Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Ảnh hưởng của “Ngũ luân” trong triết học Nho giáo đến xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.7 KB, 72 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là một thành viên của gia đình và đồng thời cũng là một
thành viên của xã hội. Có thể xem gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội,
là tế bào của xã hội, là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
thông qua việc thực hiện các chức năng của mình. Đặc biệt gia đình còn có
vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế cũng như giữ gìn, phát huy
những giá trị văn hóa tinh thần từ đời này sang đời khác, giữ vững bản sắc
văn hóa dân tộc một cách bền vững, là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Sự
tồn tại và phát triển của gia đình phản ánh sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Là một thành viên của xã hội, con người sinh ra và trưởng thành trong
một gia đình. Quan hệ giữa người với người diễn ra trong gia đình, trong
quan hệ gia đình. Mọi người đều bị trói buộc bởi các mối quan hệ là quan
hệ gia đình. Những hành vi ứng xử, giao tiếp của mỗi thành viên trong gia
đình đều được Nho giáo quy định chặt chẽ phụ thuộc vào danh phận của
mỗi người. Theo Nho giáo mọi thành viên đều bị trói buộc bởi “Ngũ Luân”
gồm năm mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, chồng-vợ, anh - em, bạn – bè,
quy định các hành vi ứng xử của con người, nó phản ánh các mặt của cuộc
sống hiện thực trong các quan hệ gia đình.
Tiếp thu và kế thừa được những giá trị tư tưởng “Ngũ Luân” trong
triết học Nho giáo đã làm cho các thành viên trong gia đình ứng xử với
nhau theo trật tự “Ngũ Luân” góp phần xây dựng gia đình văn hóa, phù hợp
với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta hiện nay.
Trong phong trào xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế, cần phải phát
huy truyền thống văn hóa của dân tộc, của thời đại, đồng thời phải biết kế
thừa những điểm tích cực và khắc phục hạn chế những điểm tiêu cực trong
tư tưởng “Ngũ Luân” của Nho giáo ở Thừa Thiên Huế, nơi đây đã từng là
SVTH: Cao Thế Vũ 1


Khóa luận tốt nghiệp
thủ phủ của vương triều nhà Nguyễn, là nơi tập trung nhiều giá trị nhân văn
sâu sắc. Các học thuyết chính trị tư tưởng tiến bộ đều được giai cấp thống
trị đưa lên vị trí độc tôn trong nền tảng đời sống tinh thần. Tư tưởng “Ngũ
luân” trong triết học Nho giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào
xây dựng gia đình ở Thừa thiên Huế cả về mặt tích cực cũng như mặt tiêu
cực, song vẫn chưa được các nhà nghiên cứu bàn nhiều và quan tâm nhiều.
Chính vì điều đó, tôi quyết định chọn đề tài: Ảnh hưởng của “Ngũ
luân” trong triết học Nho giáo đến xây dựng gia đình ở Thừa Thiên
Huế hiện nay để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân triết học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nho giáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học, của
nhiều chuyênngành và của nhiều giới. Từ trước đến nay, đã có nhiều tác
giả nghiên cứu về Nho Giáo, về sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo ở
nước ta. Điển hình như: “Nho giáo” của Trần Trọng Kim với hai tập:
Quyển Thượng và Quyển Hạ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; “Nho
giáo xưa và nay” của GS Vũ Khiêu, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội
năm1990; “Đạo Nho và văn hóa phương Đông” của Hà Thúc Minh, Nxb
Giáo dục, 2001; Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam của Phan Đại Doãn,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1998; “Mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong học
thuyết Khổng Tử” của Nguyễn Thị Thanh Hải, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKH
Huế, 2004 Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết trên các tạp chí, các báo đã đề
cập đến vấn đề này. Nhưng nhìn chung, các đề tài nghiên cứu ấy đã nghiên
cứu một cách khái quát sự ảnh hưởng của Nho giáo trên các lĩnh vực của xã
hội Việt Nam. Việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của tư tưởng “Ngũ Luân”
trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện
nay vẫn chưa có đề tài nghiên cứu một cách cụ thể. Trên cơ sở tiếp thu
những quan điểm khoa học của những người đi trước dưới góc độ triết học
Mác - Lênin tôi sẽ nghiên cứu và làm rõ hơn ảnh hưởng của “Ngũ Luân”
trong triết học Nho giáo đến việc xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện

SVTH: Cao Thế Vũ 2
Khóa luận tốt nghiệp
nay, từ đó nêu lên các giải pháp để hạn chế những yếu tố tiêu cực, phát huy
ảnh hưởng tích cực trong xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Làm rõ những tư tưởng “Ngũ Luân” trong triết học Nho giáo và sự
ảnh hưởng của nó nhằm xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
Đồng thời chỉ ra những nét khác biệt nổi bật trong gia đình ở Thừa Thiên
Huế khác với các vùng trong cả nước. Từ đó, nghiên cứu thực trạng gia
đình và có những giải pháp cụ thể xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế
hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Tư tưởng “Ngũ Luân” trong lịch sử triết học Nho giáo và trong truyền
thống văn hóa Việt Nam. Những biểu hiện của tư tưởng “Ngũ Luân” và
những ảnh hưởng tới việc xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài
Đứng trên quan điểm của phép biện chứng duy vật trong quá trình
nghiên cứu đề tài như: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan
điểm phát triển, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng gia đình Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, đề tài kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu như lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp,
quy nạp - diễn dịch, điều tra xã hội học, đối chiếu, so sánh, Nhưng
phương pháp xuyên suốt của cả đề tài vẫn là phương pháp biện chứng duy
vật.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã nêu lên một cách có hệ thống, khoa học về tư tưởng “Ngũ

Luân” trong triết học Nho giáo, cũng như quan niệm về các mối quan hệ
SVTH: Cao Thế Vũ 3
Khóa luận tốt nghiệp
trong gia đình Việt Nam. Mặt khác, đề tài còn làm rõ những ảnh hưởng của
tư tưởng “Ngũ Luân” tới gia đình Thừa Thiên Huế, qua đó gìn giữ, phát
huy những giá trị tích cực và đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng gia đình
ở Thừa Thiên Huế hiện nay
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, thì
nội dung của khóa luận gồm có hai chương sau:
Chương 1. Quan điểm “Ngũ luân” trong triết học Nho giáo (3tiết).
Chương 2. Ảnh hưởng của “Ngũ luân” trong triết học Nho giáo đến
xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay. (3tiết).
SVTH: Cao Thế Vũ 4
Khóa luận tốt nghiệp
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM “NGŨ LUÂN” TRONG TRIẾT HỌC
NHO GIÁO
1.1. Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho giáo.
Nho giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, dưới thời
Xuân Thu - Chiến Quốc, người sáng lập là Khổng Tử (551-479tcn) tên Khâu,
tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục
lớn. Từ cuối thời Xuân Thu, trước những yêu cầu của lịch sử. Khổng Tử đã hệ
thống hóa những tri thức và những tư tưởng của đời trước, sáng lập nên học
thuyết triết học, đạo đức chính trị nổi tiếng gọi là Nho giáo.
Thời đại Khổng Tử là thời đại mà trên các lĩnh vực kinh tế xã hội
phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp, thủ công nghiệp và thương
nghiệp đã xuất hiện những trung tâm kinh tế chính trị văn hóa lớn, chuyển
biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Dưới thời thịnh
vượng của nhà Chu, đất đai thuộc về nhà vua thì nay quyền sở hữu tối cao

