Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

phân tích hình tượng nhân vật khuất nguyên, kinh kha, hạng vũ trong sử ký từ đó nêu lên quan điểm sáng tác của tư mã thiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.39 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: NGỮ VĂN- LỚP CỬ NHÂN VĂN 2B
MÔN: VĂN HỌC TRUNG QUỐC

ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT KHUẤT NGUN, KINH KHA, HẠNG VŨ
TRONG SỬ KÝ TỪ ĐÓ NÊU LÊN QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA TƯ MÃ THIÊN

Giảng viên hướng dẫn: Phan Thu Vân
Nhóm thực hiện : Nhóm Ơ Ơ

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 3 NĂM 201

Mục lục


MÔN Văn Học Trung Quốc

I.TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Cuộc đời và sự nghiệp của Tư Mã Thiên
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp
1.2. Quan điểm sáng tác của Tư Mã Thiên
2. Giới thiệu sơ lược về sử kí

II. NỘI DUNG
1. Khái niệm hình tượng
2. Phương pháp chung xây dựng hình tượng nhân vật trong Sử Ký
3. Hình tượng nhân vật điển hình trong Sử Ký
3.1 Khuất Nguyên
3.2 Kinh Kha
3.3 Hạng Vũ


III. Kết luận
Tài liệu Tham Khảo

I.TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM:
1.Cuộc đời và sự nghiệp:

Nhóm Ơ Ơ


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Tư Mã Thiên:
Tư Mã Thiên sinh năm 145 TCN, ở Long Môn (nay là huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây,
Trung Quốc), vì khơng có những tài liệu gì về ơng, người ta chỉ dựa vào bức thư ông trả lời cho
Nhâm An năm 93 TCN, năm đó ông 53 tuổi.
Thời thơ ấu Tư Mã Thiên sống ở Long Mơn, trong một gia đình có truyền thống viết sử. Hai
chữ Tư Mã có từ đời nhà Chu và dùng để gọi một chức quan võ coi tất cả các việc binh trong
nước, tức là chức Binh bộ Thượng thư đời sau. Đời Chu Tuyên Vương (827 TCN-782 TCN) một
người giữ chức đó có cơng, được vua cho phép lấy chức làm họ. Sau đó họ Tư Mã có vài người
làm sử quan ở nhàChu. Thời Chiến Quốc, nước Tần có tướng giỏi là Tư Mã Thác, thời Tần Huệ
Vương, đã cùng Trương Nghi đánh bại Thục, giết chết vị vua Khai Minh cuối cùng, truất Thục
vương đổi hiệu làm hầu).
Cha của Tư Mã Thiên là Tư Mã Đàm, là cháu tám đời của Tư Mã Thác. Ông làm thái sử lệnh
của nhà Hán, là một người học rộng, thích học thuyết Lão Trang.
Từ nhỏ, Tư Mã Thiên đã được học nhiều sách văn học và sử học thời đó. Lên mười tuổi, ơng
đã học Tả truyện, Quốc ngữ, Thế bản và thuộc lòng hầu hết những bài văn nổi tiếng của thời
trước. Ơng từng là học trị của nhà Nho học nổi tiếng Đổng Trọng Thư.
Năm 20 tuổi, nhờ sự hỗ trợ của cha, Tư Mã Thiên đã bắt đầu chuyến du hành vòng quanh

đất nước, thu thập các tài liệu và bằng chứng lịch sử. Mục đích của chuyến đi là để kiểm chứng
các lời đồn đại và truyền thuyết và để thăm viếng các di tích lịch sử, như mộ Đại Vũ. Ông đã đi
qua Sơn Đông, Vân Nam, Hà Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, Giang Tây, Hồ Nam...
Sau chuyến đi trở về, ông được chọn làm Lang trung trong chính quyền, với nhiệm vụ đi
kiểm tra từng địa phương cùng Hán Vũ Đế (vào khoảng từ 122 TCN đến 116 TCN). Sau ông
được phụng sứ đi thanh tra các miền Ba Thục, Cung, Tạc, Côn Minh tức những miền mà nhà
Hán mới chinh phục được ở phía tây nam. Phía bắc ơng lên tới Vạn Lý Trường Thành và Sóc
Phương. Năm 110 TCN, sau cuộc tuần du, cha ông lâm bệnh và gọi Tư Mã Thiên về để nối
nghiệp. Tư Mã Đàm có ước nguyện viết tiếp Xuân Thu Tả Thị Truyện. Kế nghiệp cha, ông nhận
chức Thái sử lệnh. Chức đó vừa giữ việc chép sử vừa coi về thiên văn, làm lịch, nhưng là một


