Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

bồi giỏi HSG Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.53 KB, 54 trang )

Buổi 1.
Cụm văn bản truyện ký Việt Nam hiện đại
Bài 1: Văn bản Tôi đi học
Thanh Tịnh
I/ Một vài nét về tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả.
- Thanh Tịnh sinh năm 1911, mất năm 1988. Tên khai sinh là Trần Văn
Ninh. Trớc năm 1946 ông vừa dạy học, vừa làm thơ. Ông có mặt ở trên nhiều lĩnh
vực : Thơ, truyện dài, ca dao, bút ký nhng thành công hơn cả là truyện ngắn
Truyện ngắn của ông trong trẻo mà êm dịu. Văn của ông nhẹ nhàng mà
thấm sâu, mang d vị man mác buồn thơng, vừa ngọt ngào, vừa quyến luyến
Ông để lại sự nghiệp đáng quý:
+ Về thơ: Hận chiến trờng, sức mồ hôi, đi giữa mùa sen.
+ Truyện: Ngậm ngải tìm trầm, Xuân và Sinh
2. Tác phẩm:
- Tôi đi học in trong tập truyện ngắn Quê mẹ(1941), thuộc thể loại hồi ký:
ghi lại những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ trong buổi tiu trờng
II/ Phân tích tác phẩm
1. Tâm trạng của chú bé trong buổi tựu trờng
a. Trên đờng tới trờng:
- Là buổi sớm đầy sơng thu và gió lạnh chú bé cảm thấy mình trang trọng
và đứng đắn trong chiếc áo vải dù đen dài Lòng chú tng bừng, rộn rã khi đợc
mẹ âu yếm nắm tay dắt di trên con đờng dài và hẹp Cậu bé cảm thấy mình xúc
động, bỡ ngỡ, lạ lùng Chú suy nghĩ về sự thay đổi Chú bâng khuâng thấy
mình đã lớn.
b. Tâm trạng của cậu bé khi đứng trớc sân trờng
- Ngạc nhiên, bỡ ngỡ, vì sân trờng hôm nay thật khác lạ, đông vui quá -
Nhớ lại trớc đâythấy ngôi trờng cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Nhng lần
này lại thấy ngôi trờng vừa xinh xắn, oai nghiêm đĩnh đạc hơn Chú lo sợ vẩn
vơ, sợ hãi khép nép bên ngời thân Chú cảm thấy trơ trọi, lúng túng, vụng về
Khi nghe ông đốc gọi tên, chú bé giật mình, lúng túng , tim nh ngừng đập


oà khóc nức nở.
c. Tâm trạng của cậu bé khi dự buổi học đầu tiên.
- Khi vào lớp học, cảm xúc bâng khuâng, hồi hộp dâng lên man mác trong
lòng cậu . Cậu cảm thấy một mùi hơng lạ bay lên. Thấy gì trong lớp cũng lạ lạ
hay hay rồi nhìn bàn ghế rồi lạm nhận đó là của mình.
2. Hình ảnh ngời mẹ
- Hình ảnh ngời mẹ là hình ảnh thân thơng nhất của em bé trong buổi tựu
trờng. Ngời mẹ đã in đậm trong những kỷ niệm mơn man của tuổi thơ khiến cậu
bé nhớ mãi. Hình ảnh ngời mẹ luôn sánh đôi cùng nhân vật tôi trong buổi tựu tr-
1
ờng. Khi thấy các bạn mang sách vở, tôi thèm thuồng muồn thử sức mình thì ngời
mẹ cúi đầu nhìn con, cặp mắt âu yếm, giọn nói dịu dàng thôi để mẹ cầm cho
làm cậu bé vô cùng hạnh phúc. Bàn tay mẹ là biểu tợng cho tình thơng, sự săn sóc
động viên khích lệ . Mẹ luôn đi sát bên con trai , lúc thì cầm tay, mẹ đẩy con lên
phía trớc , lúc bàn tay mẹ nhẹ nhàng xoa mái tóc của con
III/ Cách xây dựng truyện
1. Phơng thức biểu đạt
2. Bố cục :
Đoạn 1: Từ đầu rộn rã (Hồi tởng kỷ niệm ngày đầu tiên tới tr-
ờng)
Đoạn 2: Tiếp ngọn núi(Kỷ niệm trên đờng tới trờng)
Đoạn 3: Tiếp ngày nữa (Kỷ niệm trớc sân trờng)
Đoạn 4: Còn lại (Nhớ lại kỷ niệm trong buổi học đầu
tiên)
IV/ Chất thơ trong truyện ngắn
a. Chất thơ đợc thể hiện trong cốt truyện: Dòng hồi tởng, tâm trạng của
nhân vật tôi ở những thời điểm khác nhau.
b. Chất thơ đợc thể hiện đậm đà qua những cảnh vật , tâm trạng, chi tiết
dạt dào cảm xúc.
c. Giọng văn nhẹ nhàng, trong sáng, gợi cảm .

d. Chất thơ còn thể hiện ở những hình ảnh so sánh tơi mới giàu cảm xúc
V/ Bài tập:
Qua văn bản Tôi đi học, em hãy kể lại kỷ niệm ngày đầu tiên đi học.
Buổi 2.
Bài 2: Văn bản trong lòng mẹ
(Trích : Những ngày thơ ấu Nguyên Hồng)
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả:
- Nguyên Hồng sinh ở thành phố Nam Định, nhng Hải Phòng cửa biển đã
khơi dậy và gắn bó với ông, với sự nghiệp văn chơng của ông. Tác phẩm của ông
thờng viết về những con ngời nghèo khổ dới đáy xã hội, với một lòng yêu thơng
đồng cảm vì vậy ông đợc coi là nhà văn của những con ngời cung khổ .
- Trong thế giới nhân vật của ông xuất hiện nhiều ngời bà, ngời mẹ, ngời
chị , những cô bé, cậu bé khốn khổ nhng nhân hậu . Ông viết về họ bằng cả trái
tim yêu thơng và thắm thiết của mình. Ông đợc mệnh danh là nhà văn của phụ nữ
và trẻ em. Văn xuôi của ông giàu chát trữ tình, nhiều khi dạt dào cảm xúc và hết
mực chân thành. Ông thành công hơn cả ở thể loại tiểu thuyết.
2. Tác phẩm
- Những ngày thơ ấu là tập hồi ký tự truyện gồm 9 chơng:
2
Chơng 1: Tiếng kèn.
Chơng 2: Chúa thơng xót chúng tôi.
Chơng 3: Truỵ lạc.
Chơng 4: Trong lòng mẹ
Chơng 5: Đêm nôen
Chơng 6: Trọn đêm đông.
Chơng 7: Đồng xu cái .
Chơng 8: Sa ngã.
Chơng 9: Bớc ngoặt
II/ Phân tích tác phẩm

1. Nhân vật bé Hồng
a. Hoàn cảnh:
Là kết quả của cuộc hôn nhân không có tình yêu. Bố nghiện ngập, gia đình
trở nên sa sút rồi bần cùng. Bố chết, cha đoạn tang chồng, nhng vì nợ nần cùng
túng quá, mẹ phải bỏ đi tha phơng cầu thực . Bé Hồng mồ côi, bơ vơ thiếu vắng
tình thơng của mẹ, phải sống trong sự ghẻ lạnh của bà cô và họ hàng bên cha.
Luôn bị bà cô tìm cách chia tách tình mẫu tử.
b. Đặc điểm:
Bé Hồng luôn hiểu và bênh vực mẹ: Mẹ dù đi tha hơng cầu thực, phải sống
trong cảnh ăn chực nằm chờ bên nội . Bà cô luôn soi mói, dèm pha tìm cách chia
cắt tình mẫu tử . Với trái tim nhạy cảm và bản tính thông minh, Hồng đã phát
hiện ra ý nghĩ cay độc trong giọng nói khi cời rất kịch của bà cô. Em biết rất rõ
bà cô cố gieo rắc vào đầu óc em những ý nghĩ để em khinh miệt vf ruồng rẫy mẹ.
Bằng tình yêu thơng mẹ, bé Hồng đã rất hiểu , thông cảm với cảnh ngộ của mẹ
nên em đã bênh vực mẹ . Càng thơng mẹ bao nhiêu, em càng ghê tởm, căm thù
những cổ tục phong kiến đã đầy đoạ mẹ . Một ý nghĩ táo tợn nh một cơn giông tố
đang trào dâng trong em.
Bé Hồng luôn khao khát đợc gặp mẹ. Khao khát đó của Hồng chẳng khác
nào khao khát của ngời bộ hành trên sa mạc khao khát một dòng nớc, và em sẽ
gục ngã khi ngời ngồi trên chiếc xe kéo kia không phải là mẹ . Em đã ung sớng và
hạnh phúc khi đợc ngôi trong lòng mẹ . Khi mẹ gọi, em trèo lên xe, mừng ríu cả
chân lại. Em oà lên và cứ thế nức nở. Đó là giọt nớc mắt của sự tủi thân bàng
hoang. Trong cái cảm giác sung sớng của đứa con ngôi cạnh mẹ, em đã cảm nhận
đợc vẻ đẹp của mẹ. Em mê man, ngây ngất đắm say trong tình yêu thơng của mẹ.
2. Nhân vật mẹ bé Hồng:
- Là phụ nữ gặp nhiều trái ngang, bất hạnh trong cuộc đời . Thời xuân sắc là
một phụ nữ đẹp nhất phố hàng cau, bị ép duyên cho một ngời hơn gấp đôi tuổi
mình. Bà chôn vùi tuổi xuân trong cuộc hôn nhân ép buộc. Chồng chết, với trái
tim khao khát yêu thơng, bà đã đi bớc nữa thì bị cả xã hội lên án.
- Luôn sống tình nghĩa : Đến ngày giỗ đầu của chồng- về.