ấy bị tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Xã hội ở vào tình trạng hết sức
đảo lộn thì một loạt học thuyết chính trị xã hội và triết học đã xuất hiện có
xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị đạo đức của xã hội,
những vấn đề triết học. Những mâu thuẫn vốn có và mới nảy sinh trong
lòng xã hội ngày càng sâu sắc và trầm trọng hơn, đặc biệt là mâu thuẫn
giữa giai cấp thống trị bóc lột với giai cấp nông dân và các tầng lớp bị
thống trị, bị bóc lột khác, càng làm cho xã hội thêm rối loạn, trật tự kỷ
cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội theo mô hình thể chế nhà Chu bị
vi phạm. Thực tiễn xã hội đã cho thấy rằng đất nước suy kiệt, đời sống
nhân dân ngày càng đau khổ cùng cực, trật tự kỷ cương xã hội ngày càng
rối loạn, cách thức tổ chức và quản lý xã hội theo mô hình nhà Chu không
còn thích hợp nữa. Từ bối cảnh đó, Nho giáo đã ra đời và Khổng Tử là
người sáng lập ra trường phái Nho giáo. Suốt đời vì mong muốn cải biến xã
SVTH: Cao Thế Vũ 5
Khóa luận tốt nghiệp
hội, giáo dục đạo đức con người, cứu thiên hạ, Khổng Tử đã quên mình,
bôn ba khắp nơi du thuyết các nước chư hầu để thực hiện rộng rãi chủ
trương nhân trị, khôi phục chế độ tông pháp nhà Chu đã suy vong. Sau
mười ba năm trời chu du, truyền bá học thuyết của mình nhưng không được
vua các nước chư hầu trọng dụng, ông mở trường dạy học, ông hệ thống
hóa những tri thức, tư tưởng đời trước và quan điểm của ông thành học
thuyết chính trị - đạo đức nổi tiếng, gọi là Nho Giáo.
Khổng Tử cho rằng vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành biến hóa
không ngừng theo đạo của nó, bắt nguồn từ mối liên hệ tương tác giữa hai
cực âm dương trong một thể thống nhất gọi là thái cực. Cái lực vô hình,
mạnh mẽ giữ cho âm và dương, trời đất tương thôi, trung hòa để vạn vật
sinh hóa không ngừng ấy, Khổng Tử gọi là “đạo”, là “thiên lý”, “trung là
cái gốc lớn của thiên hạ, Hòa là cái đạo thông đạt của thiên hạ, đạt tới đạo
trung hòa thì trời đất sẽ yên ổn, trật tự vạn vật sẽ sinh sản, nảy nở thuận
chiều”[14;527]. Do cái gốc ấy mà “trời có nói gì đâu, bốn mùa vận hành,

vạn vật sinh hóa mãi. Trời có nói gì đâu”. “Cũng như dòng nước chảy, mọi
vật đều trôi đi ngày đêm không ngừng, không nghỉ”, nhưng vì “đạo” hay
“thiên lý” là huyền vi, sâu kín, mầu nhiệm, mạnh mẽ, lưu hành khắp vũ trụ,
định phép sống cho vạn vật, con người ta không thể cưỡng lại được, nên
Khổng Tử gọi đó là “Thiên mệnh”. Khổng Tử nói: Đạo của ta thi hành ra
được cũng do Mệnh Trời, mà bị bỏ phế vong cũng do Mệnh Trời. Do tin có
“thiên mệnh” nên Khổng Tử coi việc hiểu biết Mệnh Trời là điều kiện tất
yếu để trở thành con người hoàn thiện, không biết Mệnh Trời thì không lấy
gì làm quân tử, đã tin có mệnh, biết mệnh thì phải sợ mệnh và thuận mệnh.
Đó là cái Đức của người quân tử, “người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh
trời, sợ bậc đại nhân và sợ lời thánh nhân”[15;158]. Khổng Tử tin vào số
mệnh, sống chết có mệnh, giàu sang do trời. Tuy nhiên, Khổng Tử lại luôn
yêu cầu con người phải chú trọng vào sự nỗ lực, học tập, làm việc tận tâm
tận lực còn việc thành bại như thế nào lúc đó là mới tại ý trời. Khổng Tử
SVTH: Cao Thế Vũ 6
Khóa luận tốt nghiệp
cũng tin có quỷ thần và cho rằng quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo
thành, tuy mắt ta không nhìn thấy, tai ta không nghe thấy… nhưng “dường
như lưu động trên đầu ta, ở bên phải ta, bên trái ta đâu đâu cũng có”, song
ông lại cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối đời sống con người.
Ông phê phán mê tín, sùng bái quỷ thần kêu gọi mọi người hãy chú trọng
vào việc làm của mình, trí thông minh khôn ngoan của con người đối lập
với mê tín quỷ thần. Ông dạy con người tin vào quỷ thần nhưng đừng sùng
bái quỷ thần. Như vậy, trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng
Tử luôn có những tính chất mâu thuẫn. Khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn
giáo đương thời, ông thừa nhận sự vật hiện tượng trong tự nhiên luôn vận
động, biến đổi không phụ thuộc vào mệnh lệnh của trời. Đó là yếu tố duy
vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát - một bước tiến so với quan
điểm duy tâm thần bí phổ biến thời Thương, Chu. Nhưng mặt khác, ông lại
cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người, đó là

một bước lùi trong tư tưởng triết học của ông. Cũng như thế, một mặt
Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần nhưng mặt khác, ông lại
nhấn mạnh vai trò hoạt động của con người trong đời sống. Thực chất
những mâu thuẫn trong tư tưởng, tâm trạng và thái độ của Khổng Tử là
phản ánh những mâu thuẫn của đời sống hiện thực. Xu thế phát triển của
lịch sử xã hội đã giúp cho Khổng Tử có những quan điểm tiến bộ, thoát ly
chủ nghĩa thần bí, tôn giáo, đặt vấn đề con người lên hàng đầu để giải
quyết. Nhưng do hiện trạng xã hội và hạn chế của lợi ích giai cấp, Khổng
Tử hoang mang, dao động và quay lại với chủ nghĩa duy tâm, tuyên truyền
cho sức mạnh của trời, thần thánh hóa quyền lực của thế lực cầm quyền
trên mặt đất, nhằm duy trì trật tự xã hội theo lễ của nhà Chu.
Học thuyết luân lý, đạo đức, chính trị -xã hội là một trong những vấn
đề cốt lõi và là thể thống nhất hữu cơ trong triết học của Khổng Tử trên tư
tưởng “Thiên nhân tương đồng”. Trong những phạm trù Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Dũng, Hiếu, Kính đễ của Khổng Tử, chữ Nhân được ông đề cập với ý
SVTH: Cao Thế Vũ 7
Khóa luận tốt nghiệp
nghĩa sâu rộng nhất. Dùng Nhân để giáo hóa con người, cải biến xã hội từ
loạn thành trị là biểu hiện tính tích cực, tính nhân bản của Khổng Tử.
Nhưng do chưa hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của sự biến trong lịch sử và bị
những quyền lợi giai cấp quy định nên phương pháp giáo hóa con người và
cải biến xã hội của Khổng Tử chỉ dừng lại ở tính chất cải lương và duy tâm,
chứ không phải bằng cách mạng hiện thực. Do vậy, dù tận tâm đầy nhiệt
huyết với chính trị nhưng khi học thuyết và chủ trương của mình không đạt
được kết quả thì ông tỏ ra bi quan về lịch sử, tiếc nuối quá khứ.
Trong việc giáo dục đạo đức nhân nghĩa cho con người, một mặt
Khổng Tử chủ trương “Hữu giáo vô loài” và đây chính là quan điểm, là ý
tưởng tiến bộ muốn vượt qua sự ràng buộc của đẳng cấp danh phận, là
đóng góp hữu ích của ông vào việc hoàn thiện và làm phong phú kho tàng
lý luận giáo dục đạo đức cho nhân loại. Đứng ở phương diện này ông

