Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội của triết học Mác – Lênin và sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự phát triển kinh tế xã hội tại xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 20112013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.48 KB, 63 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
  
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của triết học
Mác – Lênin và sự vận dụng học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội vào sự phát triển kinh tế - xã hội tại xã Hòa
Châu, huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2011-2013
Huế, tháng 5 năm 2014
Giảng viên hướng dẫn
ThS. Phan Doãn Việt
Sinh viên thực hiện
Võ Thị Nhứt
Lớp: Triết K34
1
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc đến Trường Đại học Khoa học, Khoa
Lý luận Chính trị, đặc biệt là giảng viên - Thạc sĩ Thái
Thị Khương đã nhiệt tình hướng dẫn giúp em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tuy đã cố gắng rất nhiều song khóa luận chắc chắc
còn nhiều thiếu sót, rất mong quý thầy cô xem xét và
góp ý để cho khóa luận tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
Huế, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Võ Thị Nhứt
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 4


1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 6
2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của đề tài 8
7. Kết cấu của đề tài 8
B. PHẦN NỘI DUNG 9
CHƯƠNG 1 9
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 9
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN 9
1.1. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận học thuyết hình thái kinh
tế xã hội của triết học Mác – Lênin 9
1.1.1. Cơ sở lí luận và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội 9
1.1.2. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế - xã
hội 12
1.1.3. Quá trình hình thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của triết
học Mác – Lênin và sự phát triển của Lênin 26
1.2. Nội dung chủ yếu của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội 31
1.2.1. Khái niệm học thuyết hình thái kinh tế - xã hội 31
1.2.2. Cấu trúc xã hôi, phạm trù của hình thái kinh tế – xã hội 33
1.2.1.1. Cấu trúc xã hội của hình thái kinh tế - xã hội 33
1.2.2.2. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội 34
1.3. Biện chứng về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
37
1.3.1.Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 37
1.3.2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng 40
1.4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hôi là một quá trình lịch sử

tự nhiên 41
CHƯƠNG 2 45
3
Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ -
XÃ HỘI CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀO SỰ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI TẠI XÃ HÒA CHÂU, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2011 – 2013 45
2.1. Ý nghĩa và giá trị của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội 45
2.2. Đôi nét về tình hình phát triển kinh tế - xã hội tại xã Hòa Châu, huyện
Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng 47
2.3. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội tại xã Hòa Châu, huyện Hòa
Vang, Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011 – 2013 50
2.4. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu 56
2.4.1. Kinh tế 56
2.4.2. Về xã hội 57
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được hình thành, phát triển bắt
nguồn từ những tư tưởng triết học về lịch sử trước đó của loài người. Từ lịch sử
xa xưa, trải qua bao thời gian đến nay dù ở thời đại nào, xã hội nào thì hình thái
kinh tế - xã hội cũng luôn tồn tại và phát triển hoặc tụt lùi theo sự phát triển của
xã hội đó. Để biết được một đất nước nào đó lớn mạnh và phát triển hoặc ngược
lại ta hãy nhìn vào hình thái kinh tế - xã hội của nước đó. Nói đến hình thái kinh
tế - xã hội là ta phải nói đến một chỉnh thể cơ cấu phức tạp chứ không thể nói
đến những thứ riêng lẽ được, nó phải đan xen nhau, có quan hệ không thể tách
rời nhau được và chính mặt toàn vẹn này thì ta mới có được một hình thái kinh
tế - xã hội cần có và phải có. Hình thái kinh tế - xã hội vạch rõ kết cấu cơ bản,
phổ biến của mọi xã hội, quy luật vận động và phát triển của xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là biểu hiện tâp trung của quan niệm
duy vật về lịch sử. Đó là một hình thái có hệ thống, có cơ sở khoa học nhất từ

trước tới nay về xã hội và ngày càng tỏ rõ sức sống mãnh liệt của nó trước thử
4
thách của thời gian. Học thuyết này đã khắc phục mọi quan điểm duy tâm về xã
hội và cung cấp cho chúng ta cơ sở lí luận khoa học vững chắc trong việc hoạch
định các đường lối, chính sách của Đảng ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, đã cho thấy một ngọn nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao đưa dân tộc đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đó là đường lối khoa học và cách mạnh của
Đảng, được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Học thuyết Mác
về hình thái kinh tế - xã hội có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, và vẫn tiếp tục
là kim chỉ nam dẫn dắt chúng ta trên con đường đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự phát triển nền kinh tế tri thức nhằm phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất – nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái
kinh tế - xã hội.
Học thuyết hình thái – kinh tế xã hội của triết học Mác – Lênin đã được xã
Hòa Châu vận dụng một cách linh hoạt trong mô hình phát triển kinh tế - xã hội
tại địa phương, trên cơ sở đó đề ra những phương hướng, biện pháp, nhiệm vụ
cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém đồng thời đưa địa phương trở
thành một trong những mũi nhọn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện
Hòa Vang nói riêng và của thành phố Đà Nẵng nói chung.
Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, bản thân chủ nghĩa Mác – Lênin
cũng đang đứng trước những thách thức lớn. Hiện nay có những học thuyết,
quan điểm công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, hoặc muốn thay thế nó
trong vai trò giải thích con đường vận động cơ bản của lịch sử. Do đó, chủ nghĩa
Mác – Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng đang
đứng trước đòi hỏi là phải bảo vệ và chứng tỏ những giá trị, ý nghĩa bền vững
của mình, phải nhận thức lại và được phát triển một cách chính xác, sâu sắc,
toàn diện và có hệ thống hơn nữa về nội dung khoa học, thì mới có thể tiếp tục
đóng vai trò làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cơ bản cho nhận thức khoa
học về lịch sử.

Những vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu như sự phát triển khoa học công
nghệ, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, ô
nhiễm môi trường,… đòi hỏi mỗi quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp cùng
5
nhau giải quyết. Điều đó, đặt ra những vấn đề có tính cấp bách cả về lý luận và
thực tiễn của việc nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội. Là một sinh viên chuyên
ngành lí luận chính trị được trao cho mình một hệ tư tưởng tiến bộ nhất, khoa
học nhất và cách mạng nhất thì việc lựa chọn lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
nhất là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng nó vào thực tiễn Việt
Nam nói chung hay thực tiễn tại một điạ phương như xã Hòa Châu nói riêng là
một việc làm rất cần thiết nhằm nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân.
Với những lí do trên Tôi chọn đề tài “ Học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội của triết học Mác – Lênin và sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội vào sự phát triển kinh tế - xã hội tại xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang,
Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011-2013” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội – một phát kiến vĩ đại của C.Mác về
tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, đặc biệt là sự vận dụng học
thuyết đó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta được nhiều nhà lý
luận, nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Mỗi tác giả đều có một cách xem xét, đề
cập, đánh giá khác nhau nhưng nhìn chung các đề tài nghiên cứu đều đặt trong
hệ thống nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật nói chung và các quy luật của chủ
nghĩa duy vật lịch sử nói riêng.
Chủ đề học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của triết học Mác – Lênin là đề
tài được rất được nhiều nhà nghiên cứu Mácxit quan tâm và cũng đã không ít
công trình được công bố. Đặc biệt, trong những năm gần đây có rất nhiều công
trình nghiên cứu khoa học khá công phu đề cập đến vấn đề này nhưng dưới
nhiều góc độ khác nhau. Ở đây, có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu như:
- TS. Phạm Văn Chung, “ Học thuyết kinh tế - xã hội và lý luận về con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.