- Yêu thơng con: Khi gặp con khi đợc ôm hình hài máu mủ đã làm cho ng-
ơi mẹ lại tơi đẹp.
3. Hình ảnh bà cô
3
Có tâm địa xấu xa độc ác. Bà là ngời đại diện, là ngời phát ngôn cho những
hủ tục phong kiến. Bà đợc đào tạo từ xã hội phong kiến nên suy nghĩ của bà mang
nặng tính chất cổ hủ.
4. Nghệ thuật đoạn trích
Những ngày thơ ấu là cuốn tiểu thuyết tự truyện thuộc thể hồi ký có sự kết
hợp hài hoà giữa sự kiện và bày tỏ cảm xúc, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của Nguyên Hồng tha thiết, giàu chất trữ tình và thấm đẫm cảm xúc.
5. Luyện tập:
Đề 1:
Em hãy kể lại đoạn trích trong lòng mẹ theo ngôi thứ ba.
Đề 2:
Qua đoạn trích: Trong lòng mẹ, em hãy làm sáng tỏ nhận định sau: Đoạn trích
trong lòng mẹ đã ghi lại những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại.
Gợi ý:
a. Đau đớn xót xa đến tột cùng:
Lúc đầu khi nghe bà cô nhắc đến mẹ, Hồng chỉ cố nuốt niềm thơng, nỗi
đau trong lòng. Nhng khi bà cô cố ý muốn lăng nhục mẹ một cách tàn nhẫn, trắng
trợn Hồng đã không kìm nén đợc nỗi đau đớn, sự uất ức : Cổ họng nghẹn ứ lại ,
khóc không ra tiếng . Từ chỗ chôn chặt kìm nén nỗi đau đớn, uất ức trong lòng
càng bừng lên dữ dội.
b. Căm ghét đến cao độ những cổ tục .
Cuộc đời nghiệt ngã, bất côngđã tớc đoạt của mẹ tất cả tuổi xuân, niềm vui,
hạnh phúc Càng yêu thơng mẹ bao nhiêu, thi nỗi căm thù xã hội càng sâu sắc
quyết liệt báy nhiêu: Giá những cổ tục kia là một vật nh mới thôi.
c. Niềm khao khát đ ợc gặp mẹ lên tới cực điểm
Những ngày tháng xa mẹ, Hồng phải sống trong đau khổthiếu thốn cả vật

chất, tinh thần . Có những đêm Nô-en, em đi lang thang trên phố trong sự cô đơn
và đau khổ vì nhớ thơng mẹ. Có những ngày chờ mẹ bên bến tầu, để rồi trở về
trong nỗi buồn bực nên nỗi khao khát đợc gặp mẹ trong lòng em lên tới cực
điểm
d. Niềm vui s ớng, hạnh phúc lên tới cực điểm khi đ ợc ở trong lòng mẹ .
Niềm sung sớng lên tới cức điểm khi bên tai Hồng câu nói của bà cô đã
chìm đi, chỉ còn cảm giác ấm áp, hạnh phúc của đứa con khi sống trong lòng mẹ.
Yêu cầu về nhà
Đề bài:
Nguyên Hồng xứng đáng là nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Bằng sự hiểu biết của
em về tác phẩm Trong lòng mẹ, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
H ớng dẫn :
1. Giải thích:
Vì sao Nguyên Hồng đợc đánh giá là nhà văn của phụ nữ và trẻ em
4
Đề tài: Nhìn vào sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, ngời đọc dễ nhận
thấy hai đề tài này đã xuyên suốt hầu hết các sáng tác của nhà văn: Những ngày
thơ ấu, Hai nhà nghỉ, Bỉ vỏ
Hoàn cảnh: Gia đình và bản thân đã ảnh hởng sâu sắc đến sáng tác của nhà
văn. Bản thân là một đứa trẻ mồ côi sống trong sự thiếu thốn cả về vật chất lẫn
tinh thần lại còn bị gia đình và xã hội ghẻ lạnh .
Nguyên Hồng đợc đánh giá là nhà văn của phụ nữ và trẻ em không phải vì
ông viết nhiều về nhân vật này. Điều quan trọng ông viết về họ bằng tất cả tấm
lòng tài năng và tâm huyết của nhà văn chân chính. Mỗi trang viết của ông là sự
đồng cảm mãnh liệt của ngời nghệ sỹ , dờng nh nghệ sỹ đã hoà nhập vào nhân vật
mà thơng cảm mà xót xa đau đớn, hay sung sớng, hả hê.
2. Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ .
a. Nhà văn đã thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc cho nỗi bất hạnh của ng -
ời phụ nữ
Thấu hiểu nỗi khổ về vật chất của ngời phụ nữ. Sau khi chồng chết vì nợ

nần cùng túng quá, mẹ Hồng phải bỏ đi tha hơng cầu thực, buôn bán ngợc xuôi để
kiếm sống . Sự vất vả, lam lũ đã khiến ngời phụ nữ xuân sắc một thời trở nên tiều
tụy đáng thơng Mẹ tôi ăn mặc rách rới, gầy rạc đi
Thấu hiểu nỗi đau đớn về tinh thần của ngời phụ nữ : Hủ tục ép duyên đã
khiến mẹ Hồng phải chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu với ngời đàn ông
gấp đôi tuổi của mình. Vì sự yên ấm của gia đình, ngời phụ nữ này phải sống âm
thầm nh một cái bóng bên ngời chồng nghiện ngập. Những thành kiến xã hội và
gia đình khiến mẹ Hồng phải bỏ con đi tha hơng cầu thực , sinh nở vụng trộm dấu
diếm.
b. Nhà văn còn ng ợi ca vẻ đẹp tâm hồn, đức tính cao quý của ng ời phụ
nữ:
Giàu tình yêu thơng con. Gặp lại con sau bao ngày xa cách, mẹ Hồng xúc
động đến nghẹn ngào. Trong tiếng khóc sụt sùi của ngời mẹ, ngời đọc nh cảm
nhận đợc nỗi xót xa ân hận cũng nh niềm sung sớng vô hạn vì đợc gặp con. Bằng
cử chỉ dịu dàng âu yếm xoa đầu, vuốt ve, gãi rôm mẹ bù đắp cho Hồng những
tình cảm thiếu vắng sau bao ngày xa cách.
c. Là ng ời phụ nữ trọng nghĩa tình
Dẫu chẳng mặn mà với cha Hồng song vốn là ngời trọng đạo nghĩa, mẹ
Hồng vẫn trở về trong ngày dỗ để tởng nhớ ngời chồng đã khuất.
d. Nhà văn còn bênh vực, bảo vệ ng ời phụ nữ:
Bảo vệ quyền bình đẳng và tự do , cảm thông vời mẹ Hồng khi cha đoạn
tang chồng đã tìm hạnh phúc riêng.
Tóm lại: Đúng nh một nhà phê bình đã nhận xét Cảm hứng chủ đạo bậc nhất
trong sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Những ngày thơ ấu lại chính là niềm cảm
thơng vô hạn đối với ngời mẹ . Những dòng viết về mẹ là những dòng tình cảm
thiết tha của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên khi mở đầu tập hồi ký Những ngày
thơ ấu, nhà văn lại viết lời đề từ ngắn gọn và kính cẩn: Kính tặng mẹ tôi . Có lẽ
hình ảnh ngời mẹ đã trở thành nguồn mạch cảm xúc vô tận cho sáng tác của
5
Nguyên Hồng để rồi ông viết văn học bằng tình cảm thiêng liêng và thành kính

nhất.
2. Nguyên Hồng là nhà văn của trẻ thơ.
a. Nhà văn thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc cho nỗi khổ, nội bất hạh của
trẻ thơ.
Nhà văn thấu hiểu nỗi thống khổ cả vạt chất lẫn tinh thần : Cả thời thơ ấu
của Hồngđợc hởng những d vị ngọt ngào thì ít mà đau khổ thì không sao kể xiết :
Mồ côi cha, thiếu bàn tay chăm sóc của mẹ, phải ăn nhờ ở đậu ngời thân. Gia
đình và xã hội đã không cho em đợc sống cuộc sống thực sự của trẻ thơ nghĩa là
đợc ăn ngon, và sống trong tình yêu thơng đùm bọc của cha mẹ, ngời thân. Nhà
văn còn thấu hiểu cả những tâm sự đau đớn của chú bé khi bị bà cô xúc phạm
b. Nhà văn trân trọng, ngợi ca phẩm chất cao quý của trẻ thơ:
Tình yêu thơng mẹ sâu sắc mãnh liệt. Luôn nhớ nhung về mẹ. Chỉ mới
nghe bà cô hỏi Hồng, mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mợ mày không?,
lập tức, trong ký ức của Hồng trỗi dậy hình ảnh ngời mẹ.
Hồng luôn tin tởng khẳng định tình cảm của mẹ dành cho mình. Dẫu xa
cách mẹ cả về thời gian, không gian, dù bà cô có tính ma độc địa đến đâu thì
Hồng cũng quyết bảo vệ đến cùng tình cảm của mình dành cho mẹ. Hồng luôn
hiểu và cảm thông sâu sắc cho tình cảnh cũng nh nỗi đau của mẹ. Trong khi xã
hội và ngời thân hùa nhau tìm cách trừng phạt mẹ thì bé Hồng với trái tim bao
dung và nhân hậu yêu thơng mẹ sâu nặng đã nhận thấy mẹ chỉ là nạn nhân đáng
thơng của những cổ tục phong kiến kia. Em đã khóc cho nỗi đau của ngời phụ nữ
khát khao yêu thơng mà không đợc trọn vẹn. Hồng căm thù những cổ tục đó:
Giá những cổ tục kia là một vật nh thôi
Hồng luôn khao khát đợc gặp mẹ. Nỗi niềm thơng nhớ mẹ nung nấu tích tụ
qua bao tháng ngày đã khiến tình cảm của đứa con dành cho mẹ nh một niềm tín
ngỡng thiêng liêng, thành kính. Trái tim của Hồng nh đang rớm máu, rạn nứt vì
nhớ mẹ. Vì thế thoáng thấy ngời mẹ ngồi trên xe, em đã nhận ra mẹ, em vui mừng
cất tiếng gọi mẹ mà bấy lâu em đã cất dấu ở trong lòng.
c. Sung s ớng khi đ ợc sống trong lòng mẹ .
Lòng vui sớng đợc toát lên từ những cử chi vội vã bối rối từ giọt nớc mắt

giận hờn, hạnh phúc tức tởi, mãn nguyện.
d. Nhà thơ thấu hiẻu những khao khát muôn đời của trẻ thơ:
Khao khát đợc sống trong tình thơng yêu che chở của mẹ, đợc sống trong
lòng mẹ.
Buổi 3, 4.
Các yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi
6
phân tích thơ trữ tình
I. Đặc trng của thơ trữ tình và một số lỗi cần tránh.
Thơ là một hình thái nghệ thuật đặc biệt. Hệ thống cảm xúc, tâm trạng và
cách thể hiện tình cảm, cảm xúc đợc xem nh là đặc trng nổi bật của thơ trữ tình.
Trong các tác phẩm thuộc các thể loại nh văn xuôi tự sự, kịch, cũng có cảm xúc,
tâm trạng, nhng cách thể hiện thì rất khác so với thơ trữ tình. Cảm xúc của tác giả
có trong các thể loại văn học kể trên là thứ cảm xúc đợc thể hiện một cách gián
tiếp thông qua hệ thống hình tợng nhân vật, các sự kiện xã hội và diễn biến của
câu chuyện Trái lại, trong thơ trữ tình, tác giả bộc lộ trực tiếp cảm xúc của
mình. Rõ ràng khi đọc đoạn thơ:
Nay xa cách lòng tôi luôn tởng nhớ
Màu nớc xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá !
( Quê hơng - Tế Hanh)
ngời đọc cảm nhận đợc rất rõ tấm lòng và tình cảm nhớ nhung da diết của
nhà thơ Tế Hanh đối với quê hơng, nơi ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó một
thời. ở đây nhà thơ công khai và trực tiếp nói lên những tình cảm, suy nghĩ
của chính mình. Khác với cách thể hiện tình cảm trong thơ, các em hãy đọc
đoạn văn sau:
Hôm sau lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão bảo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ !
- Cụ bán rồi ?