không chỉ là nhà lý luận mà còn là nhà giáo dục lớn. Nhưng mặt khác, vì
hạn chế của điều kiện lịch sử và sự ràng buộc của lợi ích giai cấp ông lại
khẳng định rằng Đức nhân chỉ có thể có được ở người quân tử, mẫu người
lý tưởng, những kẻ có địa vị xã hội. Vì thế, Khổng Tử luôn phân biệt rõ sự
đối lập giữa hai hạng người trong xã hội: “quân tử” và “tiểu nhân”, cả về tri
thức, đạo đức, nhân cách, thái độ, hành động ứng xử và địa vị xã hội. Ông
khẳng định rằng có thể có người quân tử bất nhân nhưng chưa hề có người
tiểu nhân có nhân.
Chữ Nhân trong triết học của Khổng Tử có ý nghĩa rất rộng, bao hàm
nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tùy
theo trình độ hoàn cảnh mà ông diễn đạt nội dung của nó một cách khác
nhau. Theo Khổng Tử “cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, cái gì không hợp
lễ thì đừng nghe, cái gì không hợp lễ thì đừng nói, cái gì không hợp lễ thì
đừng làm”[13;224]. Nhân là biết thương người, ái nhân và biết ghét người.
“Người quân tử ghét kẻ bêu chuyện xấu của người, ghét kẻ bậc dưới mà
dèm pha bậc trên, ghét kẻ có dũng lực mà không biết lễ phép, ghét kẻ quả
SVTH: Cao Thế Vũ 8
Khóa luận tốt nghiệp
cảm làm liều để đến chỗ bế tắc”[7;283]. Nhân là đức tính hoàn thiện, là cái
gốc của đạo đức con người nên nhân chính là đạo làm người. Đạo làm
người theo Khổng Tử là những điều sống đúng với mình và đối với người.
Khi ra khỏi nhà phải giữ nghiêm trang như tiếp khách quý, khi sai khiến
dân kính cẩn như thi hành tế lễ lớn. Cái gì mình không muốn thì không nên
thi hành cho người, là nhân đức hễ mình muốn lập thân thì cũng giúp người
lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt. “ Đạo ta do
nơi một lẽ mà thông suốt tất cả”. Đức Nhân có thể yên lặng, vững chãi như
núi, bao nhiêu đức tính khác đều bởi nó mà sinh ra. Người có phẩm chất
cứng cỏi, can đảm, chất phác, thật thà, ít ăn ít nói thì gần với đức nhân. Còn
những kẻ ăn nói khéo léo, trau chuốt nhan sắc, hình thức thì ít đức nhân.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có trí và dũng. Có thể có người trí

mà không có nhân nhưng không thể là người nhân mà thiếu trí. Nhờ có trí,
con người mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết được đạo lí, xét
đoán được sự việc, phân biệt được phải trái, thiện ác, để trau dồi đạo đức và
hành động hợp với thiên lý. Nếu không có trí sáng suốt thì chẳng những
không giúp được người mà còn bị mê hoặc bởi những điều vô lí, làm hại
đến thân mình nữa. Nhưng vì tin theo thiên mệnh cho nên trong quan điểm
về trí, một mặt Khổng Tử tin rằng con người sinh ra tự nhiên biết được đạo
lý, là hạng người cao thượng, mặt khác, ông lại quan niệm Trí không phải
ngẫu nhiên mà có, nó chỉ được hình thành khi người ta trải qua quá trình
học tập, tu dưỡng. Nếu không học thì dù có thiện tâm, nhân đức, trung tín
đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, phản loạn che mờ. Người quân
tử học để chí vào cái đạo lý, giữ gìn cái đức hạnh, tựa vào nhân, chơi lục
nghệ. Mục đích cao nhất của học không chỉ để biết đạo, khắc kỉ phục lễ vi
nhân, mà để ra làm quan, tham gia vào việc chính trị quốc gia. Người có tri
thức như có của quý mà ôm giấu, để cho nước nhà rối loạn không phải là
người Nhân. Đối với Khổng Tử, việc dạy học chủ yếu là dạy kẻ cầm quyền,
trị dân đủ lễ nghĩa tín… khiến dân từ bốn phương đưa con đến phục dịch
SVTH: Cao Thế Vũ 9
Khóa luận tốt nghiệp
mình…chứ không phải học nghề cày cấy. Nếu người trên hiểu lễ thì dân
chẳng dám bỏ niềm cung kính. Nếu người trên hiểu nghĩa thì người dân
chẳng có gì mà không phục. Nếu người trên hiểu tín thì người dân chẳng
dám sai ngoa trong tình giao ước. Làm được như vậy thì dân từ bốn
phương sẽ đưa con đến phục dịch mình. Cần chi phải học nghề cày cấy.
Ông cho lao động chân tay là nghề tầm thường. Theo Khổng Tử, học là
phải biết cố gắng nỗ lực không mệt mỏi. Kẻ nào không cố công tìm hiểu ta
chẳng dạy cho, kẻ nào không bộc lộ được tư tưởng của mình, ta chẳng khai
sáng cho, kẻ nào ta bày một mà không biết hai ta chẳng dạy nữa… Khổng
Tử luôn khuyên mọi người học phải nghe nhiều rồi chọn điều hay mà theo,
thấy nhiều để xét cho rõ, cái hay cái dở mà nhớ lấy. Đó là điều quan trọng

để trở thành trí giả.
Khổng Tử nói: trầm mặc suy nghĩ đạo lý, để ghi nhớ trong lòng, học
mà không biết chán, dạy người mà không biết mỏi. Ông khuyên học trò
không được vị kỷ tư dục, võ đoán, cố chấp trong việc học. Khổng Tử
thường dạy học trò về Thi - Thư - Lễ - Nhạc và bốn môn văn - hạnh - trung
- tín. Là một nhà giáo dục lớn, là người đầu tiên mở trường dạy học trong
lịch sử Trung Hoa, Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô loại”, nhưng ông lại
quan niệm có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu. Người sinh ra đã biết là bậc trên,
người học mới biết là bậc dưới, người khốn mới học là hạng dưới nữa,
người khốn mà không học là kẻ bậc thấp. Từ người bậc trung trở lên mới
dạy đạo lý cao siêu, từ người bậc trung trở xuống chớ nên giảng dạy đạo lý
cao siêu. Đối với dân việc gì cần làm thì cứ sai khiến người ta làm chứ
không nên giảng giải vì dân không có khả năng hiểu được nghĩa lý sâu xa.
Người ta sinh ra bản tính đều giống nhau, nhưng vì nhiễm thói quen và do
hoàn cảnh nên họ thành ra khác nhau, chỉ trừ có bậc thượng trí và hạ ngu là
không thay đổi được nết của mình. Người muốn đạt Nhân, chỉ có trí thôi
chưa đủ mà cần phải có dũng nữa. Kẻ có đức nhân tất có dũng khí, nhưng
người có đức dũng chưa chắc đã có nhân. Người có dũng không phải là kẻ
SVTH: Cao Thế Vũ 10
Khóa luận tốt nghiệp
ỷ vào sức mạnh vì lợi mà suy nghĩ và hành động bất chấp đạo lý. Người
nhân có dũng phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao
minh, có thể hành động một cách thanh cao, khi vận nước loạn lạc, khi
người đời gặp phải hoạn nạn. Người nhân có dũng mới tự chủ được mình,
mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa, lập thân và đạt nhân. Và hơn thế, bậc
chí sĩ, người nhân có dũng sẽ sẵn sàng vì nhân mà sát thân, chứ không phải
giữ mạng sống của mình mà hại nhân.
Trong quan điểm về chính trị - xã hội, Khổng Tử cho rằng, nếu thịnh
đức của trời đất vạn vật là trung hòa, là chí thiện thì cái gốc của con người
là trung thứ, là nhân, nhờ đó mà dân tốt, nước yên, thiên hạ bình trị. Nhưng

