Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

CHẨN ĐOÁN MỜ MẮT (Kỳ 1) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.12 KB, 5 trang )

CHẨN ĐOÁN MỜ MẮT
(Kỳ 1)
Mờ mắt là một triệu chứng của rất nhiều bệnh mắt. Trên thực tế có những
trường hợp bệnh nhân thị lực chỉ đạt ở mức thấp ( £3/10) nhưng do tình trạng thị
lực thấp đó là bẩm sinh hoặc đã diễn biến quá lâu, bệnh nhân cảm thấy vẫn đủ khả
năng để sinh hoạt, làm việc với những công việc giản đơn thông thường. Những
bệnh nhân này cho rằng mọi người khác cũng cảm nhận sự vật ở mức giống như
mình; chỉ khi đi khám bệnh hoặc khám sức khoẻ .v.v. thì mới ngẫu nhiên phát hiện
mình có thị lực thấp. Tuy nhiên ở tuyệt đại đa số những trường hợp khác, hiện
tượng giảm thị lực được cảm nhận một cách rõ ràng so với trước khi có bệnh,
chúng ta gọi chung đó là những trường hợp giảm thị lực mới xảy ra. Nhiệm vụ của
người thầy thuốc nhãn khoa là phải tìm hiểu để lý giải nguyên nhân gây ra giảm
thị lực và có cách giải quyết thích hợp.
I. KHÁM THỊ LỰC
1.1 Định nghĩa: Thị lực của một mắt là khả năng nhận thức rõ các chi tiết
hoặc nói cách khác thị lực là khả năng của mắt phân biệt rõ 2 điểm ở gần nhau
(Thấy được khoảng cách nhỏ nhất giưã hai vật)
1.2 Cách khám thị lực: Có thể đánh giá thị lực từng mắt của bệnh nhân
bằng bảng thị lực nhìn xa (đứng cách bảng 5m) hoặc bảng thị lực nhìn gần (bảng
cách mắt 33 cm).
1.2.1 Thị lực nhìn xa: Đây là chỉ tiêu hay được dùng nhất để đánh giá chức
năng thị giác của mắt. Có các bảng thị lực hay dùng là bảng Monoyer với những
chữ cái, bảng Snellen với những chữ E quay theo các hướng khác nhau, bảng
Landolt với những vòng tròn không khép kín, bảng hình dùng cho các cháu nhỏ
hoặc người không biết chữ
Trong điều kiện đủ độ sáng khoảng 100 lux và ở cách xa bảng 5m, thị lực
của từng mắt bình thường phải đạt ³ 10/10. Nếu thị lực dưới 10/10 thì ghi kết quả
theo dòng chữ cuối cùng đọc được. Nếu thị lực dưới 1/10 thì cho bệnh nhân đếm
ngón tay (cỡ ngón tay được coi tương đương với kích thước của chữ ở dòng 1/10)
và khi đó cần ghi thêm khoảng cách giữa mắt bệnh nhân và ngón tay, ví dụ: đếm
ngón tay 0,5 m (ĐNT 0,5m), đếm ngón tay 1m, đếm ngón tay 3m Bệnh nhân


không đếm được ngón tay thì thầy thuốc khua bàn tay ở ngay sát trước mắt, nếu
thấy được thì ghi kết quả bóng bàn tay (BBT). Trường hợp bệnh nhân không thấy
được bóng bàn tay thì đánh giá khả năng thị giác bằng sự nhận biết ánh sáng (có
hay không có ánh sáng của đèn pin, ngọn nến ở trước mắt chừng 20- 30 cm ) và
vị trí của nguồn sáng (các phía mũi. thái dương, trên dưới), kết quả khi đó được
ghi là sáng tối dương tính (ST(+)). Khi không còn nhận biết được ánh sáng thì thị
lực bằng 0, còn ghi là sáng tối âm tính (ST(-)). Lưu ý rằng để thử chính xác cho
từng mắt thì cần phải bịt thật kín mắt bên kia và luồng ánh sáng chiếu cũng phải
thật mảnh để đảm bảo chỉ được chiếu vào mắt thử.
Qui trình đo thị lực nhìn xa - khám mắt
Thị lực ³ 10/10 Thị lực < 10/10
Khám các bộ phận Cho nhìn qua kính lỗ
phụ thuộc nhãn cầu
Thị lực tăng Thị lực không tăng

Thử kính (+) (-) Khám xác định
để xác định tật khúc xạ căn nguyên giảm
thị lực
Theo quy ước của Tổ chức y tế thế giới (1983) thị lực ở dưới mức 3/10
được coi là thị lực thấp, thị lực ở mức đếm ngón tay 3m trở xuống được coi là mù
loà.
Khi thị lực không đạt mức 10/10 cần cho bệnh nhân thử thị lực với kính lỗ.
Kính lỗ với đường kính 1,2mm chỉ cho phép một tia sáng rất mảnh đi qua trung
tâm của giác mạc, tia này hầu như không bị khúc xạ cho nên nếu thị lực qua kính
lỗ tăng tức là mắt bệnh nhân không có tổn thương thực thể mà có thể chỉ bị hoặc
cận thị hoặc viễn thị hoặc loạn thị. Tiếp tục dùng các loại kính cận, viễn, loạn thị
để thử chúng ta sẽ có số kính thích hợp cho mắt bệnh nhân.
Nếu qua kính lỗ mà thị lực của mắt vẫn không tăng thì tức là hệ thống thị
giác của bệnh nhân có tổn thương thực thể. Nhiệm vụ của thầy thuốc nhãn khoa
lúc này là phải xác định các tổn thương đó để điều trị.

II- GIẢM THỊ LỰC
2.1 Giảm thị lực nhanh : Mờ mắt xảy ra nhanh chóng và bệnh nhân rất dễ
dàng nhận thấy. Mức độ giảm thị lực có thể ít, nhiều đến mù hoàn toàn ở một mắt
(hoặc hiếm gặp hơn : ở cả hai mắt). Thường thì dấu hiệu này làm cho bệnh nhân
phải đi khám chữa ngay.
Nếu mờ mắt kèm theo mắt đỏ, đau rức, mắt khó mở, khám với kính lỗ thị
lực cũng không tăng hoặc có tiền sử chấn thương thì việc chẩn đoán sẽ dễ hướng
về các bệnh lý như viêm loét giác mạc, glocom cấp, viêm mống mắt thể mi
Những nội dung này sẽ được đề cập đến ở các bài riêng. Những tình huống mờ
mắt được bàn đến ở bài này có bán phần trước hầu như bình thường. Các dấu hiệu
của bệnh hướng đến những bệnh lý thuộc phần sau nhãn cầu như ruồi bay, chớp
sáng, chấm sáng, màn che màu đỏ hoặc đen ở trước mắt Có thể gọi đây là những
trường hợp giảm thị lực nhanh nhưng mắt không đỏ, không đau.

×