- Bán rồi ! Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vui vẻ. Nhng trông lão cời nh mếu và đôi mắt lão ầng ậng n-
ớc
- Thế nó cho bắt à ?
Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nớc
mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu
nh con nít. Lão hu hu khóc
( Nam Cao - Trích Lão Hạc)
Ngời kể chuyện ở đây xng tôi, nhng tôi đây là ông giáo chứ không phải là
Nam Cao. Nhà văn hoàn toàn không xuất hiện mà luôn dấu mình đi. Trong trang
sách chỉ có ông giáo kể lại câu chuyện. Nh thế phải qua cách kể chuyện và miêu
tả của nhân vật ông giáo về nỗi ân hận, đau khổ đến cùng cực của lão Hạc, chúng
ta mới thấy đợc tấm lòng thông cảm, thái độ trân trọng mến yêu của Nam Cao đối
với nhân vật này.
Trong nhiều bài thơ trữ tình, nhà thơ xng bằng ta, chẳng hạn : Ta nghe hè
dậy bên lòng - Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi ( Khi con tú hú - Tố Hữu)
7
hoặc nhiều khi không thấy xng tôi hay ta gì cả, mà chỉ thấy một ai đó đang lẳng
lặng kể, tả và tâm sự, tâm tình, chẳng hạn : Năm nay hoa đào nở - Không thấy
ông đồ xa - Những ngời muôn năm cũ- Hồn ở đâu bây giờ ( Ông đồ - Vũ Đình
Liên ). Trong trờng hợp nh thế, ngời xng ta hoặc không xng gì cũng đều là chính
nhà thơ. Nghĩa là sau câu thơ vẫn thấy hiện lên rất rõ tấm lòng và tình cảm sâu
nặng của tác giả. Có những trờng hợp nhà thơ mợn lời của một nhân vật nào đó,
nhập vai vào một ai đó mà thổ lộ tâm tình ( ngời ta gọi là trữ tình nhập vai) thì
thực chất nhân vật trữ tình đó cũng chính là tác giả. Thế Lữ mợn lời con hổ trong
vờn bách thảo để dốc bầu tâm sự của chính ông về nỗi chán ghét cái xã hội giả
dối, nghèo nàn, nhố nhăng, ngớ ngẩn đơng thời; để nói lên khát vọng tự do, khát
vọng về cái thời một đi không trở lại Trong trờng hợp này, khi ông viết: Ta
sống mãi trong tình thơng nỗi nhớ - Thuở tung hoành hống hách những ngày xa
thì ta là con hổ và cũng chính là Thế Lữ.

Phân tích thơ trữ tình thực chất là chỉ ra tiếng lòng sâu thẳm của chính nhà
thơ. Nhng tiếng lòng ấy lại đợc thể hiện rất cô đọng và hàm xúc bằng một hình
thức nghệ thuật độc đáo - nghệ thuật ngôn từ. Tiếp xúc với một bài thơ trữ tình tr-
ớc hết là tiếp xúc với các hình thức nghệ thuật ngôn từ này. Nhà thơ gửi lòng
mình qua những con chữ, trong những con chữ và các hình thức biểu đạt độc đáo
khác. Tất cả thái độ sung sớng, hả hê, bõ hờn của Nguyễn Khuyến đối với tên
quan tuần mất cớp đợc gửi qua chữ lèn trong câu thơ Tôi nghe kẻ cớp nó lèn
ông. Tiếng kêu đau đớn, đột ngột của nhà thơ Tố Hữu trớc sự ra đi của chú bé
liên lạc đợc thể hiện qua chữ thôi rồi và hình thức gãy nhịp của câu thơ Bỗng loè
chớp đỏ - Thôi rồi, Lợm ơi ! (Lợm) Nh thế, phân tích thơ trữ tình trớc hết phải
xuất phát từ chính các hình thức nghệ thuật ngôn từ mà chỉ ra vai trò và tác dụng
của chúng trong việc thể hiện tình cảm, thái độ của nhà thơ.
Nắm chắc đặc điểm và yêu cầu trên, HS cũng sẽ tránh đợc các lỗi dễ mắc
trong việc phân tích và cảm thụ thơ trữ tình. Trong các bài phân tích, bình giảng
thơ trữ tình, HS thờng mắc một số lỗi sau đây:
a, Chỉ phân tích nội dung và t tởng đợc phản ánh trong bài thơ, không hề
thấy vai trò của hình thức nghệ thuật. Đây thực chất chỉ là diễn xuôi nội dung bài
thơ ra mà thôi.
b, Có chú ý đến các hình thức nghệ thuật, nhng tách rời các hình thức nghệ
thuật ấy ra khỏi nội dung (thờng là gần đến kết bài mới nói qua một số hình thức
nghệ thuật đợc nhà thơ sử dụng trong bài).
c, Suy diễn một cách máy móc, gợng ép, phi lí các nội dung và vai trò, ý
nghĩa của các hình thức nghệ thuật trong bài thơ. Nghĩa là nêu lên các nội dung t
tởng, tình cảm không có trong bài; phát hiện sai các hình thức nghệ thuật hoặc
bắp épcác hình thức này phải có vai trò tác dụng nào đó trong khi chúng chỉ là
những hình thức bình thờng
Tóm lại, để phân tích thơ trữ tình có cơ sở khoa học, có sức thuyết phục
phải cần đến rất nhiều năng lực, nhng trớc hết ngời phân tích cần nắm đợc một số
hình thức nghệ thuật ngôn từ mà các nhà thơ thờng vận dụng để xây dựng nên tác
8

phẩm của mình. Đây chính là cơ sở đáng tin cậy nhất để ngời đọc mở ra đợc
cánh cửa tâm hồncủa mỗi nhà thơ ở mỗi bài thơ.
II. Một số yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích thơ trữ tình
Đọc tác phẩm văn học trớc hết chúng ta tiếp xúc với những hình thức thể
hiện cụ thể của ngôn từ nghệ thuật. Đó là những dấu câu và cách ngắt nhịp, là vần
điệu, âm hởng và nhạc tính, là từ ngữ và hình ảnh, là câu và sự tổ chức đoạn
văn, là văn bản và thể loại của văn bản Phân tích tác phẩm văn học không đợc
thoát li văn bản có nghĩa là trớc hết phải biết bám sát các hình thức biểu hiện trên
của ngôn từ nghệ thuật, chỉ ra vai trò và ý nghĩa của chúng trong việc thể hiện nội
dung.
1. Nhịp thơ
Nhịp điệu có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thơ trữ tình. Nó
giúp nhà thơ nâng cao khả năng biểu cảm, cảm xúc. Phân tích thơ trữ tình, không
thể không chú ý phân tích nhịp điệu. Để xác định đợc nhịp điệu của từng bài thơ,
ngoài việc đọc từng câu thơ cho ngân vang âm điệu và làm bừng sáng hình ảnh
thơ, việc nắm đợc đặc điểm chung về nhịp điệu của từng thể loại cũng là điều rất
cần thiết. Thông thờng, nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại thanh
thoát; nhịp của thơ thất ngôn bát cú hài hòa, chặt chẽ; nhịp của thơ tự do, thơ hiện
đại rất phóng khoáng, phong phú.
Có lần trong một cuộc hội thảo về truyện ngắn, nhà văn Tô Hoài đã than
phiền rằng: nhiều ngời viết văn bây giờ hình nh quên hết cả các dấu câu. Ông thật
có lý khi cho rằng dấu câu là một hình thức của chữ, của từ . Thật ra không phải
chỉ có dấu câu mà ngay cả cách ngắt nhịp cũng cần đợc xem là một từ đa nghĩa,
một từ đặc biệt trong vốn ngôn ngữ chung của nhân loại. Các em đều biết rằng
trong những tình huống giao tiếp thông thờng của cuộc sống, im lặng lắm khi lại
nói đợc rất nhiều: khi căm thù tột đỉnh, lúc xao xuyến bâng khuâng, khi cô đơn
buồn bã, lúc xúc động dâng trào Những cung bậc tình cảm này nhiều khi không
thể mô tả đợc bằng chữ nghĩa. Dấu câu và sự ngắt nhịp là một trong những phơng
tiện hữu hiệu để thể hiện "sự im lặng không lời". Nhiều khi ngời ta chỉ nghĩ đến
nhiệm vụ của dấu câu là tách ý, tách đoạn của câu văn . Thực ra bên cạnh nhiệm

vụ ấy, dấu câu và sự ngắt nhịp còn có một chức năng rất quan trọng, đó là tạo nên
"ý tại ngôn ngoại", hàm nghĩa và gợi ra những điều mà từ không nói hết, nhất là
trong thơ. Tâm trạng nhà thơ chi phối trực tiếp cách tổ chức, vận hành nhịp điệu
của bài thơ. Với cảm xúc ào ạt, sôi nổi, đầy hứng khởi trớc khí thế lao động sản
xuất của miền Bắc thời kỳ bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tố Hữu có những
câu thơ với nhịp điệu nhanh mạnh , khỏe khoắn, linh hoạt và sôi nổi:
Đi ta đi! Khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?
Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?
9
(Bài ca mùa xuân 1961)
Trớc hiện thực đổi thay ở một vùng quê, nơi mình từng hoạt động bí mật,
Tố Hữu hồi tởng những tháng ngày đã qua với những xúc động bồi hồi. Tâm trạng
nôn nao, xao xuyến của một ngời lâu ngày quay trở lại chốn cũ đầy kỷ niệm đã đ-
ợc ông thể hiện bằng một nhịp điệu chậm, sâu lắng, phù hợp với sự hồi tởng và
chiêm nghiệm:
Mời chín năm rồi. Hôm nay lại bớc
Đoạn đờng xa, cát bỏng lng đồi.
Ôi có phải sóng bồi thêm bãi trớc
Hay biển đau xa rút nớc xa rồi?
(Mẹ Tơm)
Câu thơ của Chế Lan Viên " Đất nớc đẹp vô cùng . Nhng Bác phải ra đi ",
nhiều học sinh đọc một mạch, bỏ quên cái dấu chấm giữa dòng thơ, đã làm mất đi
bao sức gợi cảm sâu lắng, thiết tha, diễn tả một sự nuối tiếc, đau đớn đến xót xa
trong lòng ngời ra đi khi phải xa tổ quốc .
Để ngắt nhịp ngời ta thờng dùng dấu câu, nhng nhiều khi không có dấu
câu. Trong trờng hợp này, các em cần phải thông nghĩa, hiểu ý mới ngắt nhịp
đúng. Câu thơ của Tố Hữu Càng nhìn ta lại càng say", có em đọc" Càng nhìn /