trong xã hội thời Khổng Tử, người ta sống không theo đạo lý con người
nữa, trật tự lễ nghĩa xáo trộn, luân lý đạo đức suy đồi, vua không ra vua, tôi
không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con, Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí
-Trung - Tín - Hiếu thành kính lu mờ, đảo lộn. Để cải biến xã hội đó,
Khổng Tử đã đưa ra học thuyết Nhân trị và chính danh, đó là hoài bão, ý
nguyện kinh bang tế thế, gần như suốt đời của ông. Dẫu cho người đời chê
cười là người biết việc chẳng làm được mà vẫn làm, cho đến suốt đời, khi
đã gắng hết sức mà không thành công, ông phải ngửa mặt lên trời cao mà
an ủi mình đó là mệnh trời. Theo Khổng Tử nguyên nhân khiến cho xã hội
loạn lạc là do danh thực rối loạn, xã hội đã xa rời đạo lý nhân nghĩa. Muốn
ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương phải giáo hóa đạo đức và thực
hiện chủ nghĩa chính danh định phận. Theo Khổng Tử, vật nào, người nào
trong thực tại đều có một danh nhất định hợp với một thực nhất định (địa
vị, công dụng) đó là chính danh. Nếu danh không hợp với thực, là loạn
danh. Chính danh thì người nào có địa vị bổn phận chính đáng của người
ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi
lấy trung mà thờ vua. Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho
ra con, đó là một nước lễ nghĩa hưng khởi, nhân đức long thịnh, danh phận
chính định. Muốn trị nước, trước tiên, tất phải chính danh. Nếu danh không
SVTH: Cao Thế Vũ 11
Khóa luận tốt nghiệp
chính thì lời nói tất không thuận, lời nói không thuận thì sự việc không
thành, việc không thành tất lễ nhạc không hưng thịnh, lễ nhạc không hưng
thịnh tất hình phạt không đúng, hình phạt không đúng tất dân không có chỗ
nhờ cậy. Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì phải đúng với phận với
nghĩa, đã xứng đúng với danh phận thì phải tùy theo đó mà làm[14;293]
Khổng Tử đã chia xã hội thành những mối quan hệ cơ bản, mỗi quan
hệ cơ bản đó được gọi là một luân, có năm mối quan hệ cơ bản được gọi là
“Ngũ Luân”. Đó là quan hệ vua - tôi; quan hệ cha - con; quan hệ chồng -
vợ; quan hệ anh - em; quan hệ bạn - bè, đặc biệt trong “Ngũ luân” Khổng

Tử luôn nhấn mạnh quan hệ vua - tôi và quan hệ cha- con.
Khổng Tử rất mực chú trọng tu thân sửa mình để đạt được đức Nhân,
Lễ. Lễ là những quy phạm, nguyên tắc đạo đức của nhà Chu, do vua không
giữ đúng đạo vua, tôi không giữ đúng đạo tôi, cha không giữ đúng đạo cha,
con không giữ đúng đạo con… nên thiên hạ vô đạo, phải dùng lễ để khôi
phục lại trật tự phép tắc luân lý xã hội, khiến cho mọi người trở về với đức
Nhân, Lễ và trở thành Chính Danh. Lễ là những phong tục tập quán, những
phép tắc chuẩn mực, nề nếp lễ nghi trong hành vi của con người. Lễ quan
hệ với Nhân rất mật thiết. Nhân là chất, là nội dung, còn lễ là hình thức
biểu hiện của Nhân. Nhân là cái nền tơ lụa trắng tốt mà trên đó người ta
mới vẽ nên những bức tranh đẹp. Ông khuyên người ta chớ nên xem điều
trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ và chớ làm điều trái lễ. Khi
đó con người sẽ đạt được Nhân, xã hội sẽ ổn định, vua sẽ huệ, tôi sẽ trung,
cha sẽ từ, con sẽ hiếu, anh em sẽ kính đễ, chồng tình nghĩa, vợ thuận tòng,
tất cả đều chính danh.
Theo Khổng Tử có hai lớp người là quân tử và tiểu nhân. Quân tử
chỉ những người tôn quý trong xã hội, còn tiểu nhân chỉ những kẻ thấp hèn
trong xã hội. Quân tử là những người lý tưởng mà Khổng Tử khát khao xây
dựng, là rường cột để xây dựng xã hội lý tưởng. Quân tử khác với tiểu nhân
không chỉ về địa vị xã hội mà còn khác nhau về trình độ nhận thức, phẩm
SVTH: Cao Thế Vũ 12
Khóa luận tốt nghiệp
chất đạo đức, thái độ ứng xử. Quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân học
đạo thì dễ khiến. Quân tử đạt đạo lý cao minh, còn tiểu nhân chỉ đạt bậc
thấp. Quân tử thư thái mà không kiêu căng, tiểu nhân kiêu căng mà chẳng
thư thái. Quân tử bao giờ trong bụng cũng lồng lộng, tiểu nhân bao giờ
trong bụng cũng lo ngay ngáy. Đức của người quân tử như gió, đức của
tiểu nhân như cỏ. Gió thổi qua thì cỏ rạp xuống. Theo Khổng Tử, người
quân tử phải có chín điều lo nghĩ: “1. Khi nhìn thì lo cho sáng tỏ, 2. Khi
nghe thì lo cho rõ ràng, 3. Sắc mặt thì lo giữ cho ôn hòa, 4. Tướng mạo thì

lo giữ cho khiêm cung, 5. Nói ra thì lo giữ sự trung thực, 6. Làm việc thì lo
trọng sự kính cẩn, 7. Có điều gì lo hoặc thì lo mà hỏi han, 8. Khi giận dữ
thì nghĩ đến sự hoạn nạn có thể xảy ra, 9. Khi thấy mối lợi thì nghĩ đến điều
nghĩa”[4;7]. Trong triết học Khổng Tử, các phạm trù nhân, lễ, trí, dũng,
chính danh, định phận… có nội dung hết sức phong phú, thống nhất với
nhau và luôn thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm cố
gắng giải đáp những vấn đề đặt ra của lịch sử và là thành quả kết tinh rực
rỡ nhất trong triết lý nhân sinh. Song do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lợi
ích giai cấp, học thuyết triết học của Khổng Tử luôn chứa đựng những mâu
thuẫn, giằng co, đan xen giữa những yếu tố duy vật vô thần với những yếu
tố duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những yếu tố bảo thủ, phản
ánh tâm trạng bị giằng xé của ông trước những biến chuyển của thời cuộc.
Tính không nhất quán của ông đã là cơ sở để các thế hệ sau khai thác,
xuyên tạc theo khuynh hướng khác nhau. Nhưng dù sao, ông cũng xứng
đáng với lòng suy tôn của người đời sau gọi ông là “ vạn thế sư biểu”.
1.2. Sự biến đổi và phát triển của Nho giáo.
Sự biến đổi và phát triển của Nho giáo có thể khái quát thành ba giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhất, là Nho giáo thời kỳ tiên Tần, đại biểu là Khổng
Tử và Mạnh Tử. Khổng Tử đã đề xướng cương lĩnh chính trị đạo đức “khắc
kỷ phục lễ” hy vọng cải biến xã hội, phục hồi chế độ tông pháp và cơ sở
kinh tế chế độ “tỉnh điền” thời Tây Chu. Khổng Tử thiết lập một hệ thống
SVTH: Cao Thế Vũ 13
Khóa luận tốt nghiệp
Triết học bắt đầu từ sự đề cao đạo “trung hòa”, “trung dung”đi đến quan
điểm “thiên lý”, “thiên mệnh”coi đó là lý màu nhiệm lưu hành trong trời
đất và chi phối vạn vật. Từ đó, Khổng Tử nhấn mạnh quan điểm tri mệnh,
úy mệnh, thuận mệnh và tin vào số mệnh “ tử sinh hữu mệnh, phú quý tại
thiên”[19;248]. Biểu hiện của đạo đời hay thiên lý trong đời sống con
người là đạo “trung thứ”, là “ kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” là cái gì mình
không muốn thì đừng làm cho người khác, là trung đối với mình, là thứ đối

