Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

thiết kế và chế tạo mô hình điều khiển máy trộn, chương 13 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.87 KB, 7 trang )

Chương 13:
CẢM BIẾN QUANG TRONG ĐO NHIỆT ĐỘ
Tất cả các vật thể có nhiệt độ lớn hơn nhiệt độ tuyệt đối đều
phát ra các bức xạ nhiệt. Dụng cụ đo nhiệt độ vật thể bằng bức
xạ nhiệt được gọi là hỏa kế bức xạ hay một cách đơn giản là
hỏa kế.
Bức xạ nhiệt là các bức xạ điện từ tạo ra từ các chất do nội
năng của chúng (với bức xạ huỳnh quang do kích thích của
nguồn ngoài). Ta nhận thấy rằng cường độ bức xạ nhiệt của vật
giảm mạnh khi nhiệt độ của vật giảm. Hỏa kế được dùng chủ
yếu để đo nhiệt độ từ 300-6000
0
C và cao hơn. Để đo nhiệt độ
đến 3000
0
C phương pháp duy nhất là dùng hỏa kế vì nó không
tiếp xúc với môi trường đo. Về mặt lý thuyết giới hạn đo của
hỏa kế không hạn chế. Ta nhận thấy rằng phương pháp đo
không tiếp xúc có tính ưu việc là không làm sai lệch nhiệt của
đối tượng đo.
Phần lớn các chất rắn và lỏng có phổ đặc, nghóa là chúng phát
ra các sóng cho chiều dài bước sóng
 từ


0
. Với mắt người
chỉ nhận biết các sóng ánh sáng có chiều dài bước sóng
=0,40-
0,75
m. Các bức xạ không nhìn thấy gồm các bức xạ hồng


ngoại
=0,75 đến 400 m. Các bức xạ có <0,4m cũng
không nhìn thấy, chúng là các bức xạ tử ngoại, đó là các tia
Rơnghen và Gama.
Hỏa kế sử dụng các bức xạ nhìn thấy và hồng ngoại. Đo nhiệt
độ của vật bằng bức xạ nhiệtdựa trên cơ sở các quy luật đối với
vật đen tuyệt đối. Nếu trên bề mặt của một vật được truyền đến
một thông lượng  (năng lượng chuyển đi trong một đơn vò thời
gian) thì nó bò hấp thụ (

ht
) phản xạ (
phx
) và xuyên qua (
xq
).
Quan hệ giữa các thông lượng này phụ thuộc vào các tính chất
của vật và đặc biệt là trạng thái bề mặt của nó (độ nhám, màu
sắc và nhiệt độ). Nếu vật hấp thụ tất cả các bức xạ truyền tới thì
hệ số hấp thụ
=
ht
/ =1 và ta gọi chúng là vật đen tuyệt đối,
mà chỉ có một số vật trong chúng có tính chất quang học gần với
vật đen tuyệt đối, ví dụ như: bồ hóng dầu mỏ, nhựa đen, nhung
đen trong miền ánh sáng nhìn thấy có hệ số hấp thụ gần bằng
đơn vò.
Bề mặt của vật không những chỉ hấp thụ mà còn phát ra các
bức xạ phụ thuộc vào nhiệt độ. Các đại lượng đặc trưng cho bức
xạ nhiệt của vật là:

- Cường độ bức xạ đơn sắc: E


.
- Cường độ bức xạ toàn phần: E

.
- Độ chói B

(ký hiệu  dùng cho vật đen tuyệt đối)






d
d
E
BX

(5-37)

BX
: thông lượng bức xạ phát ra trên một đơn vò bề mặt nhiệt
độ T trong khoảng chiều dài bước sóng d
 (từ  đến +)
(W/m
3
):








d.EE
0

(5-38)
Trong đó: E

ø là bức xạ toàn phần, hay năng lượng toàn phần
phát ra từ một đơn vò bề mặt vật, nhiệt độ T trong một đơn vò
thời gian đối với tất cả các bước sóng
=0 đến =

(W/m
2
).






d
dE
B (5-39)