- GS. TS Nguyễn Duy Qúy, “Những vấn đề lý luận về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở nước ta”.
- PGS. TS Đặng Hữu Toàn, “Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc đổi mới
ở Việt Nam”, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
- GS Đặng Hữu, “Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình CNH –
HDH”, Tạp chí cộng sản số 22/2002.
6
- Phạm Ngọc Quang, “Kinh tế tri thức xét từ góc độ lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất”, Tạp chí triết học số 3(142), 2003.
- Lê Văn Giang, “Tìm hiểu sự phát triển của học thuyết duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử cuối thế kỉ XX”, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
- Nguyễn Thị Thủy, “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng
của Đảng ta qua Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng”, 2005.
- Trần Thị Thúy, “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của triết học Mác-
Lênin với việc hoạch định con đường lên CNXH ở Việt Nam”, 2006.
- Lê Sỹ Minh, “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của
Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế qua nghị quyết lần thứ XII và lần thứ XIII”, 2006.
Các công trình, tác phẩm tiêu biểu trên đã lí giải nhiều vấn đề căn bản về
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, các quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; về quy luật cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng; sự vận dựng của Đảng ta trong việc vạch ra con
đường đi lên của CNXH. Tuy nhiên chưa có công trình, tác phẩm nào nghiên
cứu theo hướng của đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
triết học Mác – Lênin và sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào
sự phát triển kinh tế - xã hội tại Xã Hòa Châu, Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2011-2013” Tôi đã có sự tiếp thu, kế thừa những thành tựa đạt
được trong các công trình nghiên cứu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là trình bày một cách tổng quát lịch sử hình
thành cũng như nội dung và ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, vạch ra cơ sở lý
luận khoa học và cách mạng trong việc vận dụng cụ thể tình hình phát triển kinh
tế - xã hội tại Xã Hòa Châu, từ đó đề ra những phương hướng, nhiệm vụ phát
triển trong tình hình mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lí luận, phương pháp luận, nội dung và ý
nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
- Tìm hiểu thực trạng phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương
7
- Đề ra những phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong
tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Phân tích, chứng minh và đánh giá giá trị của học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội dưới góc độ triết học Mác – Lênin
- Quá trình vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự phát triển
kinh tế - xã hội tại Xã Hòa Châu, Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu đề tài : Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tại Xã
Hòa Châu, Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận
Đề tài được dựa trên cơ sở những nguyên lí, những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
- Phép biện chứng duy vật với những nguyên tắc khách quan, toàn diện,
lịch sử - cụ thể là phương pháp xuyên suốt đề tài.

- Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, điều tra, thống kê, vẽ biểu đồ,…để thực hiện
đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
- Từ lập trường triết học Mác – Lênin đề tài đã trình bày có hệ thống các
quan điểm nội dung, ý nghĩa về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
- Đề tài là sự vận dụng linh hoạt mối quan hệ biện chứng trong cấu trúc hình
thái kinh tế - xã hội đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đồng thời là
những phương hướng, nhiệm vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài được kết
cấu thành 2 chương, 8 tiết.
Chương 1: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của triết học Mác – Lênin
8
Chương 2: Ý nghĩa và sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào
sự phát triển kinh tế - xã hội tại Xã Hòa Châu, Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2011-2013.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
1.1. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận học thuyết hình thái
kinh tế xã hội của triết học Mác – Lênin
1.1.1. Cơ sở lí luận và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội sở dĩ là một học thuyết triết
học khoa học về lịch sử, vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chính nó, đó là phép biện chứng duy vật hay chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Với việc phát hiện ra quy luật vận động của các hình thái
kinh tế - xã hội, Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong nhận thức về đời

sống xã hội và bắt đầu từ đó việc nhận thức dựa trên một nền tảng thế giới quan
mới – thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Thế giới quan khoa
học của C.Mác không chỉ cho phép chúng ta phân tích các sự kiện vô cùng phức
tạp của xã hội đương đại, mà còn có khả năng nhìn vào chiều sâu lịch sử quá
khứ đồng thời cũng có cơ sở dự báo cho một xã hội tương lai.
Trong tác phẩm Các Mác, trước khi trình bày “Quan niệm duy vật lịch sử”
của C.Mác, Lênin đã trình bày “Chủ nghĩa duy vật triết học” và “Phép biện
chứng” như là những học thuyết triết học độc lập của C.Mác so với quan niệm
ấy. Lênin viết: “Nhận thấy chủ nghĩa duy vật cũ là không triệt để, chưa hoàn
toàn bị và phiến diện nên Mác cho là cần phải làm cho khoa học – xã hội phù
hợp với cơ sở duy vật, và dựa vào cơ sở đó để cải tạo khoa học ấy [24;66]. Điều
đó chứng tỏ rằng những học thuyết triết học ấy là cơ sở lí luận và phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và đương nhiên là của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội ra đời nhằm đáp
ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn và nhận thức đương thời, là chứng tỏ lịch
sử xã hội loài người nói chung là quá trình phát triển có quy luật. Vì vậy, vấn đề
9
đặt ra phải tìm hiểu phép biện chứng duy vật và vận dụng phép biện chứng đó
như thế nào để có thể nhận thức khoa học quá trình phát triển xã hội loài người
nói chung.
Theo Lênin, Mác – Ăngghen coi phép biện chứng của Hêghen là “học
thuyết toàn diện nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất về sự phát triển” [12;63].
Ông giải thích rõ hơn: “Đối với hai ông thì diễn đạt về nguyên lý về sự phát
triển, nguyên lý về sự tiến hóa bằng bất cứ giá nào khác (với cách Hêghen đã
thực hiện) đều là phiến diện, nghèo nàn, bóp méo và cắt xén quá trình thực tế
của sự phát triển (thường có những bước nhảy vọt, những đột biến, những cuộc
cách mạng) trong tự nhiên và xã hội” [12;63].
Từ những luận điểm vừa nêu cho thấy rõ hai điểm thể hiện bản chất lý luận
của phép biện chứng duy vật đó là nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
là học thuyết về sự phát triển với những đặc điểm nổi bật: toàn diện nhất, phong