với người. Đó là đạo làm người là nhân đức. Để đạt được nhân đức, con
người phải “khắc kỷ phục lễ” với “ chính danh định phận”để duy trì trật tự
xã hội theo thứ bậc, tôn ti của chế độ tông pháp nhà Chu.Người thứ hai của
Nho giáo thời kỳ tiên Tần tiếp nối những tư tưởng của Khổng Tử là Mạnh
Tử. Đứng trên lập trường của giai cấp chủ nô quý tộc. Mạnh Tử đã quy
những vấn đề của triết học Nho giáo vào “nhân chính”, một học thuyết
chính trị đặc sắc. Nhân chính là lấy Nhân đức vận dụng vào trong lĩnh vực
chính trị, làm cho đức nhân không chỉ trở thành cái gốc của chính trị mà
còn là một trong những lý tưởng chính trị cao nhất xã hội lý tưởng, xã hội
đại đồng trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc. Mạnh Tử không chỉ
là người trình bày một cách cụ thể và sâu sắc nội dung của nhân chính trên
cơ sở quan điểm “ý dân”, “dân vi bản bang” , “vi chính dĩ đức”của Khổng
Tử mà còn vững tin vào kết quả cao nhất của nhân chính. Nhân chính là cái
gốc của việc chính trị. Làm chính trị là ở người, giữ người lấy thân mình, tu
thân lấy đạo, tu đạo lấy nhân đức. Một vấn đề then chốt trong triết học
Mạnh Tử là học thuyết về tính thiện. Tính thiện là bản nguyên tinh thần
vốn có là thiên lý trời phú cho con người. Mạnh Tử cho rằng: “Bản tính
con người ta là thiện. Còn như người ta có làm những điều bất thiện, chẳng
qua là họ làm theo tư dục của mình, chứ không phải bản tính con người ta
là vậy”[ 27;156]. Mạnh Tử đã đưa ra ba căn cứ để lý giải. Một là tính thiện
của con người được thể hiện qua bốn đức lớn là nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn
đức lớn này bắt nguồn ở tứ đoan, bốn đầu mối của thiện: Người ta ai cũng
SVTH: Cao Thế Vũ 14
Khóa luận tốt nghiệp
có lòng trắc ẩn(biết thương xót), lòng u tối (biết thẹn, ghét), lòng từ nhượng
(biết cung kính) và lòng thị phi (biết phải trái). “Lòng trắc ẩn là đầu mối
của đức nhân, lòng tu ố là đầu mối của đức nghĩa, lòng từ nhượng là đầu
mối của đức lễ, lòng thị phi là đầu mối của đức trí”. Tứ đoan là bốn đầu
mối của thiện, gọi là thiện đoan, thiện đoan ấy là cái chất, tài chất vốn có
của con người, trời phú cho ta như mầm cây vốn có tứ chi. Nếu biết nuôi

dưỡng, khếch sung thiện đoan thì như lửa bắt đầu cháy, suối bắt đầu chảy,
mỗi ngày một lớn thêm, mạnh lên, chăm sóc nó sẽ trở thành thánh nhân
không khó. Còn nếu đánh mất nó hoặc để nó mai một suy tàn thì sẽ trở
thành nhỏ nhen ti tiện, không khác gì cầm thú, dẫu việc thường như thờ cha
mẹ cũng không làm được. Con người chỉ khác với cầm thú mảy may đó
thôi, mà chỗ giống nhau thì nhiều. Người có tính thiện là biết giữ phần quý,
bỏ phần hèn, giữ cái cao đạo, bỏ cái ti tiện. Hai là, bản tính của con người
ta là thiện, vì tính là cái chung, cái bản chất của một loài, đã là loài người
thì người ta ai cũng đều có chung cái mầm thiện vốn có và ai cũng đều có
các quan năng do trời phú cho mỗi người để nhận biết, phân biệt phải trái
tốt xấu như nhau. Với tài chất và quan năng thiên phú giống nhau đó, người
ta ai cũng có thể trở thành thánh nhân. Ba là, hơn nữa tính thiện của con
người đều bắt nguồn từ tâm của mỗi con người. Tâm là cái chủ thể trong
tinh thần, là cái thần minh trời phú cho ta, là cơ quan để suy nghĩ, nhờ tâm
mà ta phân biệt mọi điều phải trái, thiện ác đủ để ứng phó với vạn vật, vạn
sự cho nên gọi là lương tâm. Vậy nên, con người phải toàn tâm dưỡng tính.
Biện hộ cho giai cấp quý tộc chủ nô, Mạnh Tử chủ trương kẻ lao tâm trị
người, kẻ lao lực bị người trị, đây là nguyên tắc phân công lao động một
cách tự nhiên và là quy luật phát triển của xã hội.
Trái với Mạnh Tử, Tuân Tử đưa ra lý luận cho rằng bản tính con
người là ác. Ông cho rằng việc đi tìm sự thỏa mãn về dục vọng sinh lý là
bản tính của con người, nếu hành động theo bản tính ấy thì trong xã hội tất
nhiên sinh ra cướp bóc tranh đoạt, do đó tính con người là ác, thiện là do
SVTH: Cao Thế Vũ 15
Khóa luận tốt nghiệp
con người ta làm ra, Tuân Tử viết: bản tính con người là hám lợi, sinh ra là
đã hám lợi rồi. Thuận theo sự hám lợi thì tranh đoạt nhau chứ không
nhường nhịn nhau. Sinh ra là đã ganh ghét rồi. Thuận theo sự ganh ghét thì
làm hại nhau chứ không trung tín với nhau. Sinh ra là đã tai ham mắt muốn
thanh sắc rồi thuận theo lòng dục ấy thì sinh ra dâm loạn chứ không có lễ

nghĩa và văn lý. Vậy nếu xuôi theo tính và thuận theo tình, tất sinh ra tranh
đoạt, xâm phạm chức phận nhau, làm loạn đạo lý và trở nên hung bạo. Do
đó cần có thầy và phép tắc để cải hóa nhân tính, lấy lễ nghĩa dẫn dắt nó, rồi
người ta mới có lòng nhường nhịn, hợp với văn lý và trở nên yên trị. Bản
tính con người vốn ác, cái thiện của họ là do tạo tác vậy. Tuân Tử chỉ ra
rằng cái khi sinh ra vốn thế thì gọi là tính, tính cũng là cái được sinh ra do
cái hài hòa của sự sống, tinh túy và đáp ứng với kích thước bên ngoài cũng
là cái không làm mà tự nhiên như thế. Các trạng thái yêu ghét mừng giận
buồn vui của tính thì gọi là tình. Tình như thế mà tâm lựa chọn thì gọi là lự.
Tâm tư lự và có thể theo đó hành động thì gọi là ngụy. Tư lự nhiều, tập
luyện kỹ năng, rồi sau thành tựu thì cũng gọi là ngụy(tạo tác). Hành động
vì cái lợi chính đáng thì gọi là sự. Hành động vì chính nghĩa thì gọi là tri(tri
giác). Tri giác hợp với ngoại vật thì gọi là trí(kiến thức). Cái ở trong con
người mà nhờ nó người ta có thể làm được công việc thì gọi là năng(khả
năng). Khả năng hợp với ngoại vật thì gọi là năng(tài năng). Tính bị thương
thì gọi là bệnh. Cái mà ta tình cờ gặp thì phải gọi là mệnh. Dựa trên quan
niệm sai lầm đó, Tuân Tử cho rằng các khuôn phép như lễ nghĩa, hình phạt
của giai cấp quý tộc và thể chế phong kiến là tất yếu tồn tại. Nhưng học
thuyết tính ác của Tuân Tử cũng có nhân tố hợp lý như hành vi đạo đức của
con người là do thói quen mà thành, phẩm chất của con người là sản phẩm
của hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập giáo dục lâu ngày mà nên.
Tuân Tử nói: tính ác ắt hưng thánh vương, quý lễ nghĩa vậy. Cho nên sinh
ra cái khuôn uốn là vì có cây cong queo, bày ra dây mực là vì không có sự
không thẳng, lập quân thượng, sinh lễ nghĩa là vì người có tính ác. Mặc dù
SVTH: Cao Thế Vũ 16
Khóa luận tốt nghiệp
cho bản tính con người là ác, nhưng Tuân Tử cho rằng có thể giáo dục cải
hóa con người từ ác thành thiện được. Tuân Tử không thừa nhận quan điểm
đạo đức thiên phú vì tính người tuy ác nhưng nếu ra sức tu dưỡng đạo đức
thì bất cứ người nào cũng có thể đạt được địa vị người quân tử. Sự phân

