu kém cũng giảm theo từng thời kỳ( lần 2 số yếu kém ít hơn lần 1,
lần 3 giảm hơn lần 2…) Đôi lúc lần kiểm tra sau số học sinh yếu kém lại tăng
hơn ( như lần 2 so với lần 1 ở năm học 2005-2006). Trường hợp này chúng ta
phải quan tâm ngay đến em học yếu trong đợt này và tìm biện pháp khắc phục
ngay.

13
Sáng kiến kinh nghiệm 2007
C. PHẦN KẾT LUẬN
ìm biện pháp “ Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém” là
vấn đề tôi nghó mọi giáo viên đều quan tâm. Các giáo viên bộ môn
Anh văn nói riêng và tất cả giáo viên bộ môn ở trường THCS Long Trung
nói chung cũng đã áp dụng toàn bộ hoặc một số biện pháp tương tự như
trên . Nhưng muốn thành công trong việc nâng cao chất lượng học tập của
học sinh ở bộ môn mình đồng đều, giáo viên đóng vai trò quyết đònh , vì
thực hiện các biện pháp trên rất mất thời gian, và kéo dài cả năm học,
giáo viên phải kiên trì với quyết tâm” Tất cả vì học sinh thân yêu”.Làm
được như thế chắc chắn chúng ta sẽ được đền bù xứng đáng từ những “sản
phẩm yếu kém” đầu năm của chúng ta đến cuối năm trở nên khá hoàn
hảo.
T
Qua đề tài nghiên cứu này, chắc chắn tôi chưa đưa ra được hết các biện
pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh, nhất là học sinh yếu
kém.Rất mong nhận được sự ủng hộ của lãnh đạo cấp trên , ý kiến đóng
góp xây dựng của quý đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm, học hỏi
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân.
Rất chân thành cảm ơn sự quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường , quý
Thầy cô trong tổ bộ môn đã động viên, cổ vũ , giúp đỡ , tạo điều kiện cho
tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này.
14

×