phú nhất và sâu sắc nhất. Sở dĩ như vậy là vì, học thuyết về sự phát triển được
thể hiện trong phép biện chứng của Hêghen chính là một hệ thống những khái
niệm, phạm trù, quy luật, phản ánh sự phát triển hết sức phong phú của thế giới
nói chung. Toàn bộ các khái niệm, phạm trù, quy luật của phép biện chứng và
những mối liên hệ phong phú của chúng là sự triển khai một cách toàn diện nội
dung của quá trình phát triển. Tuy phép biện chứng của Hêghen được xây dựng
trong một hệ thống triết học duy tâm, song với quan điểm kế thừa và cải tạo các
nhà kinh điển đã phát hiện ra cái “hạt nhân hợp lý” trong hệ thống triết học đó là
phép biện chứng làm cơ sở cho việc xây dựng học thuyết Mác về hình thái kinh
tế - xã hội.
Từ sự trình bày trên, quan điểm chủ yếu được rút ra là cần phải thể hiện sự
kết hợp nhuần nhuyễn nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển trong phép biện chứng duy vật để nhận thức quá trình phát triển của
lịch sử hiện thực. Đó là cơ sở lý luận của học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế -
xã hội.
Trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật thì việc làm sáng tỏ vai trò
phương pháp luận đối với sự hình thành học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế -
xã hội có ý nghĩa to lớn. Thật vậy, đối với mọi lĩnh vực hiện thực khách quan
10
nhất là đối với hiện tượng, quá trình xã hội, lịch sử thì việc nhận thức quá trình
phát triển sinh động của chúng trong chỉnh thể một cách khoa học không cho
phép vận dụng một cách cô lập, máy móc một phạm trù, khái niệm, quy luật nào
đó của phép biện chứng duy vật, trái lại phải vận dụng chúng một cách biện
chứng sao cho chúng biểu hiện được những vòng khâu, những yếu tố và những
mối liên hệ tất yếu qui định nên tính chỉnh thể toàn vẹn của quá trình phát triển
hiện thực. Tuy nhiên, việc vận dụng đó phải có tiền đề và căn cứ của nó, một
trong những tiền đề quan trọng đó là phương pháp đi từ tư duy trưu tượng đến
cụ thể được tổng kết thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc trong hệ thống triết
học của Hêghen, nhất là trong khoa học logic của ông. C.Mác đã kế thừa
phương pháp cơ bản của hệ thống đó và thể hiện nó trong nghiên cứu kinh tế

chính trị học một cách tuyêt vời. Trong “lời nói đầu” tác phẩm các bản thảo kinh
tế những năm 1857 – 1859 Mác viết “cái cụ thể sở dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng
hợp của nhiều tính qui định, do đó nó là sự thống nhất của cái đa dạng” [16;36].
Với phương pháp từ trừu tượng đến cụ thể đòi hỏi phải vận dụng một cách
tổng hợp những khái niệm, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật mới
có thể hiểu được sự vật trong chỉnh thể, sự vật mới có thể tái hiện với tư cách cái
cụ thể trong tư duy. Do đó, yếu tố cơ bản của phương pháp này chính là quan
điểm hay phương pháp tổng hợp và yêu cầu cơ bản của nó là tìm ra được những
yếu tố hoặc liên hệ cơ bản của đối tượng, để từ đó tiến lên nắm đối tượng trong
hệ thống, trong chỉnh thể. Đây chính là một trong những yếu tố cơ bản của phép
biện chứng duy vật, nó kết tinh, “tóm tắt” nội dung cơ bản của phép biện chứng
ấy.
Khi coi phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận và phương pháp luận của
quan niệm duy vật lịch sử nói chung, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã không
tách rời phép biện chứng khỏi chủ nghĩa duy vậy. Đây là điểm khác biệt với các
nhà triết học trước đó như Hêghen chẳng hạn “mặc dù phép biện chứng đã có
hình thức trình bày tuyệt vời trong hệ thống triết học của mình, nhưng hình thức
ấy chỉ thực sự trở nên có giá trị khi được C.Mác và Ăngghen cứu vớt, tức là đặt
nó trên cơ sở duy vật khoa học”[12;63]. Do vậy, khi nói đến ý nghĩa của phép
biện chứng trong vai trò là cơ sở lý luận và phương pháp của học thuyết hình
11
thái kinh tế - xã hội không thể không nói đến ý nghĩa của chủ nghĩa duy vật đã
đặt ra cơ sở khoa học cho phép biện chứng hay nói cách khác thực chất của phép
biện chứng duy vật và sự thống nhất chặt chẽ bên trong của chủ nghĩa duy vật về
phép biện chứng. Vấn đề này đã được chứng minh trong toàn bộ lịch sử của chủ
nghĩa C.Mác.
Như vậy, thực chất của chủ nghĩa duy vật của C.Mác là gì?
Đó chính là ở chỗ nó đã giải quyết một cách duy vật khoa học vấn đề cơ
bản của triết học, tức là nó đã đêm lại một quan niệm mới về vật chất dưới nhận
thức khoa học, đó là nhận thức phạm trù. Nhờ dựa trên quan niệm khoa học về

vật chất như thế, C.Mác đã xây dựng được các khái niệm khoa học tương ứng
nhau của chủ nghĩa duy vật lịch sử là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đến lượt
mình, những khái niệm làm cơ sở cho nhận thức khoa học về quá trình phát triển
lịch sử xã hội loài người nói chung. Vì vậy, chủ nghĩa duy vật của Mác không
những mang tính khoa học mà còn rất triệt để.
Tóm lại, trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và phương pháp luận của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội có thể khẳng định rằng phép biện chứng duy vật
mà nội dung cơ bản của nó là phương pháp tư duy tổng hợp hay quan điểm tổng
hợp là cơ sở lý luận và phương pháp luận cơ bản nhất của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội nói riêng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói chung. Chính phép
biện chứng duy vật là cơ sở để khắc phục những sai lầm, hạn chế của những tư
tưởng triết học về lịch sử trước kia và để lại cho chúng ta một phương pháp khoa
học để tiếp cận lịch sử, mở đường cho việc nghiên cứu khoa học lịch sử xã hội
loài người.
1.1.2. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế -
xã hội
Học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội hình thành, phát triển dựa
trên cơ sở kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trước đó. Nó ra đời
và phát triển là kết quả của sự phát triển lâu đời của toàn bộ nhận thức triết học
về lịch sử loài người, mà hạt giống tư tưởng đầu tiên của nó đã được gieo trên
mảnh đất lịch sử bởi những trí tuệ, tư tưởng lớn thời cổ đại, trung đại, cận đại ở
phương Đông và phương Tây.
12
Như đã biết, trước khi chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện, chủ nghĩa duy
tâm đã ngự trị trong nhận thức về xã hội, song không phải vì thế mà những quan
niệm triết học về lịch sử trước kia không có ý nghĩa gì về lịch sử, trái lại chúng
đã đạt được những thành tựu và những giá trị có thể là tiền đề không thể thiếu
được đối với sự hình thành và phát triển học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Những tư tưởng về con người, xem con người là chủ thể của lịch sử, tư tưởng về
xã hội như là tổ chức lịch sử của con người, tư tưởng về lịch sử nhân loại nói