biệt giữa quân tử và tiểu nhân cũng như sĩ nông thương không phải là do
tính thiện của họ quyết định mà là kết quả của sự tích lũy lâu ngày, thói
quen chăm chú lâu ngày. Như thế Tuân Tử đã quy thành phần giai cấp
trong xã hội là do sự tích lũy tập quán sinh hoạt sinh ra, nhưng trong điều
kiện lịch sử lúc bấy giờ, cách đặt vấn đề như vậy đã bao hàm sự phủ nhận
thành phần giai cấp cha truyền con nối, phủ nhận quan điểm thiên phú nên
cũng có ý nghĩa tích cực. Xuất phát từ nhu cầu bản năng sinh vật tự nhiên
của con người là phóng túng, thích gì được nấy, thỏa mãn dục vọng, tự tư
tự lợi, Tuân Tử đã khẳng định rằng bản tính của con người là ác. Tuân Tử
cho rằng tất cả mọi người đều có chỗ giống nhau là đói thì muốn ăn, rét thì
muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ, thích cái lợi, gét cái hại, những cái đó người
ta sinh ra vốn đã có rồi. Theo Tuân Tử, những cái mà Khổng Tử gọi là đạo
nhân, Mạnh Tử gọi là thiện hoàn toàn do sự tu dưỡng sau này của con
người mới có. Tuân Tử nói: “phàm bản tính con người là do trời làm nên,
không thể học được cũng không thể làm ra được. Còn lễ nghĩa là do thánh
nhân tạo sinh ra, người ta có thể học mà biết, có thể làm mà
thành”[20;259].
Cáo Tử là một đại biểu của Nho giáo, lại cho rằng bản tính của con
người là không thiện cũng không ác, là cái nguyên sơ, vốn có ban đầu, là
cái gì đó thuần túy, mộc mạc ngây thơ, ví như tờ giấy trắng vậy. Cái tính tự
nhiên của con người chẳng phân biệt thiện với ác, nó cũng giống như dòng
nước, chẳng phân biệt phía đông hay phía tây vậy. Như vậy, Cáo Tử đã ít
nhiều đề cập đến cái bản năng sinh vật tự nhiên của con người, còn về mặt
xã hội, tính người là thiện hay ác chỉ có thể hình thành về sau và phụ thuộc
vào hoàn cảnh xã hội, giáo dục.
SVTH: Cao Thế Vũ 17
Khóa luận tốt nghiệp
Giai đoạn thứ hai là Nho giáo thời kỳ Lưỡng Hán. Nổi lên một nhân
vật quan trọng đó là Đổng Trọng Thư (179-104 trước công nguyên). Đổng
Trọng Thư là người đã có công khôi phục và hệ thống hóa tư tưởng Nho

học thời kỳ Tiên Tần, nhất là phần triết lý đạo đức nhân sinh của Khổng -
Mạnh, kết hợp tư tưởng Nho học với chủ nghĩa thần bí trong thuyết âm
dương, ngũ hành. Phục hồi lý luận chính trị thần quyền thời Tây Chu, tạo
nên hình thái mới của Nho học, trở thành hệ tư tưởng thống trị của xã hội
phong kiến thời kỳ Lưỡng Hán về sau. Đổng Trọng Thư đã đề ra lý luận
thần học “ trời và người hợp nhất”, “trời trao chính quyền”, “trời với người
cảm ứng”. Đổng Trọng Thư cho rằng trật tự tự nhiên và trật tự xã hội đều
sắp đặt theo ý chí của thần, thân thể ý thức và tình cảm con người cũng đều
do thần ban cho. Trời có bốn mùa, người có tứ chi; trời có 365 ngày, người
có 365 đốt xương; đầu tròn là dung mạo của trời, tai mắt là tượng trời, mặt
trăng, miệng mũi hô hấp là tượng gió mưa, là tượng các vì sao, lòng tốt
xấu, mừng giận của con người hợp với sự nóng lạnh ẩm khô của trời; phẩm
chất đạo đức, tính tình cũng do trời phú cho. Đổng Trọng Thư cho rằng con
người có cả hai bản tính là thiện và ác. Tính là có nguồn gốc từ trời. Trời
ban có hai khí là âm và dương, con người ta cũng có hai bản tính là thiện
và ác. Bản tính ấy do trời phú cho nhưng chưa hoàn toàn là thiện cũng chư
hoàn toàn là bất thiện. Gạo từ lúa mà ra nhưng cây lúa chưa phải hoàn toàn
là gạo, cái thiện ở trong bản tính của con người mà ra nhưng bản tính chưa
phải hoàn toàn là thiện. Theo Đổng Trọng Thư, cái tính thiện do trời phú
cho con người chỉ tồn tại dưới dạng khả năng. Nó chỉ hoàn toàn thiện trong
con người là nhờ trời, nhờ sự giáo dục, giáo hóa. Để phù hợp với nhu cầu
cai trị của giai cấp thống trị và bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn cơ cấu giai cấp
trong xã hội phong kiến, Đổng Trọng Thư cho rằng, tính người có ba bậc
gọi là tính tam phẩm gồm thượng, trung, hạ tùy theo sự bẩm thụ thiên lý
khác nhau. Tính thượng đẳng là tính thiện trời sinh, tính thiện chỉ có ở
thánh nhân, đương nhiên là người cao trên hết, tính hạ đẳng là tính của
SVTH: Cao Thế Vũ 18
Khóa luận tốt nghiệp
những người tham dục khó cải hóa chỉ làm điều ác, trời sinh ra đã ngu dốt.
Đó chính là tính của tầng lớp nhân dân trong xã hội phong kiến. Vì vậy

nhân dân lao động tất yếu phải chịu sự thống trị của thánh nhân, tính ác chỉ
có ở những người bị trị. Tính trung đẳng là loại có thể trở thành thiện cũng
có thể trở thành ác, tính vừa thiện vừa ác, nhưng vẫn có thể dùng luân lý
đạo đức phong kiến để giáo hóa làm cho nó trở thành thiện, có ở những
người trung bình, như tầng lớp trung gian, trung dân. Thực chất thuyết
chính tam phẩm của Đổng Trọng Thư chính là sự kế thừa và thổi phồng
mặt tiêu cực của lý luận duy thượng trí dữ hạ ngu bất di của Khổng Tử. Nó
là căn cứ lý luận để biện minh cho tính hợp lý của chế độ đẳng cấp phong
kiến. Theo Đổng Trọng Thư tất yếu dẫn tới sự khác nhau về địa vị và vai
trò của ba bậc đó trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Theo đó, thánh nhân
ở địa vị là người nắm quyền thống trị có trách nhiệm thay trời trị dân, giáo
dân. Người bị trị là đối tượng của giáo hóa, là những kẻ bị cai trị vì tính của
họ chỉ có ác gian tà, tham lam hèn kém. Đổng Trọng Thư đã hệ thống hóa
học thuyết Nho giáo một cách tương đối hoàn chỉnh, làm cho quân quyền
và thần quyền quyện chặt vào nhau.
Giai đoạn thứ ba là Nho giáo thời kỳ Tống - Minh - Thanh, giai cấp
thống trị đã chủ trương độc tôn Nho học, phản đối pháp gia, cạnh tranh, kế
thừa tư tưởng của các học phái Phật giáo, Đạo giáo, sáng tạo nên một hình
thái mới của Nho giáo gọi là lý học. Lý học đã phát triển tư tưởng của Nho
giáo qua hệ thống các nguyên lý, các cặp phạm trù trên các lĩnh vực bản thể
luận, nhận thức luận và đạo đức nhân sinh như đạo và khí, lý và khí, tâm và
vật, tri và hạnh, trí tri cách vật, thiên lý, nhân dục, tam cương, ngũ thường
với các đại biểu tiêu biểu như Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy, Lục Cửu
Uyên, Vương Thủ Nhân, Đới Chấn, Nhan Nguyên. Còn phái lý học Trình -
Chu cho rằng vạn vật trong vũ trụ, vật nào cũng đều có lý và khí hay đạo và
khí. Trong đó lý và đạo là cái trừu tượng tuyệt đối thuộc hình nhi thượng
biểu hiện trong khí, chi phối khí; còn khí là cái cụ thể hữu hình mà lý biểu
SVTH: Cao Thế Vũ 19
Khóa luận tốt nghiệp
hiện ở trong đó và chịu sự chi phối của lý. Họ nói rằng trên đời chỉ có một