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

chức nhỏ, bị coi thường. Năm 104 TCN, ông cùng một vài người nữa, sửa lại lịch. Ông thu thập
hết tài liệu trong các sách của thư viện triều đình.
Năm 99 TCN, ơng bị vướng vào vụ Lý Lăng. Lý Quảng Lợi và Lý Lăng, hai quan võ, đã
khơng hồn thành nhiệm vụ trong một cuộc chiến với Hung Nô ở miền Bắc. Hán Vũ Đế và đa
số các quan trong triều cho rằng tội trạng thuộc về Lý Lăng. Chỉ mình Tư Mã Thiên bênh vực vị
tướng này. Hán Vũ Đế cho rằng Tư Mã Thiên, qua việc bảo vệ Lý Lăng, đã ngầm chê Lý Quảng
Lợi, anh vợ của Vũ Đế, là nhút nhát. Tư Mã Thiên bị tội tử hình, nếu khơng chuộc bằng tiền bạc
hoặc bị cung hình (thiến). Do không đủ tiền chuộc, ông đành chọn bị thiến và bị giam trong ngục
thất.
Sau khi được thả, Tư Mã Thiên được làm Trung thư lệnh, đây là chức quan to, ở gần vua,
được ra vào cung cấm, xem các tài liệu mật, chức này chỉ dành cho hoạn quan. Thỉnh thoảng ông
được đi theo vua trong các cuộc tuần du. Không được giữ chức Thái sử nữa, lại luôn cảm thấy
nhục nhã vì hình phạt, ơng dồn tất cả tâm sức cho bộ Sử ký và hồn thành nó năm 97 TCN (có
sách nói là năm 91 TCN, lúc ơng trên 55 tuổi).

Những ngày tháng cuối đời của Tư Mã Thiên, không ai để ý tới ông cả và ông mất năm nào
cũng không biết rõ. Theo Vương Quốc Duy trong Thái sử cơng niên khảo có lẽ ơng mất vào năm
60 tuổi, năm 86 TCN cùng một năm với Vũ đế.
1.2. Quan điểm sáng tác của Tư Mã Thiên
Trong sáng tác của mình, Tư Mã Thiên ý thức rất nghiêm túc trong việc “ thành nhất gia chi
ngôn”, cũng là rất coi trọng chuyện “lập ngôn” vậy. Trong Thư gửi Chí Bá Lăng (Dữ Chí Bá
Lăng thư) ơng có nói: “Thiên tơi nghe nói người qn tử có ba loại đáng quý: Thứ nhất là lập
đức, kế đến là lập cơng, kế nữa là lập ngơn”. Chính vì thế mà khi làm sử quan, Tư Mã Thiên
ln có ý thức sâu sắc về sứ mệnh đặc biệt quan trọng của mình. Vì sự kiện Lý Lăng mà ơng bị
khép tội và phải chịu hình phạt tàn khốc là “ cung hình”, điều này khiến ơng đau đớn về thể xác,
nhục nhã về nhân cách, tinh thần nhưng ông đã nén nỗi đau riêng mà hoàn thành bộ Sử ký.
Nhưng trong Tư Mã Thiên luôn tồn tại tinh thần bất bình và phẫn uất với thực tại. Một
thực tại mà người hiền tài luôn bị đối xử một cách khắc nghiệt. Trong “Thái sử công tự tự”,
Tư Mã thiên đưa ra thuyết “Phát phẫn trứ thư”(Uất ức mà viết thành sách). Ông viết: “ Thái sử