chung là một quá trình phát triển,… đã góp phần to lớn vào sự phát triển nhận
thức triết học về lịch sử. Nổi bật lên trong những tư tưởng ấy là những quan
niệm về quá trình phát sinh, phát triển có quy luật của lịch sử loài người nói
chung, mặc dù chúng mang tính chất duy tâm chủ nghĩa và còn nhiều hạn chế.
Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, khi quan điểm phát triển chính
thức được đem vào nhận thức lĩnh vực xã hội và lịch sử thì nhận thức triết học
về lịch sử cũng chính thức đánh dấu sự ra đời và phát triển bằng quan niệm coi
lịch sử loài người nói chung là quá trình phát sinh, phát triển. Cùng với tư tưởng
coi con người là xuất phát điểm của nhận thức xã hội, lịch sử, các nhà tư tưởng
trước C.Mác cũng đã thấy được sự nhận thiết phải nhận thức xã hội như những
hệ thống, chỉnh thể.
Cụ thể, vào thời kỳ này đã xuất hiện nhiều quan niệm ví tổ chức xã hội như
những hệ thống máy móc chẳng hạn như: gắn liền với phát minh của Oát Gi về
máy hơi nước đã nảy sinh ra quan niệm coi xã hội như động cơ, hay áp dụng quy
tắc cơ học của Niutơn các nhà triết học cho rằng các yếu tố trong vũ trụ phụ
thuộc nhau là do lực hút và lực đẩy. A.Xmít cho rằng, trình tự xã hội phát sinh
hoàn toàn do sự cạnh tranh tự do. Nhà tư tưởng người Nga LiLien Feld ở thế kỷ
XIX đã ví xã hội như cơ thể con người thậm chí đem đối chiếu sự tương ứng của
từng điểm trên cơ thể đó còn mang tính chất máy móc, cơ học và sinh vật về tổ
chức xã hội, song đóng góp là ở chỗ quan niệm về lịch sử loài người nói chung
là quá trình phát triển tất yếu và có quy luật.
Nhà tư tưởng được C.Mác đánh giá cao, coi những tác phẩm của ông ta như
chứa đựng những “tia chớp của thiên tài” là Giambaxtixta Vicô (1668 – 1774) –
người Ý, đã nêu tư tưởng về sự tiến tiễn logic trong lịch sử. Theo ông, lịch sử
13
nhân loại là lịch sử phát sinh, phát triển của dân tộc diễn ra theo chu kỳ ví như
sự phát triển của mỗi cá thể người, bắt đầu từ thời thơ ấu, qua thời thanh niên rồi
đến tuổi trưởng thành, sau đó lại quay trở về thời kỳ đầu tiên và một chu kỳ mới
trong sự phát triển của dân tộc lại bắt đầu. Tư tưởng này của Vicô chính là quan
niệm về sự vận động đi lên của lịch sử loài người mà đặc trưng của quá trình đó

là sự thay đổi về chất của những tổ chức xã hội toàn vẹn trong phạm vi dân tộc,
do thể chế thống trị đóng vai trò quyết định. Tư tưởng ấy cũng bao hàm cả quan
niệm về sự phân kỳ lịch sử theo quan điểm của phát triển, tuy nhiên đây là sự
phát triển theo những chu kì khép kín. Mặc dù vậy, nhưng với những quan niệm
đó, lần đầu tiên trong tiến trình nhận thức triết học Vicô đã cắm một cột mốc
quan chắc chắn trong việc khám phá sự phát triển có quy luật của lịch sử xã hội
loài người nói chung.
Tiến một bước xa hơn nữa trong quan niệm về sự phát triển, nhà tư tưởng
Pháp – Gi. Rútxô (1712 – 1778) đã nêu tư tưởng về xu thế chung của lịch sử
nhân loại thông qua sự phát triển của các quan hệ xã hội và lịch sử đó diễn ra
theo quy luật phủ định của phủ định. Ông giải thích: “đầu tiên khi còn ở trạng
thái tự nhiên và dã man, con người bình đẳng với nhau hoàn toàn. Nhưng vì con
người có đặc tính hơn con vật là ở chỗ có khả năng đạt tới sự hoàn thiện và phát
triển hơn nữa nên đã đưa nó tới giai đoạn bất bình đẳng. Bất bình đẳng là bước
tiến của con người, nhưng vì bất bình đẳng mang tính chất đối kháng nên nó
cũng là bước lùi. Khi bất bình đẳng lên tới tột độ thì nó sẽ đưa tới bình đẳng ở
trình độ cao hơn của khế ước xã hội so với bình đẳng tự phát cũ của người
nguyên thủy không có ngôn ngữ. Kẻ đi áp bức bị áp bức trở lại. Đó là phủ định
của phủ định” [9;198,199]. Đây chính là một trong những động lực cơ bản thôi
thúc C.Mác – Ăngghen xây dựng quan điểm về lịch sử mà nền tảng của nó là
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Trong nhận thức triết học trước C.Mác về lịch sử, tư tưởng về quá trình
phát triển lịch sử nói chung không tách rời tư tưởng về sự thống nhất toàn vẹn
của xã hội, lịch sử. Trong tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp và Đức, trí tuệ
nói chung đã được xem là cơ sở sâu xa nhất của xã hội, của lịch sử. Chẳng hạn,
khi nói về tính thống nhất chỉnh thể của thế giới và coi đó là đối tượng của triết
14
học về lịch sử nhà Khai sáng người Đức I.G.Hécđơ (1744 – 1803) đã coi cơ sở
của tính chỉnh thể của lịch sử nhân loại cũng như của thế giới nói chung là
Thượng đế với tư cách là một trí tuệ duy nhất khách quan của tự nhiên và lịch