lý, vạn vật cùng một thiên lý, trong trời đất có lý có khí. Lý là đạo thuộc
hình nhi thượng, là gốc sinh ra vạn vật. khí là khí chất thuộc hình nhi hạ,
khí cụ để tạo thành sự vật, cho nên người và vật sinh ra ắt là bẩm cái khí rồi
mới có hình. Trong thiên hạ chưa có khí nào mà chưa có lý, cũng chưa có
lý nào mà chưa có khí. Khí là dựa vào lý mà thành. Đến khi khí tụ lại thì lý
cũng tồn tại. Bởi vì, khí thì có thể ngưng kết tạo tác, lý lại không tình ý
không tạo tác. Như vậy, lý chỉ một thế giới tinh khiết, không hình thức dấu
tích nên cũng không tạo tác được. Khí thì có thể ấp ủ ngưng tụ mà sinh ra
các vật, tuy nhiên có khí thì đã có lý tồn tại bên trong. Trái với quan điểm
của phái lý học Trình - Chu là phái tâm học Lục Vương, coi tâm là bản thế
của thế giới và là cội nguồn của tri thức, vạn vật trời đất thậm chí cả quỷ
thần, lý trời đều có trong tâm con người, do tâm con người mà nó mới tồn
tại, không có tâm ta thì không có sự tồn tại nào cả. Họ cho rằng vũ trụ
chính là tâm ta, tâm ta tức là vũ trụ, ngoài tâm không có vật, ngoài tâm
không có sự việc, ngoài tâm không có lý, ngoài tâm không có học. Linh
minh ta là chủ thể của trời đất quỷ thần vạn vật. Trời đất quỷ thần vạn vật
mà tách khỏi linh minh ta thì không có trời đất quỷ thần vạn vật nữa.
Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I trước công nguyên, nhưng trong
suốt một ngàn năm bắc thuộc, ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam còn rất
hạn chế. Có thể nói rằng ở Việt Nam lúc bấy giờ, Nho giáo là công cụ
thống trị của chính quyền đô hộ phương Bắc và phục vụ cho chính quyền
đô hộ đó. Trong suốt một ngàn năm đô hộ nước ta, các thế lực phương Bắc
đã dùng Nho giáo làm công cụ đồng hóa dân tộc ta. Không chịu sự đồng
hóa, dân tộc ta đứng lên chống lại ách đô hộ và tư tưởng Nho giáo để xây
dựng xã hội phong kiến bảo vệ lợi ích của các triều đại. Nhưng cũng chính
sự truyền bá của Nho giáo đã đưa tới Việt Nam một kho tàng tri thức về xã
hội và tự nhiên như nền văn học, sử học, triết học, thiên văn học, y học của
người Trung Hoa cổ đại. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo đã không
SVTH: Cao Thế Vũ 20
Khóa luận tốt nghiệp

thể bám rễ được vào mảnh đất Việt Nam, ảnh hưởng của Nho giáo cũng
chưa vượt ra khỏi phạm vi của các thị trấn để đến với các vùng dân cư rộng
lớn của đồng bằng và trung du bắc bộ, bắc trung bộ. Phải đến sau thế kỷ X,
sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, dân tộc Việt Nam mới
bước sang kỷ nguyên độc lập tự chủ và thực sự bắt tay vào công cuộc xây
dựng nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước phong
kiến quân chủ tập quyền thì xã hội Việt Nam mới đặt ra yêu cầu đối với sự
tồn tại và phát triển của Nho giáo Việt Nam[28;16]. Từ thế kỷ thứ X đến
thế kỷ XIV, Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Việt Nam và
góp phần không nhỏ trong việc tạo thành diện mạo của dân tộc. Trong việc
xây dựng xã hội phong kiến, các triều đại phong kiến Việt Nam đã giành
cho Nho giáo địa vị ngày một quan trọng hơn trong hệ tư tưởng.
Từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, Nho giáo được giữ địa vị độc
tôn. Nhà nước phong kiến và các Nho sĩ mới áp đặt được những quy phạm
đạo đức của Nho giáo xuống các gia đình, dòng họ và làng xã thông qua
các điều luật, các chỉ dụ, các huấn điều và những quy ước về lễ nghi như
tang lễ, hôn lễ. Nho giáo thời kỳ này đã có những ảnh hưởng nhất định, có
yếu tố tích cực như tư tưởng đại đồng, hiếu với cha mẹ , bên cạnh đó, nó
cũng có những yếu tố tiêu cực như tư tưởng trọng nam khinh nữ, tính gia
trưởng. Một mặt, Nho giáo đã phát huy được những yếu tố tích cực đặc biệt
trong giáo dục góp phần tạo nên thời kỳ thịnh trị của xã hội phong kiến
Việt Nam, tạo ra những nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, y học kiệt xuất,
những nhà giáo dục, nhà chính trị, đức độ như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Ngô Thì
Nhậm , mặt khác Nho giáo cũng bị các thế lực phản động lợi dụng mặt
hạn chế làm vũ khí tư tưởng chống lại dân tộc, kìm hãm sự phát triển của
đất nước.
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trước sự xâm nhập của chủ
nghĩa tư bản và văn minh phương Tây, chế độ phong kiến Việt Nam và hệ
SVTH: Cao Thế Vũ 21

Khóa luận tốt nghiệp
tư tưởng Nho Giáo trở nên lỗi thời, đẩy xã hội Việt Nam vào cảnh nghèo
nàn lạc hậu không đủ sức chống lại sự xâm lăng của chủ nghĩa đế quốc.
Còn Nho Giáo, đó là hệ tư tưởng bảo vệ chế độ phong kiến suy tàn ấy tất
nhiên có tính phản động, đi ngược lại xu thế phát triển của lịch sử. Sự pha
trộn của các nền văn hóa, các tôn giáo và các dòng tư tưởng ở phương
Đông và phương Tây trong xã hội Việt Nam càng đẩy sự suy tàn của xã hội
phong kiến thêm nhanh chóng. Nếu như trước đây, Nho giao chỉ chấp nhận
đạo lý của Phật giáo và Lão giáo thì giờ đây Nho giáo phải thừa nhận với
cả đạo Thiên chúa giáo nữa[24;148]. Trải qua các triều đại phong kiến,
chưa bao giờ Nho giáo lại thể hiện sự phản động như triều đại nhà Nguyễn.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đã làm cho Nho giáo ở Việt
Nam sụp đổ hoàn toàn cùng với sự sụp đổ của chế độ thuộc địa nửa phong
kiến.
Trên đất nước ta, Nho giáo đã có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều giai
đoạn với những bước thăng trầm khác nhau và không có một trường phái
nào nổi bật cả. Các danh Nho Việt Nam không có sự sáng tạo gì, đóng góp
vào học thuyết mà chỉ thể hiện rõ khí chí, bản lĩnh, tiết tháo của mình trước
những sự việc bất bình của xã hội. Ngày nay chúng ta phê phán Nho giáo
dựa trên lập trường tư tưởng triết học Mác - Lênin. Từ đó kế thừa và phát
huy những nhân tố tích cực của nó để phục vụ cho công cuộc phát triển đất
nước nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng.
1.3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo về “Ngũ luân”.
Trong học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, con người bị ràng
buộc, chi phối bởi vô vàn những mối quan hệ chồng chéo, đan xen hết sức
phức tạp. Ứng với các mối quan hệ ấy, Nho giáo đã đưa ra những quy
phạm, những chuẩn mực đạo đức ràng buộc, cột chặt con người vào trong
những mối quan hệ, định rõ trách nhiệm của các thành viên trong gia đình
và ngoài xã hội. Những quy phạm, những chuẩn mực đạo đức đó gộp thành
SVTH: Cao Thế Vũ 22

