Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Một số bệnh lây truyền từ mẹ sang con docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.15 KB, 9 trang )

Một số bệnh lây truyền từ mẹ sang con

Các bệnh lây truyền qua
đường tình dục có tới vài
chục loại. Bệnh có thể lây
truyền từ mẹ sang con
ngay khi trẻ còn trong tử
cung hoặc trong lúc đẻ; đôi
khi sau đẻ. Dưới đây là
cách phát hiện, điều trị một số bệnh hay gặp cho
trẻ.
Mụn rộp (herpes)

Nếu bị nhiễm virus herpes từ mẹ, trẻ chỉ có tổn
thương ở một phần cơ thể nếu ở thể nhẹ nhưng sẽ
có biểu hiện toàn thân nếu nhiễm ở thể nặng. Ở thể
nặng, trẻ có những nốt phỏng nhỏ trên một vùng da
nào đó; bệnh có thể xâm nhập cả vào bên trong cơ
thể, kể cả não. khi đó trẻ có triệu chứng ngủ lơ mơ


suốt ngày, thậm chí không thể đánh thức được.

Trẻ nhiễm virus herpes bú kém, hay quấy khóc, tiêu
chảy, khó thở và có thể lên cơn giật. Những bộ phận
khác có thể bị tổn thương là mắt, gan và lách. Những
trẻ bị nhiễm virus toàn thân có thể chết hoặc tàn phế
vì di chứng não và mắt. Nếu qua khỏi, bệnh vẫn có
thể tái phát ở tuổi thiếu niên nhưng thường chỉ gây
tổn thương khu trú và không lan rộng nếu được điều
trị.



Bệnh u sùi ở cơ quan sinh dục

Vì sự lây nhiễm virus gây u sùi có thể xảy ra ngay khi
trẻ còn ở trong tử cung nên dù có mổ đẻ lấy thai ra
cũng khó tránh khỏi nhiễm bệnh. Nếu trẻ bị nhiễm, u
sùi có thể phát triển ở thanh quản, đôi khi ở khí quản
và phổi, gặp nhiều nhất ở trẻ 2-5 tuổi, ít khi gặp ở tuổi
vị thành niên; nhưng nếu có thì gây khản tiếng, thay
đổi âm sắc, thở rít. Đa số trường hợp các u sùi tự
khỏi nhưng đôi khi cũng tái phát, cũng có khi được
cắt bỏ nhưng vẫn có thể mọc lại, có thể điều trị bằng
tia xạ nhưng lại có nguy cơ phát triển ung thư sau
này.

U sùi ở cơ quan sinh dục cũng có thể gặp ở trẻ do lây
nhiễm từ mẹ trong lúc đẻ nhưng đôi khi trẻ em lây
nhiễm do bị lạm dụng tình dục. Tổn thương thường
phát triển ở âm hộ, dương vật và hậu môn.

Bệnh nấm ở cơ quan sinh dục

Trẻ có thể bị nhiễm nấm từ mẹ khi đẻ. Tuy không
nghiêm trọng nhưng làm cho trẻ khó chịu, quấy khóc.
Nấm thường phát triển ở lưỡi và mặt trong má, thành
từng đám trắng. Điều trị bằng nystatin hoặc bôi ngoài
da thuốc kem chống nấm do thầy thuốc chuyên khoa
da liễu chỉ định.

Bệnh do chlamydia


Sự lây nhiễm có thể gây ra viêm mắt sơ sinh, viêm
phổi và viêm ống tai. Viêm mắt sơ sinh thường xảy ra
khoảng 2 tuần sau đẻ. Nếu không được điều trị, bệnh
có thể trở thành mạn tính, dễ tái phát và có thể để lại
sẹo ở giác mạc.

Viêm phổi thường bộc lộ ở tuần lễ thứ 6 sau đẻ với
các triệu chứng ho, thở gấp mặc dầu không sốt. Nếu
ho nhiều có thể làm cho trẻ không bú được, không
lên cân như những trẻ khác. Điều trị bằng
erythromycine theo chỉ dẫn của thầy thuốc.

Bệnh trùng doi (trichomonas)

Trẻ cũng có xuất tiết ở âm đạo hoặc ngứa ở âm hộ và
cần được điều trị bằng metronidazole theo chỉ định
của thầy thuốc.

Viêm gan B

Viêm gan B có thể lây nhiễm từ mẹ sang con khi
mang thai, khi đẻ hoặc trong giai đoạn cho con bú.
Trẻ nhỏ có xu hướng dễ nhiễm virus gây viêm gan B
vì hệ thống miễn dịch của trẻ chưa tự sản xuất ra
kháng thể. 85-90% trẻ nhỏ bị nhiễm virus viêm gan B
từ mẹ sẽ trở thành người mang virus mạn tính, trừ khi
được tiêm chủng phòng bệnh ngay sau khi đẻ. Hơn
25% trẻ nhỏ mang virus mạn tính sẽ chết vì xơ gan
hoặc ung thư gan sau này; nguy cơ này càng lớn hơn

nếu là con trai.