sử, đó là một sự “anh minh” mà nhờ đó những bộ phận của toàn nhà thế giới đã
phối hợp với nhau thành hệ thống. Do đó ông cho rằng, nhiệm vụ của triết học là
phải vạch ra cái cơ sở khách quan này. Với quan niệm đó Hécđơ đã góp phần
bác bỏ quan niệm cho rằng lịch sử xã hội chỉ là những quá trình hỗn độn, tùy
tiện và quan trọng hơn nó cho thấy nhiệm vụ cấp thiết của nhận thức triết học về
lịch sử lúc này là phải vạch ra và chứng minh sự tồn tại của các cơ sở khách
quan quy định tính thống nhất, tính chỉnh thể của lịch sử loài người nói chung.
Ph. Hêghen (1770 – 1831) – nhà triết học vĩ đại người Đức đã xây dựng
một quan niệm rất độc đáo về quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người nói
chung, cụ thể ông đã trình bày sơ đồ phát triển như sau: 1. Thế giới phương
Đông chỉ có một người tự do; 2. Thế giới Hylạp và Rôma có tự do hạn chế của
một số người; 3. Thế giới Đức có tự do cho tất cả mọi người. Với quan niệm này
Hêghen đã vạch ra được tiến trình logic của lịch sử trong phạm vi toàn thế giới,
không chỉ dừng lại ở đó trong tư tưởng của mình Hêghen muốn hướng tới cái
căn nguyên thật sự cua quá trình lịch sử đó là sự phát triển của bản thân con
người luôn luôn khát khao và không ngừng lao động đấu tranh cho tự do. Nhưng
vì quan niệm về sự tồn tại của Hêghen thực chất là tồn tại tinh thần cho nên ông
chỉ thấy có “ý niệm tự do” là tồn tại thực sự trong lịch sử chứ không thấy những
con người bằng thịt đang khao khát vươn tới tự do. Đó là quan niệm duy tâm rõ
ràng về lịch sử nhưng dù sao đi nữa thì những tư tưởng đó của ông cho thấy rằng
chỉ có thể vạch ra xu hướng chung, tất yếu của lịch sử xã hội loài người khi nó
thể hiện được quá trình vận động có quy luật và là quá trình của bản thân con
người.
Một trong những tiền đề tư tưởng triết học về lịch sử góp phần trực tiếp làm
nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đó là tư tưởng triết học về lịch sử của
các nhà khoa học chủ nghĩa không tưởng Pháp. Đầu tiên phải kể đến đó là Xanh
Xi Mông (1760 – 1825) Ông đã chia lịch sử loài người thành các giai đoạn phát
triển chủ yếu, gắn liền với các hệ thống xã hội như sau: 1. Thời cổ đại với những
15
hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ nô lệ; 2. Thời trung đại với hệ thống

xã hội xây dựng trên cơ sở lao động bị cột chặt vào ruộng đất; 3. Thời cận đại
với những hệ thống xã hội được xây dựng trên cơ sở lao động làm thuê, là hệ
thống xã hội công nghiệp. Điểm đáng chú ý nhất của ông là đã lấy các tổ chức
xã hội làm đơn vị để phân chia các giai đoạn lịch sử cơ bản và lấy phương thức
lao động làm đặc trưng cho mỗi giai đoạn và làm tiêu chuẩn cho sự phân chia.
Với quan niệm đó của Xanh Xi Mông đã tiến dần đến quan niệm duy vật lịch sử.
Một đại biểu khác của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là Phuriê Sáclơ (
1772 – 1837), đã chia toàn bộ lịch sử xã hội thành 4 gian đoạn phát triển: giai
đoạn mông muội, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn dã man và giai đoạn văn minh.
Đây chính là tư tưởng về sự phân kì những giai đoạn cơ bản của lịch sử theo xu
hướng đi lên của loài người và mỗi giai đoạn đó được đặc trưng bằng những
biểu hiện của quan hệ giữa người và người. Ông còn thấy được cả mâu thuẫn
của quá trình lịch sử, nhất là trong giai đoạn văn minh. Ông thấy ở đây “sự
nghèo khổ sinh ra từ sự dồi dào” và mỗi giai đoạn lịch sử đều có con đường đi
lên và con đường đi xuống của nó [9;286,287]. Có thể nói, với tư tưởng biện
chứng về lịch sử Phuriê đã góp một tiền đề tư tưởng quan trọng đẩy nhanh quá
trình hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử nói chung trong đó có học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích những tiền đề tư tưởng triết học nổi bật về
lịch sử trên đây có thể khẳng định rằng đó là những tiền đề không thể thiếu được
đối với sự hình thành học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội mà tư tưởng
chủ đạo đó là trong khi tìm cách chứng minh lịch sử loài người nói chung không
những là lịch sử toàn vẹn thống nhất mà còn là quá trình phát triển. Các nhà tư
tưởng triết học trước Mác đã nêu ra vấn đề cấp bách là phải vạch ra logic khách
quan hay là quá trình phát triển có quy luật của lịch sử loài người nói chung, vì
chỉ đó điều đó mới cho phép giải thích được mọi hiện tượng, quá trình khác
nhau vốn rất phong phú đa dạng của lịch sử. Bằng cách tiếp cận lý giải vấn đề
theo những cách khác nhau, các nhà tư tưởng trước Mác ngày càng tiến gần
chân lý hơn thậm chí có người đã bước những bước đầu tiên vào hạt địa của
nhận thức duy vật về lịch sử, nhưng vì về cơ bản do đứng trên lập trường duy

16
tâm và do những hạn chế về mặt lịch sử nên học không thể giải đáp một cách
khoa học vấn đề xem đời sống xã hội là có cấu tạo, kết cấu theo những quy luật
nhất định và lịch sử nhân loại nói chung là sự vận động và phát triển của những
xã hội ấy. Mặc dù vây, với sự nỗ lực cố gắng và những thành tựu triết học về
lịch sử mà họ đã đạt được là sự chuẩn bị từng bước, là những tiền đề không thể
thiếu có tính tất yếu khách quan cho cuộc cách mạng mà C.Mác – Ăngghen thực
hiện trong nhận thức triết học về lịch sử mà cụ thể là trong học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội và trong nhận thức xã hội nói chung.
Kế thừa những thành tự của các nhà tư tưởng, nhà triết học trước C.Mác và
khắc phục triệt để khiếm khuyết của họ, khi nghiên cứu về xã hội, C.Mác đã
xuất phát từ những tiền đề thực tế, hiện thực đó là con người, hoạt động con
người và những tiền đề vật chất của con người. C.Mác viết: “Những tiền đề xuất
phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều;
đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng
tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của họ, những tiền đề mà học thấy có sẵn cũng như
những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra… Những tiền đề ấy là có thể
kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy” [5;28-29].
Như vậy, khi xem xét lịch sử xã hội, C.Mác đã lấy con người làm điểm xuất
phát cho học thuyết của mình. Nhưng không phải là con người chung chung,
trừu tượng, con người trong trình trạng biệt lập, cố định, cô lập với xung quanh
mà là con người thực tiễn, con người hành động, con người trong quá trình phát
triển hiện thực, đó là con người trong sản xuất vật chất. Bằng hoạt động của
mình, con người đã làm nên lịch sử xã hội. Theo C.Mác, xã hội là sản phẩm của
sự tác động lẫn nhau giữa người và người. “Xã hội – cho dù nó có hình thứC gì
đi chăng nữa – là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người” [13;257].
Những tiền đề xuất phát mà Mác nói tới đến đó là những tiền đề gì?
Trước hết tiền đề đầu tiên mà Mác và Ăngghen đã xuất phát đó là: “Tiền đề