Khóa luận tốt nghiệp
"đạo làm người". Theo Nho giáo thì đạo làm người có năm mối quan hệ
vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè.
1.3.1. Quan hệ vua – tôi
Quan hệ vua – tôi là quan hệ mà Nho giáo chú ý nhiều nhất. Vua còn
được gọi là thiên tử (con trời) có sứ mệnh to lớn nhất là thay trời để giáo
dân, trị dân, do vậy mà vị trí của vua là cao nhất, quyền uy của vua là tuyệt
đối và bao trùm lên khắp thiên hạ. Tôi (bề tôi) là khái niệm bao quát nhiều
đối tượng. Thứ nhất là bề tôi bao gồm mọi người nói chung dưới quyền
thống trị của nhà vua, họ là những người bị thống trị . Thứ hai là bề tôi bao
hàm dân, lực lượng đối lập với tầng lớp thống trị gồm vua – quan. Thứ ba
là bề tôi là những người giúp vua trong việc cai trị là tầng lớp quan lại hợp
cùng với nhà vua thành tầng lớp, giai cấp thống trị có vai trò trị nước trị
dân giáo dân. Dù nằm trong thành phần nào cấp độ nào thì trách nhiệm
nghĩa vụ của bề tôi đối với vua là phụng sự nhà vua phải hết lòng, coi vua
là cha mẹ của dân cho nên đức trung còn là đức hiếu, tận trung cũng là tận
hiếu với vua. Còn vua đối với bề tôi, vua phải làm theo mệnh trời là nuôi
dưỡng giáo hóa dân, bởi vì họ cũng là trời sinh ra. Nguyên tắc của việc
giáo dân, dưỡng dân, trị dân của vua là phải dựa theo lễ. Có như vậy dân
mới có đạo đức mới có khuôn phép. Để thực hiện có hiệu quả việc trị dân
giáo dân, dưỡng dân thì nhà vua phải có đạo đức, thường xuyên tu dưỡng
đạo đức, phải yêu thương dân và phải hợp lòng dân. Quan hệ vua - tôi trong
quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử đã ít nhiều có tính nhân văn, nhân
bản sâu sắc. Nếu vua thương yêu bề tôi thì bề tôi phải trung thành với vua.
Vua coi bề tôi như chó ngựa thì bề tôi coi vua như kẻ qua đường, vua coi
bề tôi như bùn rác thì bề tôi coi vua như giặc thù. Vua chư hầu làm nguy
hại đến xã tắc thì phải phế bỏ đi và lập vua khác. Khổng Tử và Mạnh Tử đã
đưa ra các quy phạm đạo đức nhân, nghĩa, hiếu, trung nhằm ràng buộc
trách nhiệm nghĩa vụ lẫn nhau giữa nhà vua và bề tôi. Quan niệm của
Khổng Tử và Mạnh Tử là hợp lý và tiến bộ khi bàn về vai trò của dân, coi

SVTH: Cao Thế Vũ 23
Khóa luận tốt nghiệp
dân có vai trò nhất định trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội, trong
sự hưng vong thịnh suy thành bại của triều đại. Mặc dù vậy về cơ bản các
nhà Nho đều hạ thấp vai trò của dân, phủ nhận vai trò của dân trong tiến
hóa của lịch sử. Rõ ràng là Nho giáo chưa đi đến quan niệm duy vật lịch sử
về vai trò của dân, người sáng tạo động lực của sự phát triển lịch sử. Trong
khi đó lại đề cao tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân nhà vua, của đạo đức và
sự tu dưỡng đạo đức của nhà vua, của bậc quân tử, kẻ thống trị trong những
diễn biến của lịch sử. Từ Đổng Trọng Thư trở đi vua được coi là thiên tử,
được thay trời để trị dân trị thiên hạ. Uy quyền của nhà vua cũng là uy
quyền của trời. Mọi người phải tuyệt đối phục tùng một cách vô điều kiện.
Quyền lực và vai trò của nhà vua đối với thần dân trong thiên hạ là tuyệt
đối. Ý chí mệnh lệnh của nhà vua là ý chí mệnh lệnh của trời. Kẻ nào làm
trái sẽ bị nhà vua thừa lệnh của trời mà trừng phạt. Vai trò của nhà vua, của
kẻ thống trị là tuyệt đối, còn vai trò của nhân dân, của những người bị
thống trị lu mờ, tuân thủ một cách đầy đủ nghiêm chỉnh quyền lực của nhà
vua của kẻ thống trị. Quan hệ vua tôi là quan hệ ứng xử qua lại. Vua phải
biết đối xử với bề tôi, tôn trọng và quý mến bề tôi, còn bề tôi phải biết giữ
đạo khi thờ vua, nếu không làm được điều đó thì hậu quả tất yếu là bề tôi
giết vua. Nếu vua mà coi bề tôi như chân tay ắt bề tôi sẽ coi vua như bụng
dạ. Nếu vua coi bề tôi như chó ngựa thì ắt bề tôi coi vua như bùn rác kẻ
cướp người thù. Vua không được dựa vào quyền hành và thân thế mà đối
xử với bề tôi. Vua cần phải giữ lễ, phải biết tôn trọng người hiền tài, phải
biết lắng nghe lời của bề tôi. Quyền lực của nhà vua là tuyệt đối, là tối cao
song không phải vì vậy mà vua có quyền làm những việc trái với đạo lý trái
lòng dân, phải thích cái thích của dân, phải ghét cái ghét của dân thế mới
gọi là cha mẹ của dân. Người làm vua muốn cho dân kính phục thì phải biết
kẻ có đức người có học thức, kẻ hiền ở ngôi, kẻ giỏi ở chức, nước nhà nhàn
hạ, trong lúc ấy phải lo sửa sang việc hình việc chính cho phân minh. Làm

vua thì phải làm điều tốt để dân theo, vua làm điều nhân nghĩa đạo đức thì
SVTH: Cao Thế Vũ 24
Khóa luận tốt nghiệp
dân chúng bắt chước làm điều nhân nghĩa đạo đức. Lệnh vua mỗi khi đã
ban ra rồi thì bề tôi không được trái. Bề tôi phải biết giúp cho vua đi vào
con đường đạo đức dồn hết tâm trí vào việc nhân không được dối gạt vua,
cũng không sợ làm mất lòng vua phải biết đặt lợi ích của đất nước lên trên
hết, phải biết đem đạo lý thờ vua, việc gì có ích cho nước có lợi cho dân thì
phải giúp vua làm, phải biết căm giận vua khi vua làm những việc trái đạo
lý, không được hùa theo vua mỗi khi vua lầm lỗi, không được đón trước ý
xấu của vua rồi khêu gợi cho vua lầm lỗi. Một nước thịnh trị là trong nước
vua ra vua, tôi ra tôi, trật tự và danh phận của mỗi người phân minh rõ ràng
và như vậy là giữ được cái căn bản của chính trị.
1.3.2 Quan hệ cha - con
Quan hệ cha và con là quan hệ tình cảm và nghĩa vụ sâu nặng bậc
nhất, là một trong ba mối quan hệ cơ bản của con người trong gia đình. Để
duy trì mối quan hệ cha - con duy trì tôn ti trật tự trong gia đình, củng cố
trật tự kỷ cương, ổn định xã hội và ràng buộc trách nhiệm giữa con người
với nhau, Nho giáo đưa ra hai chuẩn mực đạo đức là Từ và Hiếu. Đức từ
(đối với con) cũng chính là để sai khiến chúng dân. Đức hiếu (đối với cha)
cũng chính là để thờ vua. Nho giáo đề cao đức hiếu đức từ nhằm duy trì
vĩnh viễn chế độ tông pháp chủ yếu là sự thống trị của nhà vua, của kẻ
thống trị. Đối với cha, sinh con ra thì phải yêu thương, giáo dục và nuôi
dưỡng con nên người. Khi con còn nhỏ phải có nghĩa vụ chăm sóc con
khôn lớn, khi con trưởng thành phải biết dạy dỗ uốn nắn và làm gương cho
con để con biết đạo làm người, biết trung với vua, biết hiếu với cha, biết
kính với người trên, biết đễ với anh em, biết tin với bạn bè, biết thấy việc
nghĩa thì phải làm, phải biết che chở bảo vệ cho con, sẵn sàng bao che cho
con khỏi phải tội lỗi.
Trong quan hệ cha con thì người làm con phải có đức hiếu để thờ

cha, yêu thương cha, phụng dưỡng cha phải có sự kính cẩn, ngoài việc giữ
gìn thân thể mình khỏi ốm đau, bệnh tật và khỏe mạnh thì phải chăm sóc,
SVTH: Cao Thế Vũ 25

×