Viêm gan B ở trẻ nhỏ thường không có triệu chứng
gì, nghĩa là nhẹ hoặc không nhận biết được. Ðôi khi
trẻ khó ở, nôn hoặc không lên cân đều đặn như
những trẻ bình thường khác, có thể vàng mắt và
nước tiểu sẫm màu. Gan lách có thể to ra, có tổn
thương và dễ chảy máu. Trường hợp viêm gan nặng
có thể gây tử vong.

Có thể phòng ngừa viêm gan B cho trẻ bằng tiêm
globulin miễn dịch và vaccine phòng bệnh. Việc tiêm
phòng bệnh cần tiến hành ngay sau đẻ hoặc sớm sau
đẻ để thuốc có thể có tác dụng và loại trừ sự lây
nhiễm. Muốn có hiệu quả phòng bệnh thì cần tiêm
globulin miễn dịch trong phạm vi 2 ngày sau đẻ.

Sử dụng cả 2 liệu pháp trên thì có thể giảm bớt được
số trẻ bị mang virus mạn tính 85-95% trẻ, nếu chỉ
dùng một trong 2 biện pháp nói trên thì chỉ giảm được
khoảng 75%. Tiêm chủng phòng bệnh viêm gan B
cho trẻ cần tiến hành ở tháng thứ 1, thứ 6 và tới
tháng thứ 9 cần thử xem đã có miễn dịch chưa.

HIV

Nhiễm HIV từ mẹ sang con có thể xảy ra trong giai
đoạn mang thai, khi đẻ hoặc trong thời gian cho con
bú. Trẻ có thể bị nhiễm HIV qua sữa của người mẹ có
HIV dương tính và trẻ đã bị nhiễm HIV cũng có thể

lây nhiễm sang người phụ nữ bình thường khi bú sữa
của người phụ nữ này.

Trẻ bị nhiễm HIV có thể biểu hiện bằng 2 thể như
sau:

- Thể nặng: Ngay sau đẻ đã có biểu hiện tổn thương
ở não (do virus xâm nhập não). Hệ thống miễn dịch
của trẻ bị ảnh hưởng nặng, không chống đỡ được với
các nhiễm khuẩn dẫn đến tình trạng tưa lưỡi (nấm
phát triển ở miệng), không tăng cân, hay bị đau họng
hoặc viêm phổi, sưng hạch, gan to, tiêu chảy Chỉ
1/3 số trẻ này sống sót được tới 3 tuổi.

- Thể nhẹ: Là thể thường gặp hơn, trẻ lớn hơn mới
phát bệnh, hệ thống miễn dịch không bị ảnh hưởng
nhiều nhưng có thể có tổn thương ở não và cũng có
những biểu hiện như thể nặng, đặc biệt là viêm phổi
và những tổn thương cho tim và thận. Phần lớn
những trẻ này có thể sống được tới 3 tuổi.

Muốn chẩn đoán trẻsơ sinh có bị nhiễm HIV không.
bác sĩ thường cho xét nghiệm máu nhưng đôi khi
cũng khó xác định, có khi phải chờ đến 18 tháng mới
biết chắc trẻ có bị nhiễm HIV hay không. Nếu người
mẹ bị nhiễm HIV thì trẻ phải được theo dõi bằng xét
nghiệm trong nhiều năm.

Lậu


Bệnh lậu ở người mẹ nếu không được điều trị thì có
thể lây cho trẻ khi đẻ, chủ yếu ảnh hưởng đến mắt
của trẻ nhưng cũng có thể ở nhiều bộ phận khác như
họng. Thường xảy ra ngay tháng đầu tiên và nhất là
tuần đầu tiên sau đẻ. Hai mắt trẻ dính không mở
được vì nhử dính chặt, mắt sưng húp, nếu không
được điều trị có thể dẫn đến mù lòa vì loét và sẹo
giác mạc. Ðôi khi trẻ bị lây nhiễm cả lậu và
chlamydia, thường từ chất tiết của cổ tử cung.

Ðiều trị bằng kháng sinh và rửa mắt cho trẻ sơ sinh
ngay sau đẻ, cần nhỏ mắt bằng dung dịch nitrat bạc
để đề phòng nhiễm lậu cầu khuẩn.

Trường hợp nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B, trẻ có thể
bị viêm phổi, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết,
viêm rộp da hoặc viêm xương khớp. Nếu được điều
trị 50% trẻ bị nhiễm khuẩn có thể khỏi.

Vì vậy để tránh lây nhiễm cho con, khi có thai và khi
đẻ người mẹ cần được cán bộ y tế thăm khám, quản
lý thai và chăm sóc theo dõi sơ sinh tốt.

×