B


: độ chói của phổ năng lượng là tỷ số giữa cường độ bức
xạ đơn sắc đối với một đơn vò góc khối d
 (W/steradian.m
3
).
Khi đo nhiệt độ bằng hỏa kế thì độ chói của phổ năng lượng là
một đại lượng cơ bản. Độ nhạy cảm của mắt người tỷ lệ trực
tiếp cường độ bức xạ đơn sắc.
B


=k

.d E


(5-40)
k

là hệ số, k

=1/.
Theo đònh luật Kirchoff khả năng bức xạ của vật tỷ lệ với hệ
số hấp thụ
 của vật đen tuyệt đối bằng 1 nên nó có khả năng
bức xạ cực đại. Các vật thể thực ở nhiệt độ như nhau có khả
năng bức xạ khác nhau. Việc đánh giá được so sánh với khả

năng bức xạ của vật đen tuyệt đối:










E
E
B
B
E
E
(5-41)
Hệ số 

của phổ bức xạ (mức đen của tia đơn sắc) là hàm số
của bước sóng
 và nhiệt độ T, là hệ số bức xạ toàn phần. Nhờ
đònh luật Kirchhoff đối với tất cả các vật thể thực:
 =  và 

= .
Ở đây,  và  là hệ số hấp thụ của bức xạ toàn phần và đơn
sắc.
Để đo độ chói của vật mang nhiệt độ người ta dùng hỏa kế

quang học và hỏa kế quang điện.
Hỏa kế quang học được sử dụng rộng rãi trong phòng thí
nghiệm và sản xuất để đo nhiệt độ lớn hơn 800
0
C. Nguyên lý
hoạt động của hỏa kế quang học dựa trên cơ sở so sánh độ chói
quang phổ của vật đo với độ chói chuẩn bằng mắt thường để xác
đònh sự trùng của độ chói đo với độ chói chuẩn. Phổ biến nhất là
hỏa kế quang học dây tóc (hình 5.12).
Để đo nhiệt độ của vật, người ta hướng vật kính (1) của dụng
cụ đo tới vật đo sao cho có thể quan sát từ thò kính (7) sợi tóc
của đèn (4). So sánh độ chói của vật đo và dây tóc đèn (4)
thường thực hiện khi bước sóng bằng 0,65
m. Để thực hiện điều
đó, ta đặt trước thò kính một thiết bò lọc ánh sáng đỏ (6). Sự chọn
lọc bộ lọc ánh sáng đỏ tạo cho mắt người cảm nhận qua bộ lọc
này chỉ một phần quang phổ đi qua gần với tia đơn sắc. Ngoài ra
việc sử dụng bộ lọc ánh sáng đỏ cho phép giảm giới hạn dưới
của hỏa kế. Thành ngăn (đầu vào 3 và đầu vào 5) giới hạn góc
vào và ra của hỏa kế. Giá trò tối ưu của nó cho phép bảo đảm sự
chỉ thò của dụng cụ đo không phụ thuộc vào khoảng cách đo.
Chúng ta có thể quan sát hình ảnh của sợi tóc bóng đèn trên
phông của vật đo: phông chiếu sáng-dây tóc tối (hình 5.12a),
phông tối-dây tóc sáng (hình 5.12c), nhờ có biến trở Rb ta có thể
thay đổi cường độ dòng điện đi qua đèn cho đến khi mà độ sáng
của dây tóc bằng độ sáng của vật đo. Khi đó kim chỉ của mA với
sự chia độ theo ánh sáng phụ thuộc vào nhiệt độ sẽ cho biết
nhiệt độ tương ứng của vật.
a1
b1

c1
T°>T
H
mA
Rb
1
2
3
4
5
6
7
T°=T
H
T°<TH
Hình 5.12 Sơ đồ hỏa kế quang học.
Dây tóc của đèn làm bằng vonfram, có thể chòu được nhiệt độ
cao hơn 1400
0
C. Để đo nhiệt độ cao hơn, người ta đặt trước đèn
một thiết bò lọc ánh sáng hấp thụ (2) để giảm độ chói và có thể
nhìn thấy được dây tóc, giữ cho nó không nung nóng quá mức,
bảo đảm sự ổn đònh chia độ của hỏa kế. Hiện nay hỏa quang kế
dùng để đo nhiệt độ từ 800-6000
0
C có nhiều loại với các phạm
vi đo khác nhau. Cấp chính xác của hỏa quang kế từ 1,5-4,0.
Khác với hỏa kế quang học, hỏa kế quang điện là dụng cụ đo
tự động. Phần tử thu năng lượng bức xạ có thể là tế bào quang
điện, điện trở quang điện hay diot quang điện. Đo nhiệt độ bằng