đầu tiên của lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con
người sống” [5;259]. Để sống con người không thể không cần đến thức ăn, nước
17
uống, nhà ở, quần áo, đi lại,… Những thứ đó vốn không có sẵn trong tự nhiên,
mà phải do con người tạo dựng nên, sản xuất ra. Nên “hành vi lịch sử đầu tiên
của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy”.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác đã đưa ra
một quan niệm hoàn chỉnh về khái niêm con người và phân biệt rõ mặt sinh vật
và mặt xã hội của con người. Ông không hề phủ nhận mặt tự nhiên, mặt sinh vật
của con người với tư cách là những cá nhân con người sống. C.Mác thừa nhận
con người là động vật cao cấp nhất, sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới
sinh vật. Nhưng C.Mác không thừa nhận bản năng sinh vật của con người là duy
nhất, ông cho rằng con người vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trưng của
sinh vật, nhưng lại có nhiều điểm khác với các động vật khác. Vậy con người
khác động vật ở chỗ nào.
Trước C.Mác, nhiều nhà triết học và nhiều nhà khoa học đã đưa ra những
tiêu chí phân biệt giữa con người và con vật một cách cụ thể, “chẳng hạn như
Phranklin cho rằng con người khác động vật ở điểm duy nhất là con người biết
sử dụng công cụ lao động, Arixtốt đã gọi con người “là một cây sậy, nhưng là
một cây sậy biết suy nghĩ”, Phoiơbắc coi con người là sản phẩm của tự nhiên, có
bản chất cộng đồng” [17;609]. Các nhận định trên đều đúng khi nêu lên một đặc
điểm một khía cạnh nào đó về bản chất con người, nhưng đó chỉ là nhận định
phiến diện, không nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy và mối quan
hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
C.Mác xem xét vấn đề bản chất của con người một cách toàn diện, cụ thể, ở
tính hiện thực của nó. Xem xét bản chất con người trong quá trình phát triển của
nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Có thể phân biệt con người với xúc
vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản
thân con ngời bắt đầu bằng tự phân biệt với xúc vật ngay khi con người bắt đầu
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ

thể của con người qui định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như
thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [5; 29].
Điều đó nói lên rằng, xã hội loài người bắt đầu sự tồn tại của mình, khi con
người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho chính đời sống con người, các
18
quan hệ hình thành trong quá trình lao động sản xuất của con người là cơ sở của
tất cả các quan hệ khác trong xã hội.
Con người là một bộ phận của tự nhiên, nhưng trong mối quan hệ với tự
nhiên con người hoàn toàn khác con vật. C.Mác phân biệt rõ ràng: “Về mặt thể
xác, con người chỉ sống bằng những sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dưới hình thức
thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở,… Về mặt thực tiễn, tính phổ biến của con
người thể hiện ra chính ở cái tính phổ biến toàn bộ giới tự nhiên thành thân thể
vô cơ của con người” [14;135]. C.Mác đi đến kết luận: “Con vật chỉ sản xuất ra
bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [14;137].
Con người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con
người là hoạt động mang tính xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho
con người khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của
nó, còn hoạt động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho xã hội. Hoạt
động của con người không phải theo bản năng như động vật mà là hoạt động có
ý thức. Tư duy con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trước
hết là trong hoạt động lao động sản xuất. Với ý nghĩa trên đây, có thể con người
phân biệt với động vật ở tư duy mà ngôn ngữ là cái võ vật chất của tư duy. Bởi
cơ sở của tư duy là hoạt động thực tiễn xã hội.
Con người khác con vật về bản chất ở quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với
xã hội và quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ đó đều mang tính xã hội,
trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất, tập trung nhất trong toàn bộ hoạt
động của con người. Khi C.Mác nói: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [5;11] có nghĩa là những quan hệ ấy
đã thể hiện trong toàn bộ hoạt động cụ thể của con người. Không có con người
chung chung, trừu tượng mà chỉ có con người sống, hoạt động trong một xã hội

nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định. Trong những quan hệ xã hội
cụ thể đó, con người mới bộc lộ và thực hiện được bản chất thực sự của mình.
Hoạt động sản xuất con người bao gồm những hoạt động sản xuất vật chất,
hoạt động sản xuất tinh thần và hoạt động sản xuất ra chính bản thân con người.
Trước Mác, các nhà triết học chú ý đến hoạt động sản xuất tinh thần của con
người, họ đề cao những giá trị tinh thần, nghệ thuật, văn hóa còn C.Mác thì chú
19
ý và nhấn mạnh đến hoạt động sản xuất vật chất coi đó là vấn đề cơ bản giữ vai
trò là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội. Đây là vấn đề cốt lõi nhất, tuy vậy
C.Mác vẫn coi vai trò hoạt động sản xuất tinh thần là điều không thể thiếu, nó
làm phong phú đời sống của con người cũng như Mác từng coi hoạt động sản
xuất ra chính bản thân con người là sự duy trì tồn tại và phát triển của xã hội loài
người.
Với quan niệm về con người ấy, C.Mác coi đó là điểm xuất của nhận thức
duy vật lịch sử, do đó của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Vì thế toàn bộ
nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội được xem xét theo quan điểm, một
mặt là sự phản ánh những hình thức, phương thức tất yếu mà nhờ đó các cá nhân
duy trì sự tồn tại của họ, mặt khác là sự phản ánh những phương thức, hình thức
biểu hiện, khẳng định sự phát triển chính các cá nhân con người.
Từ quan niệm như trên thì C.Mác cũng đồng thời phát hiện ra trong quá
trình con người tồn tại thì con người có những nhu cầu tất yếu khách quan đó là
nhu cầu sống nhu cầu tồn tại, nhu cầu thỏa mãn đời sống vật chất và tinh thần.
Đồng thời quá trình thực hiện những nhu cầu ấy thì con người có những mối
quan hệ khác nhau một mặt là quan hệ với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa
con người với nhau. Những mối liên hệ đó bị quy định bởi những nhu cầu và
phương thức sản xuất.
Mặt khác trong quá trình tồn tại cùng với quá trình lao động sản xuất thì
con người có những mối quan hệ với nhau, những mối quan hệ đó được Mác gọi
là các hình thức giao tiếp. Hình thức giao tiếp vật chất đóng vai trò to lớn. Về
thực chất sự giao tiếp vật chất là sự giao tiếp về lợi ích vật chất, là quan hệ về lợi