ta lại càng say "(nhịp 2/ 4), nhng thực ra phải đọc là " Càng nhìn ta / lại càng say
"( nhịp 3/ 3 ). Vì ở đây ý thơ muốn thể hiện là : ai đó (thế giới) càng nhìn ta (Việt
Nam) thì càng say lòng chứ không phải ta tự say ta. Cũng nh thế câu thơ của
Xuân Diệu :" Một chiếc xe đạp băng vào bóng tối ", nếu không chú ý các em sẽ
đọc thành:"Một chiếc xe đạp / băng vào bóng tối ". Nhng đúng ra phải đọc
là:"Một chiếc xe / đạp băng vào bóng tối ". ở đây, điều mà Xuân Diệu muốn
nhấn mạnh là hành động "đạp băng" chứ không phải chiếc "xe đạp". Câu thơ của
Tản Đà " Non cao tuổi vẫn cha già", có em đọc : Non cao tuổi / vẫn cha già và
hiểu là non dù đã cao tuổi nhng vẫn còn trẻ (cha già). Nhng thực ra ở đây cao
không phải là nhiều tuổi mà cao là độ cao, là núi cao ngất non cao những ngóng
cùng trông hoặc Non cao đã biết hay cha?. Trong nhiều trờng hợp, sự xuống
dòng tiên tục tạo nên sự gãy nhịp liên tục, đột ngột của tác giả có một dụng ý hay
đúng hơn có một ý nghĩa, một tác dụng rất sâu sắc trong việc thể hiện nội dung.
Câu thơ: "Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt" (chín chữ) đợc nhà thơ
Hữu Loan xé thành 6 dòng thơ:
Màu tím hoa sim
tím
chiều
hoang
biền
biệt
10
ở bài thơ này, nhiều câu thơ bị cắt ra nh thế. Cả bài thơ vỡ vụn đã thể hiện
đợc nỗi đau tan nát, tiếng khóc đứt đoạn, nghẹn tắc, hạnh phúc tan thành nhiều
mảnh, đứt ra nhiều đoạn, không có gì hàn gắn nổi.
Dấu câu và cách ngắt nhịp không chỉ quan trọng với thơ mà ngay cả khi
đọc văn xuôi, các em cũng cần chú ý . Thử đọc hai đoạn văn sau đây :
Đoạn 1 : Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đờng rụng nhiều và trên
không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỉ niệm mơn man
của buổi tựu trờng . Tôi quên thế nào đợc những cảm giác trong sáng ấy nảy nở

trong lòng tôi nh mấy cành hoa tơi mỉm cời giữa bầu trời quang đãng " ( Tôi đi
học - Thanh Tịnh )
Đoạn 2 : Không đợc ! Ai cho tao lơng thiện ? Làm thế nào cho mất đợc
những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là ngời lơng thiện nữa . Biết
không ! Chỉ còn một cách biết không ! Chỉ còn một cách là cái này ! Biết
không ! Hắn rút dao ra, xông vào, Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng
dao tới rồi . ( Chí Phèo - Nam Cao )
Đoạn văn của Thanh Tịnh 62 chữ, chỉ có 2 câu, 2 dấu chấm và 2 dấu phảy,
nhịp điệu nhẩn nha, không có gì gấp gáp, vội vàng . Cả đoạn văn là những tiếng
nói thì thầm, nhỏ nhẹ nh lá rụng cuối thu, lãng đãng nh mây bạc lng trời Tất cả
nhằm diễn đạt một tâm trạng, một tấm lòng đang" náo nức những kỉ niệm mơn
man của buổi tựu trờng" .
Đoạn văn của Nam Cao 63 chữ ( tơng đơng với đoạn trên )nhng đợc chia làm 9
câu với 5 dấu cảm thán, 4 dấu chấm lửng, 3 dấu chấm phẩy, 2 dấu chấm hỏi và 2
dấu chấm khiến nhịp điệu câu văn trở nên gấp gáp, khẩn trơng Cha kể đến sự
cộng hởng của ngữ nghĩa do các từ ngữ và hình ảnh, chỉ riêng nhịp điệu do hệ
thống dấu câu ở trên tạo nên đã giúp Nam Cao tái hiện rất thành công cuộc đối
mặt quyết liệt và dữ dội giữa Chí Phèo và Bá Kiến . Cả cuộc đời Chí triền miên
trong cơn say, mệt mỏi và u tối . Bỗng giây phút này hắn bừng tỉnh và sáng láng.
Giây phút ấy dờng nh rất ngắn ngủi nên Chí phải nói rất nhanh, làm rất gấp, tức
khắc và quyết liệt Chính cách chấm câu và ngắt nhịp ấy đã giúp Nam Cao diễn
tả rất thành công tâm trạng uất ức, dồn nén và tình thế gấp gáp khẩn trơng của
màn bi kịch này.
Đọc đoạn văn của Thanh Tịnh, ai đọc nhanh, gấp và lên giọng thì hỏng . Ng-
ợc lại không thể đọc đoạn văn của Nam Cao với giọng nhỏ nhẹ, nhẩn nha đợc .
Tóm lại khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, nhất là khi đọc bằng mắt, các
em cần lu ý đến hình thức dấu câu và xem cách ngắt nhịp của tác giả có gì đặc
biệt. Làm nh thế, trớc hết là để đọc cho đúng, cho diễn cảm và sau đó hãy phân
tích và chỉ ra ý nghĩa cũng nh tác dụng của hình thức ấy trong việc biểu hiện nội
dung.

2. Vần thơ
Tiếng Việt rất giàu nhạc tính. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là những
yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của tiếng Việt nói chung và ngôn từ văn học nói
11
riêng, nhất là thơ. Vần hiểu một cách đơn giản là một âm không có thanh điệu do
nguyên âm hoặc nguyên âm kết hợp với phụ âm tạo nên. Ví dụ, các tiếng lan, tan,
man, tàn. đều có chung một vần an, hoặc mẹ, nhẹ, té, xẻ. có chung một vần e. Nh
thế, gieo vần trong thơ là sự lặp lại các vần hoặc những vần nghe giống nhau giữa
các tiếng ở những vị trí nhất định. Đó là sự phối hợp âm thanh trong từng câu và
trong cả bài; là sự cộng hởng của các âm có cùng một vần và cùng thanh bằng
hoặc thanh trắc. Ví dụ:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe nh non nớc vọng lời nghìn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơng nh tiếng mẹ ru những ngày.
Hỡi Ngời xa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Ngời!
(Tố Hữu, Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Vần của các câu đợc hiệp vần với nhau trong đoạn thơ trên là sự hài hòa
trên cùng một âm vực cao thấp, một trờng độ âm thanh phát ra. Đó là sự hài hòa
có đợc từ việc phối âm giữa các từ trong một cặp câu lục bát. Xét từng cặp câu
chúng ta thấy có sự hòa âm giữa câu câu (1) và (2), giữa câu (3) và (4), giữa câu
(5) và (6) nhờ vào những âm giống nhau giữa từ thứ 6 câu lục và từ thứ 6 câu bát.
Âm giống nhau là do vần có chung thanh bằng (trời-lời, du-ru, nay-dây) và có
cùng chung phần vần (ời-ời, u-u) hoặc phần vần na ná nhau (ay-ây). Với sự hòa
âm này, các câu thơ nh níu kéo, lu giữ lấy nhau trong từng đoạn hay cả bài thơ.
Một chỉnh thể âm thanh hài hòa uyển chuyển do những vần có thanh bằng liên kết
với nhau nh tạo ra sự trầm lắng về âm điệu cũng nh hồn thơ góp phần không nhỏ
trong việc biểu đạt có hiệu quả tâm trạng thơng cảm, mến phục và trân trọng của
Tố Hữu đối với thi hào Nguyễn Du.

Căn cứ vào cấu trúc âm thanh - sự hòa âm của vần ngời ta chia thành vần
chính và vần thông. Vân chính là vần có âm giống nhau:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe nh non nớc vọng lời nghìn thu
vần thông là vần có âm na ná nh nhau:
Nhân tình nhắm mắt, cha xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Nh ?
(Tố Hữu - Kính gửi cụ Nguyễn Du).
Căn cứ vào vị trí các từ hiệp vần với nhau để chia thành vần lng và vần
chân. Vần lng là lối gieo vần đứng giữa câu. Trong các câu thơ trên, từ thứ 6 (lời,
ru, đây, cùng) của câu bát hiệp vần với từ cuối (trời, du, nay, xong) của câu lục.
Vần chân là lối hiệp vần ở cuối câu:
Chẳng phải rằng ngây chẳng phải đần,
Bởi vì nhà khó hóa bần thần.
12
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo,
Nghĩ phận thằng cùng phải biết thân.
(Nguyễn Công Trứ - Cảnh nghèo)
Trong cách phân chia vần theo vị trí của các từ hiệp vần với nhau, lại còn
có thể chia ra thành các loại:
- Vần liền (ví dụ đoạn thơ trích dẫn trên của Tố Hữu, bài thơ Thề non nớc
của Tản Đà).
- Vần cách: Trời đất cho ta một cái tài,
Giắt lng dành để tháng ngày chơi.
Dở duyên với ruợu khôn từ chén,
Chót nợ cùng thơ phải chuốt lời.
(Nguyễn Công Trứ - Cầm kỳ thi tửu)
- Vần hỗn hợp (ví dụ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Cảnh nghèo của
Nguyễn Công Trứ, Tràng giang của Huy Cận).
Một trong những tác dụng quan trọng của vần là tạo nên âm hởng vang