hỏa kế quang điện cũng dựa trên cơ sở sự phụ thuộc quang phổ
độ chói của vật vào nhiệt độ của nó. Theo nguyên lý hoạt động,
hỏa kế quang điện được phânthành hai loại:
- Dụng cụ nhận năng lượng bức xạ truyền tới phần tử thu và
làm thay đổi các tham số của nó (dòng quang điện, điện trở).
- Đo năng lượng bức xạ bằng phương pháp bù. Ở đây, phần tử
nhạy cảm làm việc ở chế độ chỉ thò không. Cường độ bức xạ
phát ra từ vật đo được so sánh với bức xạ của một nguồn ổn đònh
(một đèn sợi đốt nhỏ).
Loại hỏa kế quang điện thứ hai phức tạp hơn, nhưng chính xác
hơn vì sự chỉ thò của nó không phụ thuộc vào đặc tính của phần
tử thu và đặc tính của mạch điện tử. Chúng ta hãy khảo sát loại
hỏa kế này (hình 5.13).
1
2
3
5
6
7
8
9
10
U
CQ
4
Hình 5.13 Sơ đồ hỏa kế quang điện.
Ống kính của dụng cụ ngắm vào vật đo sao cho quang thông
truyền tới vật kính (2) đi qua màng ngăn (3) và lỗ trên của màng
chắn (5) và được làm giảm bằng bộ lọc màu đỏ (6), sau đó đến
phần tử thu quang điện (7). Ở lỗ phía dưới của tấm chắn (5),

người ta truyền một quang thông từ nguồn sáng (1), cung cấp
dòng điện từ bộ nguồn (9) và được điều khiển bằng khuyếch đại
điện tử (8). Đầu vào là dòng quang điện cấp từ tế bào quang
điện. Quang thông truyền đến tế bào quang điện (7) theo pha
ngược lại.
Điều này được thực hiện nhờ cửa điều tiết (4) nó lần lượt cắt
các lỗ của màng ngăn (5). Hình dáng của cửa điều tiết và lỗ của
tấm chắn (5) thực hiện sao cho mỗi khi quang phổ truyền tới tế
bào quang điện sẽ tạo ra một dòng điện hình sin đảo pha.
Do đó khi quang phổ của đèn và của vật đo là như nhau hay
chính xác hơn: độ chói như nhau, tác dụng đảo pha sẽ tạo ra trên
tế bào quang điện một dòng điện một chiều. Nếu cường độ
quang thông của chúng khác nhau, ví dụ khi nhiệt độ thay đổi,
thì trong mạch tế bào quang điện sẽ xuất hiện thành phần dòng
quang điện xoay chiều, nó được khuyếch đại lên bằng bộ
khuyếch đại (8) và đưa qua tần nhạy pha của khối (9). Kết quả
làm thay đổi dòng nung nóng đèn (1) cho đến khi quang thông
của chúng cân bằng. Nói một cách chính xác: quang thông của
đèn đôi khi không bằng quang thông của vật đo. Do đó việc cân
bằng quang thông được thực hiện theo sơ đồ bù tự động tỷ lệ.
Nhưng nhờ có hệ số khuyếch đại lớn nên sai số cân bằng tónh
của hệ thống nhỏ.
Như vậy dòng điện của đèn có liên hệ đơn trò với độ chói, do
đó ta có thể dùng nó để đo nhiệt độ của vật. Ta có thể dùng một
điện thế kế đo điện áp rơi trên điện trở (10), thang đo của điện
thế kế chia vạch tương ứng của nhiệt độ.
Hỏa kế quang điện có thể đo được nhiệt độ từ 800-2000
0
C có
cấp chính xác 1 và 1,5.

×