ích kinh tế. Cũng xuất phát từ nhu cầu và lợi ích mà trong quá trình tồn tại và
phát triển con người không ngừng tác động vào tự nhiên và xã hội tạo ra những
tư liệu sinh hoạt và vật chất thỏa mãn nhu cầu. Qúa trình sản xuất và kết quả đạt
được luôn luôn làm nảy sinh nhu cầu mới, dẫn đến sự phát triển không ngừng
của nền sản xuất xã hội. Trong quá trình đó lực lượng sản xuất do thế hệ trước
tạo ra trở thành tiền đề cho hoạt động sản xuất của thế hệ sau, làm thành mối
quan hệ giữa các thế hệ con người, hình thành lịch sử nhân loại. Đó cũng là
nguồn gốc, động lực, cách thức và xu thế chung tất yếu của lịch sử loài người.
20
Điều này cũng cho thấy sự tồn tại, phát triển của bản thân con người, của cá
nhân con người hiện thực cũng được thực hiện thông qua sự vận động của
những chế độ xã hội khác nhau.
Cũng chính việc thực hiện các lợi ích trong các hình thức xã hội đã thức
đẩy các cá nhân không ngừng phát triển những lực lượng sản xuất của mình cho
đến khi những lực lượng đó mâu thuẫn với hình thức giao tiếp thì đều đưa đến
sự bùng nổ một cuộc cách mạng xã hội với những hình thức khác nhau. Nhờ
cách mạng một chế độ xã hội mới lại được thiết lập trong đó các cá nhân tiếp tục
phát triển.
Từ những tiền đề đầu tiên này C.Mác đã cho thấy nguồn gốc, căn bản, sâu
xa và động lực cơ bản của toàn bộ sự phát triển lịch sử là hoạt động sản xuất và
tái sản xuất ra đời sống vật chất của con người. Nhưng đây không đơn giản chỉ
là quá trình con người tác động vào tự nhiên theo phương thức thực hiện những
lợi ích vật chất mà học có được, do phân công lao động giữa họ tạo nên. Đó thực
sự là động lực thực sự, căn bản của sự phát triển lịch sử. Chính hoạt động theo
đuổi những lợi ích vật chất đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ nhất sự phát triển của
những cá nhân. Hoạt động theo đuổi những mục đích chính trị, xã hội, tinh thần
khác nhau chỉ là biểu hiện ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp hoạt động cơ bản ấy
và tạo nên những động lực phát sinh, không quyết định, mặc dù vẫn có vai trò
nào đó.
Tóm lại con người, hoạt động con người trong sản xuất vật chất và những

nhu cầu và lợi ích đó chính là cơ sở xuất phát đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân
loại, “con người sống” và những “điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”, là những
tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Hoạt động của con người là nhân
tố quyết định của quá trình lịch sử. Hoạt động đầu tiên và cơ bản nhất của con
người là hoạt động sản xuất vật chất. Con người với tư cách là những cá nhân
hiện thực, nghĩa là những cá nhân đang hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau
với những quan hệ khác nhau, mà trước hết là trong hoạt động sản xuất ra đời
sống vật chất. Với quan niệm như thế con người chính là điểm xuất phát của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Bởi vậy, khác với các nhà triết học trước đây,
C.Mác – Ăngghen đã lấy vật chất làm điểm xuất phát để nghiên cứu xã hội và
21
lịch sử loài người. Như vậy, về thực chất đời sống xã hội là có tính thực tiễn và
dạng cơ bản đầu tiên của thực tiễn là sản xuất vật chất.
Tiền đề thứ hai: “Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của
xã hội”.
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để tồn tại
và phát triển, xã hội không ngừng hoạt động để sản xuất và tái sản xuất ra bản
thân con người, của cải vật chất, các quan hệ xã hội và năng lực tinh thần, trí tuệ
của con người. Những yếu tố đó không thể thiếu yếu tố nào trong cấu trúc xã
hội, vì thiếu một yếu tố nào đó thì chỉnh thể xã hội sẽ mất cân bằng, khập
khiểng. Song cần nhấn mạnh rằng sản xuất của cải vật chất là yếu tố nền tảng và
chính nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội tồn tại, là động lực phát triển
xã hội, chi phối các yếu tố khác trong cấu trúc khác trong xã hội, là cơ sở của
lịch sử loài người.
Trong suốt quá trình lịch sử loài người, việc sản xuất ra của cải vật chất
luôn luôn ở vị trí quan trọng, cơ bản, quyết định sự tồn tại của xã hội. Nếu lúc
nào đó con người chủ quan tưởng rằng đã có đủ hay có thừa của cải vật chất thì
hiện thực cuộc sống sẽ nhanh chóng làm cho cả xã hội phải thức tỉnh ngay. Trái
lại, của cải tinh thần chưa có hoặc ít có vị trí quan trọng đối với sự tồn tại của xã
hội ở giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài người nhưng càng ngày càng trở nên