ngân trong thơ, từ đó mà diễn đạt và thể hiện nội dung. Đọc đoạn thơ sau:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đờng bạch dơng sơng trắng nắng tràn
Anh đi nghe tiếng ngời xa vọng
Một giọng thơ ngâm một giọng đàn
ở đây vần chính là an (tan, tràn, đàn)) nhng bên cạn đó, nhà thơ còn sử
dụng rất nhiều vần khác (lan/ tan, dơng/ sơng, trắng/ nắng, vọng/ giọng). Trong
bốn dòng thơ, hàng loạt các vần liên tiếp xuất hiện, tạo nên một khúc nhạc ngân
nga, diễn tả một niềm vui phơi phới nh muốn hát lên của nhà thơ khi đứng trớc
mùa xuân của đất nớc Ba Lan.
Bên cạnh vần điệu, tiếng Việt còn rất giàu thanh điệu. Với 6 thanh (huyền,
sắc, hỏi, ngã, nặng và thanh không), chúng ta có thể nâng cao hoặc hạ thấp giọng
nói, tạo nên sự lên bổng, xuống trầm. Ví dụ: sang là một âm tiết mang thanh
không. Lần lợt thay các thanh ta có: sáng, sảng, sạng, sẵng, sàng. Ngời ta chia 6
thanh trên làm 2 loại bổng và trầm hoặc bằng và trắc. Loại vần bằng do thanh
huyền và thanh không đảm nhận, vần trắc do các thanh còn lại (sắc, nặng, hỏi,
ngã) thể hiện. Nhìn chung những vần bằng thờng diễn tả sự nhẹ nhàng bâng
khuâng chơi vơi còn vần trắc thờng diễn tả sự trúc trắc, nặng nề, khó khăn, vấp
váp Về nguyên tắc, bình thờng trong các câu thơ, những vần bằng, trắc đan xen
nhau, phối hợp với nhau, nhng khi mô tả, khắc sâu một ấn tợng, một cảm xúc,
một tâm trạng theo một cung bậc tình cảm nào đó các nhà thơ thờng sử dụng liên
tiếp một loại vần.
Những câu thơ sau dùng toàn vần bằng tạo nên một âm hởng rất đặc biệt:
- Sơng nơng theo trăng ngừng lng trời
13
Tơng t nâng lòng lên chơi vơi
(Xuân Diệu)
- Ô hay buồn vơng cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông
(Bích Khê)

- Mùa xuân cùng em lên đồi thông
Ta nh chim bay trên tầng không
(Lê Anh Xuân)
Ngợc lại có những câu thơ, số lợng vần trắc xuất hiện rất nhiều, cũng tạo
nên những âm hởng lạ, cần đợc chú ý:
- Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh
(Nguyễn Du)
- Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
(Quang Dũng)
Có khi hai loại vần này lại sóng đôi nhằm diễn đạt một tâm trạng phức tạp.
Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hơng
(Tản Đà)
Câu trên với 5 thanh trắc liên tục diễn tả một tâm trạng nh bị dồn nén, uất
ức, nghẹn tắc. Câu dới lại toàn thanh bằng vừa nh một tâm sự, buông thả, phó mặc
vừa nh một tiếng thở dài.
Có khi vần bằng, trắc đợc sử dụng nh một biện pháp chơi chữ: Mỗi một câu
thơ là một loại vần do một thanh đảm nhận nh bài thơ Tình hoài của Lê Ta trong
phong trào Thơ mới:
Trời buồn làm gì trời rầu rầu
Em không yêu anh em đi đâu
Lắng thấy tiếng suối thấy tiếng khóc
Một bụng một dạ một nặng nhọc
ảo tởng chỉ để khổ thêm tủi
Nghĩ mãi, gỡ mãi lỗi vẫn lỗi
Thơng thay cho anh, căm thay em
Tình hoài càng ngày càng tày đình.
Tạo nên nhạc tính của thơ thực ra không chỉ có vần và hệ thống thanh điệu
mà ngay cả các âm tiết trong mỗi tiếng cũng có những giá trị nhất định. Theo GS.
Đinh Trọng Lạc: âm i gợi sự ngân dài: "Đi ta đi khai phá rừng hoang" (Tố Hữu),

âm u: gợi sự u sầu, bâng khuâng: "Hoa cánh trắng dắt tay vào lối cũ" (Thanh
Thảo). Âm a gợi sự tơi vui, bao la: "Nhìn nhau mặt lấm cời ha ha" (Phạm Tiến
Duật). Âm eo gợi êm đềm, trong trẻo: "Ao thu lạnh lẽo nớc trong veo", "Ngõ trúc
14
quanh co khách vắng teo" (Nguyễn Khuyến). Âm r gợi sự hãi hùng, run sợ:
"Rung rinh bậc cửa tre gầy" (Tố Hữu), hoặc "Những luồng run rẩy rung rinh lá"
(Xuân Diệu), Âm ơi gợi sự phơi phới, mở ra: "Câu hát căng buồm cùng gió
khơi" và "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi" (Huy Cận).
Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rất chính xác về các phụ âm mở đầu
bằng kh nh: khú, khai, khắm, khắc nghiệt, khắt khe, khấp khểnh, khủng khiếp,
khắm lằm lặm, khét lèn lẹt, khai mò mò. Ông viết: "Tôi có ấn tợng là phụ âm
kh hay nhấn vào khía tiêu cực của những biểu hiện sự sống Những từ ấy rất
liên quan tới ngũ giác của ngời Việt Nam. nhắc đến những việc, những trạng
thái không đợc vừa mũi, vừa mắt, vừa tai, không đợc "vừa lòng" (Chuyện
nghề).
Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ nữa để minh hoạ cho tính nhạc của ngôn ngữ
Việt trong thơ. Song điều cần lu ý các em khi đọc, phân tích TPVH (nhất là thơ)
cần hết sức chú trọng yếu tố này. Một khi thấy âm điệu, âm hởng, nhạc điệu của
câu thơ không bình thờng, có sự chuyển đổi (dĩ nhiên là phải tạo nên đợc hiệu quả
thẩm mĩ nhất định) thì hãy tập trung phân tích chỉ ra giá trị (vai trò và tác dụng)
của chúng trong việc thể hiện nội dung.
3. Từ ngữ và các biện pháp tu từ
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ.
Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của TPVH không thể có cách nào khác là nhờ
vào hệ thống từ ngữ này. Các phơng tiện nh dấu câu, nhịp điệu, ngữ âm ở trên
cũng chỉ có ý nghĩa khi nằm trong một văn bản mà từ ngữ là nền tảng. Nhà văn
muốn mô tả, tái hiện hiện thực phải thông qua từ ngữ. Muốn nói đến nỗi lòng của
mình, tình cảm và t tởng của mình cũng phải thông qua từ ngữ. Muốn đánh giá đ-
ợc nhà văn viết về những điều đó nh thế nào lại cũng phỉ thông qua chữ nghĩa
trong tác phẩm "Văn học là nghệ thuật của ngôn từ" chính là nh vậy. Do tầm

quan trọng ấy mà ngời ta coi lao động của nhà văn là thứ lao động chữ nghĩa, nhà
văn là phu chữ Có thể nói ngôn từ là một đặc trng quan trọng và nổi bật của văn
học. Vì thế các em cần lu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Phân tích TPVH không thể thoát li và bỏ qua yếu tố từ ngữ.
Muốn phân tích tốt từ ngữ, trớc hết phải nắm vững nghĩa của từ (nghĩa chung và
nghĩa trong văn cảnh cụ thể) sau đó luôn luôn suy nghĩ để trả lời các câu hỏi:
- Sại sao tác giả dùng từ này mà không dùng từ khác?
- Tại sao từ ngữ này lại xuất hiện nhiều nh thế?
- Có bao nhiêu từ đồng nghĩa với từ ấy? Có thể thay từ ấy bằng một từ ngữ
khác đợc không?
- Trong câu ấy, đoạn ấy, những từ ngữ nào cần gây chú ý phân tích. ở đây
cũng cần nhắc em, trong một đoạn, một bài văn, bài thơ không phải từ nào, câu
nào cũng đáng phân tích, cũng có giá trị nh nhau, chính vì thế biết phát hiện
những từ ngữ đáng phân tích cũng là một năng lực, một trình độ. Trong thực tế
không ít em rơi vào tình trạng hoặc là phân tích tất cả, câu nào cũng phân tích, từ
15
nào cũng khen hay, hoặc là từ ngữ đáng phân tích thì lại bỏ qua, từ không đáng
dùng thì say sa tán tụng. Trong trờng hợp phân tích những tác phẩm văn học dịch
phải thật thận trọng khi phân tích từ ngữ. Bởi vì những từ đợc đa ra bình giá cha
chắc đã phải là những từ mà tác giả dùng trong nguyên bản.
Thứ hai: Ngời ta nói nhiều đến việc phân tích hình ảnh trong TPVH. Bởi vì
cách nói của văn học, cách thể hiện của văn chơng là cách nói, cách viết bằng
hình ảnh. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhng hình ảnh trong tác phẩm văn học là gì,
nếu không phải là do hệ thống từ ngữ tạo nên. Vì thế phân tích hình ảnh thực ra là
phân tích từ ngữ. Câu thơ của Nguyễn Du tả chân dung Tú Bà:
Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao
(Truyện Kiều)
vẽ chính xác thần thái của một mụ chủ nhà chứa, bọn buôn thịt bán ngời. Ta cũng
thấy rõ thái độ của tác giả đối với loại ngời nh thế. Chữ nhờn nhợt lột tả đợc rõ

nét nhất thần thái của Tú Bà! thật khó diễn tả bằng những từ ngữ khác: vừa bóng
nhẫy, vừa mai mái hay vàng bủng chăng? Có lẽ chỉ có thể nói nh Nguyễn Công
Hoan sau này về một bộ mặt cũng thuộc loại Tú Bà: bộ mặt "thiếu vệ sinh". Có
nhà phê bình cho rằng, đọc câu thơ ấy, ta có cảm giác lợm giọng là vì thế. Còn
hai chữ ăn gì lại dờng nh muốn liệt mụ chủ chứa này vào một giống loài gì đó,
không phải giống ngời. Bởi vì giống ngời thì ăn cơm, ăn gạo, ăn thịt, ăn cá chứ ăn
gì.
Hệ thống từ ngữ gợi hình ảnh, cảm giác trong tiếng Việt rất phong phú, đa
dạng. Ví dụ:
- Gợi về tâm trạng nh: xao xuyến, bâng khuâng, phân vân
- Gợi về thị giác nh: la đà, lơ lửng, chấp chới.
- Gợi về thính giác nh: sầm sập, rì rào, thánh thót
- Gợi về vị giác nh: mặn chát, chua lòm, ngọt lịm
- Gợi về xúc giác nh: lạnh ngắt, nóng bỏng, xù xì
Chính do sức gợi này mà nhà văn Nguyễn Tuân tâm sự nh khuyên nhủ các nhà
văn khi cầm bút:
"Đã nghĩ kỹ rồi mới cầm bút mà viết ra. Nhng khi đã viết ra rồi, cha có
nghĩa là xong hẳn. Viết ra nhng mà đọc lại ( ). Tự mình duyệt lấy lời viết của
mình (). Cặp mắt soi xuống dòng trang vẫn là giữ vai trò cầm chịch (). Nhng
cặp mắt cha đủ để lọc hết mọi bụi bặm vẫn còn bám theo cai tiếng vừa phát biểu
của mình. Cho nên phải dùng cả cái tai của mình nữa (). Ngoài việc soi lắng,
hình nh phải ngửi lại, nếm lại cái lời mình viết ra kia, trớc khi bng nó ra cho ngời
khác thởng thức (). Có khi lại nh chính lòng bàn tay mình phải sờ lại những góc
cạnh câu viết của mình, xem lại có nên cứ gồ ghề chân chất nh thế, hay là nên gọt
nó tròn trĩnh đi thì nó dễ vào lỗ tai ngời tiêu thụ hơn" (Về tiếng ta - Tuyển tập
Nguyễn Tuân. Nxb Văn học, H. 1982).
16
Thứ ba: Để tạo cách nói, cách viết có hình ảnh, gợi hình tợng bằng từ ngữ,
các nhà văn có thể vận dụng nhiều cách: khi thì dùng từ láy:
Lng dậu phất phơ làn khói nhạt

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Nguyễn Khuyến)
Hoặc
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi,
Mà ma xối xả trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
Khi thì dũng những từ ngữ tợng hình, tợng thanh:
Thuyền câu thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trớc nhà
(Nguyễn Khuyến)
Ngay cả trong văn xuôi cũng vậy. Hình ảnh lão Hạc đợc Nam Cao khắc
hoạ bằng một đoạn văn ngắn với một số từ rất gợi hình tợng: "Mặt lão đột nhiên
co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nớc mắt chảy ra. Cái đầu lão
nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu nh con nít. Lão hu hu
khóc" (Lão Hạc).
Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc cũng đợc các nhà văn sử dụng rất hiệu quả
trong việc miêu tả hiện thực.
Cỏ non xanh dợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Nguyễn Du)
hoặc:
"Lng trời ai nhuộm mà xanh ngắt"
(Nguyễn Khuyến)
" Cửa son đỏ loét tùm hum nóc"
(Hồ Xuân Hơng).
- "Trắng phau nội cỏ cửu phơi tuyết"
(Tố Hữu)
- "Trông lên mặt sắt đen xì"
(Nguyễn Du)
Đây là đoạn văn Nguyễn Tuân tả màu sắc của sông Đà: "Mùa xuân dòng

xanh ngọc bích, chứ nớc sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm,
sông Lô. Mùa thu nớc sông Đà lừ lừ đỏ nh da mặt một ngời bầm đi vì rợu bữa, lừ
lừ cái mầu đỏ giận dữ ở một ngời bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về" "Ngời lái đò
sông Đà" v.v
17
Hệ thống tính từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt là hết sức tinh diệu. Đã khi
nào các em thử thống kê tất cả các màu trắng, đỏ hay xanh ra trớc mặt cha ? Cứ
thử đi sẽ thấy từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt thật kỳ lạ . Này nhé nếu là màu
trắng, ta có : Trắng bệch, trắng toát, trắng bong, trắng tinh, trắng nõn, trắng
xoá, trắng phau, trắng ngần, trắng muốt, trắng ngà, trắng hếu, trắng dã, trắng
ngà, trắng nhởn, trắng nhợt, trắng bóc, trắng lốp, trắng lôm lốp, trắng nuột,
trắng ởn, trắng phếch, trắng trẻo, trắng trong Nếu là màu Xanh lại có : xanh
um, xanh nhạt, xanh thẫm, xanh non, xanh lợt, xanh lè, xanh lét, xanh rờn, xanh
rì, xanh lam, xanh biếc, xanh lơ, xanh mét, xanh ngắt, xanh ngăn ngắt, xanh rớt,
xanh xao Với màu Đỏ bạn có thể kể : đỏ au, đỏ bừng, đỏ choé, đỏ chói, đỏ
chót, đỏ chon chót, đỏ nọc, đỏ gay, đỏ hoe, đỏ hoen hoét, đỏ hỏn, đỏ hon hỏn, đỏ
kè, đỏ khé, đỏ nhừ, đỏ khè, đỏ loét, đỏ lòm, đỏ lừ, đỏ lự, đỏ lựng, đỏ ngầu, đỏ ối,
đỏ quạch, đỏ rực, đỏ tơi, đỏ ửng, đỏ cạch, Với các tính từ trên khi chuyển sang
tiếng Pháp, tiếng Anh, thờng ngời ta chỉ thêm vào chữ rất (très - Pháp hoặc very -
Anh ). Chẳng hạn : xanh um, xanh rờn là très bleu ( rất xanh ) hoặc đỏ au, đỏ
chót, đỏ rực đều đợc dịch là : rouge vif ( rouge : đỏ, vif : tơi ), còn trắng toát,
trắng bệch là très blanc (rất trắng). Trong khi mỗi từ trên của tiếng Việt có một
sắc thái biểu cảm đôi khi rất khác nhau, ví nh trắng toát là thứ trắng chói mắt,
trắng bệch là trắng mất sinh khí, trắng bong là trắng nh mơí, trắng tinh là trắng
nguyên chất, trắng xoá là trắng rộng khắp một vùng, trắng phau là trắng sạch sẽ,
trắng ngần là trắng sạch và trong, trắng muốt là trắng sạch mà trơn nhẵn, trắng
ngà là trắng quý phái, trắng hếu là trắng nhô ra thô bỉ, trắng dã là chỉ màu mắt kẻ
gian giảo, trắng nhởn là trắng lố bịch ( chỉ răng hoặc mắt ) vv. Và nh thế sẽ là
rất khó khi dịch những câu thơ sau ra một ngôn ngữ khác sao cho lột tả hết đợc
các màu sắc ấy :

- Cầu trắng phau phau đôi ván ghép ( Hồ Xuân Hơng )
- Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ ( Bà Huyện Thanh quan )
- Tiếc thay hạt gạo trắng ngần ( Ca dao )
- Rõ ràng trong ngọc trắng ngà ( Nguyễn Du )
- Bữa thấy bong bong che trắng lốp muốn tới ăn gan ( Đồ Chiểu )
- Có phải thịt da em mềm mại trắng trong ( Lâm Thị Mỹ Dạ )
- Hòn đá xanh rì lún phún rêu ( Hồ Xuân Hơng )
- Cỏ non xanh rợn chân trời ( Nguyễn Du )
- Lng trời ai nhuộm mà xanh ngắt ( Nguyễn Khuyến )
- Xanh om cổ thụ tròn xoe tán ( Bà Huyện Thanh Quan )
- Tháng tám mùa thu xanh thắm ( Tố Hữu )
- Cửa son đỏ loét tùm hum nóc ( Hồ Xuân Hơng )
- Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe ( Nguyễn Khuyến )
- Má đỏ au lên đẹp lạ thờng ( Hàn Mặc Tử )
- Đờng quê đỏ rực cờ hồng ( Tố Hữu )
18
Thứ t: Ngôn từ văn học là loại ngôn từ đã đợc chắt lọc từ ngôn ngữ đời th-
ờng, đợc nâng cấp, sửa sang, làm cho nó càng óng ả, giàu đẹp hơn. Các biện pháp
tu từ chính là những phơng tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho
ngôn từ văn học. Có rất nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, điệp từ,
điệp ngữ, so sánh Theo GS Đinh Trọng Lạc có tới 99 phơng tiện và biện pháp tu
từ trong tiếng Việt. Tất cả những cách ấy đều nhằm mục đích giúp ngời nói, ngời
viết có nhiều cách diễn đạt hay hơn, đẹp hơn, phong phú hơn và do vậy hiệu quả
cao hơn. Phân tích các biện pháp tu từ tức là chỉ ra tính hiệu quả của cách viết,
cách nói ấy, vai trò và tác dụng của chúng trong việc miêu tả, biểu đạt chứ không
phải đơn thuần là chỉ gọi đợc tên, kiệt kê các biện pháp mà nhà văn đã dùng.
4. Không gian và thời gian trong thơ trữ tình .
Không gian trong thơ trữ tình là nơi tác giả - cái tôi trữ tình hoặc nhân vật trữ
tình xuất hiện để thổ lộ tấm lòng của mình trớc mọi ngời và đất trời .
Trong tiếng Việt có rất nhiều từ ngữ để nhà văn thể hiện không gian . Trớc hết là

bằng hệ thống từ chỉ vị trí và tính chất nh : trên, dới, trớc, sau, trong, ngoài, bên
phải, bên trái, lên, xuống rồi mênh mông, bát ngát, rộng, hẹp, thăm thẳm, mịt
mù, khúc khuỷu, quanh co vv .
Không gian thờng gắn với các địa điểm chỉ nơi chốn nh : bến đò, cây đa, mái
đình, giếng nớc, núi cao, rừng thẳm, biển sâu, trời rộng, sông dài Nhiều địa
danh riêng đã trở thành những không gian tợng trng trong văn học nh : Tiêu Tơng,
Tầm Dơng, Cô Tô, Xích Bích, Tây Thiên, Địa ngục, Thiên đờng, Bồng lai, Tiên
cảnh, cõi Phật, Suối vàng,
Khi đọc tác phẩm văn học, các em cần chú ý xem nhà văn mô tả không gian ở
đây có gì đặc biệt, không gian ấy có ý nghĩa gì và nói đợc nội dung gì sâu sắc qua
không gian đó ? Ví dụ, khi dân gian viết :
" Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông ".
là tác giả dân gian đã tạo đợc một không gian đẹp, rộng mở, khác hẳn với không
gian nhỏ hẹp, trắc trở, cách ngăn trong câu ca dao này :
" Ai đa em tới chốn này
Bên kia mắc núi, bên này mắc sông "
Không gian trong câu ca trên là không gian của một tâm hồn thảnh thơi, đang náo
nức, rạo rực, phơi phới say sa của một ngời con gái vào tuổi dậy thì :
"Thân em nh chẽn lúa đòng đòng- Phất phơ dới ngọn nắng hồng buổi mai "
Còn không gian dới là không gian của một tâm trạng bế tắc, một tiếng thở
dài, ngao ngán . Không gian trong tâm hồn Nguyễn Khuyến là một không gian
hiu quạnh, buồn bã, cô đơn, vắng lặng . ở đó ta gặp toàn những :" Ao thu lạnh lẽo
nớc trong veo - một chiếc thuyền câu bé tẻo teo "; nhà ông ở cũng chỉ là " ba gian
nhà cỏ thấp le te " với cái "ngõ tối đêm sâu đóm lập loè "
Không gian thờng gắn với điểm nhìn, điểm quan sát mô tả của tác giả .
19
Câu thơ " Trông lên mặt sắt đen sì " trong truyện Kiều của Nguyễn Du cho thấy
ngời viết đứng phía dới nhìn lên. Nhà thơ Tố Hữu cho rằng nh thế, Nguyễn Du đã
đứng về phía quần chúng lao động để quan sát bọn thống trị . Cũng nh thế chữ