phong phú, đa dạng hơn, cần thiết hơn đối với sự tồn tại của xã hội. Do vậy, của
cải tinh thần dù có ý nghĩa to lớn đến đâu nhưng không bao giờ quan trọng hơn,
quyết định hơn của cải vật chất, xét về mặt đảm bảo sự tồn tại của xã hội.
Con người muốn sống, xã hội muốn tồn tại, trước hết cần phải sản xuất vật
chất, cần có lương thực, thực phẩm, chứ không thể ăn tinh thần, ăn thông tin, ăn
văn nghệ. Nhấn mạnh điều này không phải nhấn mạnh hưởng lạc vật chất, thú
vui ăn uống mà thấy được tầm quan trọng, quyết định của sản xuất ra của cải vật
chất, nắm bắt được các quy luật của việc sản xuất đó để tổ chức sản xuất một
cách hợp lý, đem lại lợi ích nhiều nhất cho sự tồn tại và phát triển của loài
người.
Xuất phát từ đời sống xã hội hiện thực với mọi biểu hiện tồn tại sinh động
của nó, C.Mác và Ăngghen đã tách riêng lĩnh vực sản xuất vật chất để xem xét.
C.Mác và Ăngghen đã vạch ra những yếu tố cơ bản của sự sản xuất ra tư liệu
22
sinh hoạt, lực lượng sản xuất và trình độ của nó, sự giao tiếp vật chất và hình
thức của sự giao tiếp, phương thức sản xuất, xã hội công dân và những mối liên
hệ tất yếu giữa chúng được các ông quy lại thành hai mối quan hệ cơ bản là quan
hệ kinh tế - vật chất (lực lượng sản xuất) và quan hệ kinh tế - xã hội (quan hệ
sản xuất). Đặt tất cả những yếu tố và những mối liên hệ trên trong chỉnh thể,
trong hệ thống C.Mác và Ăngghen đã chỉ ra sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau
giữa chúng theo những trình tự, quy luật nhất định trong đó những yếu tố, những
liên hệ quyết định đối với những yếu tố và những liên hệ khác.
C.Mác và Ăngghen tiếp tục phân tích và rút ra những kết luận tương tự như
“Quan hệ đó về lịch sử” là: Phải xuất phát từ chính ngay sự vật chất vật chất ra
đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và kiểu hình thức
giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy và do những phương thức sản
xuất ấy sản sinh ra tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó,
là cơ sở của toàn bộ lịch sử” [7;54].
Sản xuất C.Mác đã phát hiện của hiện ra hai mặt không tách rời nhau: một
mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa người với

người trong sản xuất. Theo C.Mác: Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ
với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo
một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn
sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau, và quan hệ của họ với tự nhiên tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong
khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó. Quan hệ giữa người với giới
tự nhiên trong sản xuất chính là lực lượng sản xuất, còn quan hệ giữa người với
người trong sản xuất chính là quan hệ sản xuất. Hai mặt đó thống nhất với nhau
tạo thành phương thức sản xuất.
Với luận điểm xuất phát sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội,
C.Mác và Ăngghen lần đầu tiên đã nêu lên tính biện chứng của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nằm trong thể
thống nhất của hai mặt đối lập trong phương thức sản xuất của xã hội nhất định.
Chúng quy định, chế ước, tác động qua lại thức đẩy nhau phát triển, trong đó lực
lượng sản xuất giữ vai trò quyết định, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
23
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là một phát hiện hết sức
quan trọng, làm cơ sở để hai ông tìm ra quy luật chung về sự vận động và phát
triển của nền sản xuất vật chất xã hội. Trong đó, chính lực lượng sản xuất quyết
định tất cả các quan hệ sản xuất, quyết định quá trình phát triển của lịch sử qua
các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. “Lịch sử không phải là một nhân cách
đặc biệt nào đó sử dụng con người làm phương tiện đạt tới mục đích của mình.
Chẳng qua lịch sử chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản
thân mình” [10;641]. Nói lịch sử là lịch sử hoạt động của chính con người. Con
người là chủ thể của lịch sử.
Trải qua lịch sử lâu dài chinh phục giới tự nhiên, con người ngày càng hiểu
rõ hơn sức mạnh của mình. Cùng với việc cải biến thế giới xung quanh, con
người đồng thời cải biến bản thân mình và các quan hệ giữa con người với nhau
làm cho việc chinh phục giới tự nhiên đạt hiệu quả cao hơn. Con người và lịch
sử loài người được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động sản xuất

vật chất: “Lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người” [6;641] và xã hội
đã ra đời cùng với sự xuất hiện của con người hoàn chỉnh. Chính nhờ sự sản
xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người
đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả
sự phong phú và phức tạp của nó. Thông qua hoạt động đó thì đồng thời con
người cũng tái sản xuất ra chính mình như C.Mác đã nói “sản xuất ra những tư
liệu sinh hoạt của mình con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật
chất của mình [6;64]. Như vây, chính tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội mà
trước tiên muốn tồn tại, muốn sống, muốn có đời sống tinh thần thì trước tiên
con người phải được đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu đầu tiên đó là cái ăn
cái mặc, nơi ở… Chính xuất phát từ đời sống hiện thực đó của con người mà
C.Mác đi đến xác định tiền đề của mọi sự tồn tại của con người và đó cũng là
tiền đề của mọi lịch sử như C.Mác đã chỉ ra.
Từ những kết luận trên, C.Mác, Ăngghen đã tìm thấy mối quan hệ giữa mặt
khách quan và chủ quan của quá trình lịch sử và đây là tiền đề thứ ba của việc
xuất hiện học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
24
Tiền đề thứ ba: Mối quan hệ giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của
tiến trình lịch sử.
Xã hội là hình thái vận động cao nhất, là bộ phận đặc thù của thế giới vật
chất, vận động và phát triển theo quy luật khách quan. Hình thái vận động này
lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người
làm nền tảng. “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số
những mối lien hệ và nhưng quan hệ của các cá nhân đới với nhau” [15;353].
C.Mác và Ăngghen đã đặt ra và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan, giữa duy vật lịch sử và hoạt động có ý thức của con người, giữa tất
yếu và tự do,… C.Mác xác lập nguyên lý có tính chất phương pháp luận để giải
quyết vấn đề này: không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ; trái lại
chính sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ. Như vậy, quan niệm duy vật

lịch sử đã không phủ nhận tác động của mục đích con người đối với tiến trình
lịch sử mà còn chỉ ra rằng chính điều kiện khách quan, chính đời sống con người
làm nảy sinh ở họ những nhu cầu và lợi ích nhất định gây ra những yếu tố kích
thích con người hoạt động. Mặt khác con người bằng hoạt động của mình đã
chuyển sự khách quan thành sự quyết định chủ quan.
Cũng xuất phát từ sản xuất vật chất khi C.Mác và Ăngghen chỉ ra sự vận
động và phát triển của xã hội thì các ông đã khẳng định lịch sử phát triển của xã
hội phải thông qua hoạt động có mục đích của con người. Sự hoạt động của con
người là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Con người không
thể tạo ra hoặc xóa bỏ quy luật khách quan, nhưng có khả năng nhận thức và vận
dụng trong hoạt động thực tiễn. Khi con người chưa nhận thức được quy luật thì
hoạt động của con người mang tính tự phát, mù quáng. Song khi con người nhận
thức được các quy luật và các điều kiện của chúng thì hoạt động của con người
trở nên tự giác và có thể tự do trong hoạt động của mình. Nhân tố chủ quan
không làm thay đổi được xu thế vận động, phát triển của xã hội nhưng có thể
đẩy nhanh hoặc chậm sự phát triển xã hội làm cho sự phát triển của xã hội mang
hình thức này hay hình thức khác.
25

×