Kìa trong câu thơ :" Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo" của Nguyễn Khuyến cho
ta thấy ông nh đứng tách ra khỏi cái hội tây ồn ào, đầy những trò nhăng nhít do
bọn thực dân bày ra mà quan sát và ngẫm nghĩ, mà căm giận, mà đớn đau, chua
xót
Đi liền với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật, bởi vì một hành
động bao giờ cũng diễn ra ở một địa điểm vào một thời gian nhất định . Có điều
khi đọc tác phẩm văn học ta quên đi thời gian hiện thực, nhập vào tác phẩm, sống
cùng với nhân vật, cùng chứng kiến con ngời và sự việc theo thời gian trong tác
phẩm . Vì thế đang đọc giữa ban ngày mà cứ tởng nh đêm đã khuya lắm rồi; quên
hiện tại mà cứ nghĩ mình đang ở " ngày xửa ngày xa" vào "đời Vua Hùng Vơng
thứ 18" hay " năm Gia Tĩnh Triều Minh" . Do đợc thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ
thuật, nên thời gian trong tác phẩm văn học đợc cảm nhận và mô tả rất linh hoạt .
Nguyễn Du đã dồn 4 mùa trong một câu thơ :" Sen tàn cúc lại nở hoa - Sầu dài
ngày ngắn đông đà sang xuân " .
Ngợc lại Aimatốp đã mô tả " Một ngày dài hơn thế kỉ " . Thời gian trong cuộc đời
là thời gian tuần tự, còn trong tác phẩm văn học thời gian có thể đảo ngợc quá
khứ, xen lẫn ngày hôm nay và những ngày đã xa khuất ngàn năm trớc cũng nh t-
ởng tợng ra ngày mai cha đến . Thời gian trong tác phẩm văn học là thời gian tâm
lí, không trùng khít với thời gian ngoài đời, vì thế không nên hiểu thời gian ấy
một cách máy móc, cứng nhắc và áp đặt . Khi nhà thơ viết : Hôm qua, hôm nay,
ngày mai, dạo này, tháng trớc, năm sau, dạo ấy, vào một đêm hè thì không nên
cố tìm xem đó là thời điểm cụ thể nào trong cuộc đời . Nếu nh Hoàng Lộc viết :
" Hôm qua còn theo anh
Đi ra đờng quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho ngời dới mộ "
( Viếng bạn )
thì rõ ràng không cần biết hôm qua và hôm nay là ngày nào, tháng nào mà chỉ
biết sao sự việc xảy ra nhanh quá, bất ngờ quá, hôm qua mới thế, hôm nay đã thế
khiến ngời đọc bàng hoàng xúc động.

Thời gian nghệ thuật cũng mang tính tợng trng. Khi nhắc tới ngày mai thờng là
tợng trrng cho tơng lai, nh khi Tố Hữu viết: " Ngày mai bao lớp đời dơ - sẽ tan nh
đám mây mờ đêm nay - Em ơi tháng rộng ngày dài - Mở lòng ra đón ngày mai
huy hoàng ". Hoàng hôn, chiều tà thờng tợng trng cho sự tàn lụi, sự kết thúc, cáo
chung buồn bã . Không phải ngẫu nhiên hay do bí từ mà Nguyễn Du đã lặp lại
chữ hoàng hôn và hôn hoàng trong một câu thơ: " Nay hoàng hôn đã lại mai hôn
hoàng "để khái quát cả một đời Kiều đầy chuyện u buồn, tàn tạ . Ta có thể tìm
thấy thời khắc này trong thơ Thôi Hiệu:" Quê hơng khuất bóng hoàng hôn ",
20
trong thơ Bà Huyện Thanh Quan:" Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn", trong
thơ Huy Cận " Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà " Ngợc lại với hoàng hôn
là bình minh . Bình minh, rạng đông thờng tợng trng cho cái đang lên, rạng rỡ, t-
ơi sáng . Đó là khi Hồ Chí Minh viết : "Thuyền về trời đã rạng đông - Bao la
nhuốm một màu hồng đẹp tơi "; là khi Nguyễn Đình Thi viết : " Trán cháy rực
nghĩ trời đất mới - Lòng ta bát ngát ánh bình minh ". Mùa Xuân thờng tợng trng
cho tuổi trẻ, sức sống, giàu sinh lực, nh khi Tố Hữu viết: "Trời hôm nay dầu xám
ngắt màu đông- Ai cản đợc mùa xuân xanh tơi sáng - Ai cản đợc đàn chim quyết
thắng - Sắp về đây tắm nắng xuân hồng". Có rất nhiều cách thể hiện thời gian
trong tác phẩm văn học. Không nhất thiết phải có các từ nh sáng, tra, chiều, tối
hay xuân, hạ, thu, đông thì ta mới biết. Trong văn học cổ , một chiếc lá ngô đồng
rụng xuống, ấy là mùa thu đã về; một tiếng kêu khắc khoải của chim quốc báo
hiệu hè đã sang. Khi Nguyễn Du tả cảnh: " Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê
trắng điểm một vài bông hoa " thì ai chẳng biết đó là mùa xuân Khi Tố Hữu viết:
" Trăng lên, trăng đứng, trăng tàn" cũng là để chỉ thời gian đang trôi đi của một
đêm và đó cũng có thể hiểu là các thời điểm của một đời ngời. Đọc câu thơ của
Trần Hữu Thung:"Cam ba lần có trái- Bởi ba lần ra hoa" chắc các em đều hiểu
thế là thời gian ba năm đã trôi qua .
Nh thế không gian và thời gian đều có rất nhiều cách thức biểu hiện khác
nhau. Đấy chính là chỗ để các nhà thơ thể hiện sự sáng tạo và những cách cảm
nhận độc đáo, riêng biệt trong tác phẩm của mình.

Buổi 5.
nam cao và tác phẩm lão hạc
A. Cuộc đời, con ngời nam cao
1. Cuộc đời
Ông xuất thân trong gia đình trung nông . Ông là ngời con trai cả trong gia
đình đông anh em, ông là ngời duy nhất đợc học hành chu đáo. Học xong trung
học, ông vào Sài Gòn kiếm sống 3 năm. chuyến đi này đã ảnh hởng không nhỏ
đến việc sáng tác của nhà văn . Vì ốm đau, ông trở về quê dạy học , rồi sống vất
vởng bằng nghề viết văn. Cuộc đời của một giáo khổ trờng t, của một nhà văn
nghèo đã ảnh hởng sâu sắc đến phong cách viết văn của Nam cao. Sau cách mạng,
Nam Cao tiếp tục sáng tác phục vụ kháng chiến. Năm 1951, trên đờng đi công
tác, nhà văn đã hi sinh.
2. Con ngời Nam Cao
Hiền lành, ít nói, lạnh lùng. Là nhà văn luôn gắn bó sâu nặng với quê hơng
và những ngời nghèo khổ. Mỗi trang viết của nhà văn là trang viết đày cảm động
về con ngời quê hơng.
21
3. Quan điểm sáng tác:
4. Phong cách viết truyện ngắn của Nam Cao.
Truyện của Nam Cao rất mực chân thực , thẫm đẫm chất trữ tình, đậm đà
chất triết lý . Nam cao đặc biệt sắc sảo trong việc khám phá và diễn tả những quá
trình tâm lý phức tạp của nhân vật . Ngôn ngữ của Nam cao gần với ngôn ngữ ng-
ời nông dân Bắc bộ
B. Luyện tập:
Đề số 1:
Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp em hiểu gì về tình cảnh của ngời nông
dân trớc cách mạng?
Hớng dẫn:
I. Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu về tình cảnh thống khổ
của ngời nông dân trớc cách mạng?

1. Lão Hạc
a. Nỗi khổ về vật chất
Cả đời thắt lng buộc bụnglão cũng chỉ có nổi trong tay một mảnh vờn và
một con chó. Sự sống lay lắt cầm chừng bằng số tiền ít ỏi do bòn vờn và mà thuê.
Nhng thiên tai, tật bệnh chẳng để lão yên ổn. Bao nhiêu tiền dành dụm đợc, sau
một trận ốm đã hết sạch sành sanh, lão đã phải kiếm ăn nh một con vật . Nam Cao
đã dung cảm nhìn thẳng vào nôic khổ về vật chất của ngời nông dân mà phản ánh.
b. Nỗi khổ về tinh thần.
Đó là nỗi đau cả ngời chồng mát vợ, ngời cha mất con. Những ngày tháng
xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn vì thơng nhớ con, vì cha làm tròn
bổn phận của ngời cha . Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời lão phải
sống trong cô độc . Không ngời thân thích, lão phải kết bạn chia sẻ cùng cậu
vàng.
Nỗi đau, niềm ân hận của lão khi bán con chó . Đau đớn đến mức miệng
lão méo xệch đi Khổ sở, đau xót buộc lão phải tìm đến cái chết nh một sự giải
thoát . Lão đã chọn cái chết thật dữ dội . Lão Hạc sống thì mỏi mòn, cầm chừng
qua ngày, chết thì thê thảm. Cuộc đời ngời nông dân nh lão Hạc đã không có lối
thoát.
2. Con trai lão Hạc
Vì nghèo đói, không có đợc hạnh phúc bình dị nh mình mong muốn khiến
anh phẫn chí, bỏ làng đi đồn điền cao su với một giấc mộng viển vông có bạc
trăm mới về. Nghèo đói đã đẩy anh vào tấn bi kịch không có lối thoát.
Không chỉ giúp ta hiểu đợc nỗi đau trực tiếp của ngời nông dân. Truyện
còn giúp ta hiểu đợc căn nguyên sâu xa nỗi đau của họ. Đó chính là sự nghèo đói
và những hủ tục phong kiến lạc hậu.
II. Truyện ngắn Lão Hạc giúp ta hiểu đợc vẻ đẹp tâm hồn cao quý của ngời
nông dân
1. Lòng nhân hậu
22
Con đi xa, bao tình cảm chất chứa trong lòng lão dành cả cho cậu vàng.

Lão coi nó nh con, cu mang, chăm chút nh một đứa cháu nội bé bỏng côi cút : lão
bắt rận, tắm , cho nó ăn bàng bát nh nhà giầu, âu yếm, trò chuyện gọi nó là cậu
vàng, rồi lão mắng yêu, cng nựng . Có thể nói tình cảm của lão dành cho nó nh
tình cảm của ngời cha đối với ngời con.
Nhng tình thế đờng cùng, buộc lão phải bán cậu vàng. Bán chó là một
chuyện thờng tình thế mà với lão lại là cả một quá trình đắn đo do dự. Lão cói đó
là một sự lừa gạt, một tội tình không thể tha thứ. Lão đã đau đớn, đã khóc, đã xng
tội với ông giáo , mong đợc dịu bớy nỗi dằng xé trong tâm can.
Tự huỷ diệt niềm vui của chính mình, nhng lại sám hối vì danh dự làm ngời
khi đối diện trớc con vật. Lão đã tự vẫn. Trên đời có bao nhiêu cái chết nhẹ
nhàng, vậy mà lão chọn cho mình cái chết thật đau đớn, vật vã dờng nh lão
muốn tự trừng phạt mình trớc con chó yêu dấu.
2. Tình yêu th ơng sâu nặng
Vợ mất, lão ở vậy nuôi con, bao nhiêu tình thơng lão đều dành cho con trai
lão . Trớc tình cảnh và nỗi đau của con, lão luôn là ngời thấu hiểu tìm cách chia
sẻ, tìm lời lẽ an ủi giảng dải cho con hiểu dằn lòng tìm đám khac. Thơng con lão
càng đauđớn xót xa khi nhận ra sự thực phũ phàng : Sẽ mất con vĩnh viễn Thẻ
của nó chứ đâu có còn là con tôi . Nhữn ngày sống xa con, lão không
nguôi nỗi nhó thơng, niềm mong mỏi tin con từ cuối phơng trời . Mặc dù anh con
trai đi biền biệt năm sáu năm trời, nhng mọi kỷ niệm về con vẫn luôn thờng trực ở
trong lão. Trong câu chuyện với ông giáo , lão không quyên nhắc tới đứa con trai
của mình.
Lão sống vì con, chết cũng vì con: Bao nhiêu tiền bòn đợc lão đều dành
dụm cho con. Đói khát, cơ cực song lão vẫn giữ mảnh vờn đến cùng cho con trai
để lo cho tơng lai của con.
Hoàn cảnh cùng cực, buộc lão phải đứng trớc sự lựa chọn nghiệt ngã : Nếu
sống, lão sẽ lỗi đạo làm cha. Còn muốn trọn đạo làm cha thi phải chết . Và lão đã
quyên sinh không phải lão không quý mạng sông, mà vì danh dự làm ngời, danh
dự làm cha. Sự hy sinh của lão quá âm thầm, lớn lao.
3. Vẻ đẹp của lòng tự trọng và nhân cách cao cả

Đối với ông giáo ngời mà Lão Hạc tin tởng quý trọng , cung luôn giữ ý để
khỏi bị coi thờng . Dù đói khát cơ cực, nhng lão dứt khoát từ chối sự giúp đỡ của
ông giáo , rồi ông cố xa dần vì không muốn mang tiếng lợi dụng lòng tốt của ngời
khác. Trớc khi tìm đến cái chết, lão đã toan tính sắp đặt cho mình chu đáo. Lão
chỉ có thể yên lòng nhắm mắt khi đã gửi ông giáo giữ trọn mảnh vờn, và tiền làm
ma. Con ngời hiền hậu ấy, cũng là con ngời giầu lòng tự trọng. Họ thà chết chứ
quyết không làm bậy. Trong xã hội đầy rẫy nhơ nhuốc thì tự ý thức cao về nhân
phẩm nh lão Hạc quả là điều đáng trọng.
III. Truyện giúp ta hiểu sự tha hoá biến chất của một bộ phận tầng lớp
nông dân trong xã hội đơng thời : Binh T vì miếng ăn mà sinh ra làm liều bản
chất lu manh đã chiến thắng nhân cách trong sạch của con ngời . Vợ ông giáo vì
23
nghèo đói cùng quấn mà sinh ra ích kỷ nhỏ nhen, tàn nhẫn, vô cảm trớc nỗi đau
của ngời khác .
Đề số 2
Phân tích cách nhìn ngời nông dân của Nam Cao qua truyện ngắn Lão Hạc.
Hớng dẫn:
1. Xuất phát từ quan điểm Nghệ thuật vị nhân sinh : Cách nhìn của nhà
văn là cách nhìn của một con ngời luôn thấu hiểu , đồng cảm với nỗi đau khổ của
ngời khác . Nhà văn luôn thấu hiểu nỗi khổ về vật chất và tinh thầnh của ngời
nông dân. Là ngời sống gần gũi , gắn bó với ngời nông dân Nam Cao đã nhìn sâu
hơn vào nỗi đau tinh thần của nhà văn.
2. Bằng cái nhìn yêu th ơng trân trọng, Nam Cao đã nhận ra vẻ đẹp tâm
hồn đáng quý của lão Hạc trong cuộc sống không phải giành cho con ngời.
a. Nhà văn nhận thấy từ thẳm sâu tâm hồn lão Hạc tấm lòng nhân hậu thật
đáng quý
Nam Cao đã nhận ra tình cảm thân thiết máu thịt của con ngời dành cho
con ngời
Nam Cao còn phát hiện ra nỗi ân hận cao thợng và đức tính trung thực của
Lão Hạc qua việc bán con chó

Nhà văn càn nhận thấy ở ngời cha còm cõi xơ xác nh lão Hạc tình yêu th-
ơng con sâu nặng
b. Với phơng chấm cố tìm mà hiểu, Nam Cao đã phát hiện ra đằng sau vẻ
ngoài xấu xí gàn dở của Lão Hạc là lòng tự trọng và nhân cách trong sạch của lão
Hạc
Mở rộng: Có thể so sánh cách nhìn trân trọng đối với ngời nông dân của
Nam Cao và cách nhìn có phần miệt thị, khinh bỉ ngời nông dân của Vũ Trọng
Phụng. Trong tiểu thuyết Vỡ đê, Vũ Trọng Phụng tả ngời nông dân nh những con
ngời không có ý thức không cảm xúc, coi họ nh những bọn ngời xấu xa, đểu
cáng. Thấy đợc cái nhìn của Nam Cao là cái nhìn tiến bộ và nhân đạo sâu sắc.
3. Là cách nhìn có chiều sau tràn đầy lạc quan tin t ởng .
Nam Cao nhìn ngời nông dân không phải bằng thứ tình cảm dửng dng của
kẻ trên hớng xuống dới, càng không phải là hời hợt phiến diện. Nam Cao luôn
đào sâu, tìm tòi khám phá những ẩn khuất trong tâm hồn của lão Hạc , từ đó phát
hiện ra nét đẹp đáng quý : Đó là cái nhìn đầy lạc quan tin tởng vào phẩm hạnh tốt
đẹp của ngời nông dân. Trớc cách mạng, không ít nhân vật của Nam cao đều bị
hoàn cảnh khuất phục, làm thay đổi nhân hình lẫn nhân tính. Vậy mà kì diệu thay
hoàn cảnh khắc nghiệt đã không khiến một lão Hạc lơng thiện thay đổi đợc bản
tính tốt đẹp Lão đã bảo toàn nhân cách cao cả của mình để tìm đến cái chết :
Không cuộc đời cha hẳn đã đấng buồn thể hiện niềm tin của nhà văn vào
nhân cách vào sự tồn tại kiên cờng vào cái tốt .
24
Đề số 3
Đọc mỗi tác phẩm văn chơng, sau mỗi trang sách, ta đọc đợc cả nỗi niềm
băn khoăn trăn trở của tác giả về số phận con ngơi. Dựa vào những hiểu biết về
Lão Hạc, và Cô bé bán diêm hãy làm sáng tỏ nỗi niềm đó.
Huớng dẫn:
I. Những băn khoăn tră trở của Nam Cao về số phận những ngời nông dân
qua truyện ngắn Lão Hạc:
Những lo lắng, trăn trở của Nam Cao thể hiện qua nhân vật Lão Hạc: Lão

là ngời sống lơng thiện trụng thực, có nhân cách đáng quý nhng cuộc đời lại
nghèo khổ bất hạnh . Sống thì mỏi mòn cơ cực , chết thì đau đớn thê thảm . Đây
là những băn khoăn trăn trở của Nam Cao đợc thể hiện qua những triết lý chua
chát của lão Hạc về kiếp ngời khiếp chẳng hạn và qua những triết lý của ông
giáo: Cuộc dời cứ buồn theo một nghĩa khác . Ôi cuộc đời này hình
nh không còn chỗ đứng cho những con ngời trung thực, lơng thiện nh lão Hạc. Đó
là điều khiến Nam Cao vô cùng day dứt.
Những băn khoăn trăn trở của Nam Cao về những tấn bi kịch không có lối
thoát của tầng lớp thanh niên nông thôn lúc bấy giờ, điển hình là anh con trai lão
Hạc. Cuộc sống cùng quẫn, nghèo đói khiến anh không có nổi hạnh phúc bình gị
nh mình mong muốn bỏ đi đồn điền cao su với suy nghĩ viển vông : Có bạc
trăm mới về.
II. Những băn khoăn trăn trở của Nam Cao về số phận ngời trí thức trong xã
hội đơng thời
Ông giáo là ngời có nhiều chữ nghĩa, giàu ớc mơ khát vọng cao đẹp có
nhân cách đáng quý song lại sống trong cảnh nghèo dói. Từ Sài Gòn trở về quê h-
ơng, cả gia tài của ông chỉ có một va ly đựng toàn sách cũ ông đã bán dần
những quyển sách mà ông vẫn nân niu quý trọng . Đây là nỗi đu khổ đối với ngơi
trí thức bởi sách là một phần của đời ông . Vậy mà giờ đây vấn đề miếng cơm
manh áo đã dập tắt những ớc vọng trong sáng đẩy ông vào thảm cảnh Sống mòn
không có lối thoát. Qua tấn bi kịch của ông giáo Nam Cao không khỏi day dứt
về số phận ngời tri thức trog xã hội đơng thời. Họ mang trong mình ớc mơ hoài
bão cao đẹp và kháy vọng nghề nghiệp .
Tóm lại thông qua số phận ngời nông dân, ngời trí thức, Nam Cao muốn cất
lên tiếng kiêu cứu
Buổi 6.
Ôn luyện phần tập làm văn
A/ Đề bài :
Em hãy viết bài văn thuyết minh về đặc điểm văn thuyết minh, cách làm
bài văn thuyết minh.

B/ Đáp án và biểu điểm:
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×