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

cơng gặp cái họa Lý Lăng, bị cùm trói trong tù, bèn bùi ngùi mà rằng: “Đó là tội của ta! Đó là
tội của ta! Thân tàn không dùng được nữa rồi!”. Nhưng lại suy nghĩ kỹ mà rằng : Ôi! Viết sách
làm thơ, đó là điều những người trong lúc cùng dùng để truyền đạt cái ý nghĩ của mình. Xưa Tây
Bá bị tù ở Dĩu Lý nên diễn giải Chu Dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Thái nên viết xuân
Thu; Khuất Nguyên bị đuổi, viết Ly Tao; Tả Khâu Minh bị mù mà làm quốc ngữ; Tôn Tẫn bị cụt
chân, bàn binh pháp; Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời truyền lại sách Lữ Lãm; Hàn Phi bị tù ở
Tần, làm những thiên Thuyết nan, Cô phẫn; ba trăm bài Kinh Thi phần lớn do thánh hiền làm ra
để giãi bày các nỗi uất ức không biểu lộ ra được, cho nên thuật lại chuyện xưa mà lo truyền lại
người sau. Do đó bèn soạn thuật cho xong từ thời Nghiêu cho đến năm được con lân thì dừng
bút, bắt đầu từ Hoàng Đế”.

(Tao Lý Lăng chi họa, u ư ly tiết. nãi vị nhiên thán viết:“Thị dư chi tội dã phù! Thị dư chi tội dã
phù!”. Thân hủy bất dụng hỹ. Thoái nhi thâm duy viết: Phù, thi thư ẩn ước giả, dục toại kỳ chí
chi tư dã. Tích Tây Bá câu Dĩu Lý diễn Chu Dịch; Khổng Tử ách Trần Thái tác Xuân Thu; Khuất
Nguyên phóng trục trứ Ly Tao ; Tả Khâu thất minh quyết hữu Quốc Ngữ; Tôn Tử tẫn cước nhi
luận binh pháp; Bất Vi thiên Thục thế truyền Lữ Lãm; Hàn Phi tù tần, Thuyết nan, Cô phẫn; Thi
tam bách thiên đại để thánh hiền thánh phát phẫn chi sở vi tác dã. Thử nhân giai ý hữu sở uất kết,
bát đắc thông kỳ đạo dã, cố thuật vãng sự, tư lai giả. Ư thị tốt thuật Đào đường dĩ lai, chí ư lân
chỉ, tự Hồng Đế thủy).
Và tinh thần đó cịn được thể hiện trong Thư trả lời Nhâm An ( Báo Nhâm Thiếu khanh thư),
Tư Mã Thiên đã viết một đoạn tương tự như trong phần tựa của bài Sử ký: “ Người xưa giàu
sang mà danh vị bị vùi dập khơng kể hết. Chỉ có những người trác việt phi thường là được người
ta nhắc đến mà thôi. Văn Vương bị giam, diễn giãi Chu Dịch; Trọng Ni gặp nạn là Kinh Xuân
Thu; Khuất Nguyên bị đuổi nên ngâm Ly Tao; Tả Khâu bị mù nên có Quốc ngữ; Tơn Tẫn bị chặt
chân, trình bày binh pháp; Bất Vi bị đày sang đất Thục, sách Lữ Lãm còn truyền lại ở đời ; Hàn
Phi bị tù ở Tần, viết Thuyết nan và Cô phẫn; Kinh thi ba trăm thiên phần lớn đều do thánh hiền
phát phẫn mà làm ra. Những người này đều có cái uất ức ở trong lịng khơng bày tỏ được đạo
của mình, cho nên thuật lại việc cũ để lại cho người sau này vậy. Kìa xem Tả Khâu khơng có
mắt, Tơn Tẫn bị chặt chân, trọn đời khơng thể làm được việc gì, nên lui về viết sách để hả điều
căm giận , mong lấy câu văn sng để cho đời biết mình”.


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

Chính vì quan niệm “phát phẫn trứ thư” cho nên trong Khuất Nguyên, Giả Sinh truyện, Tư
Mã Thiên cũng nhấn mạnh nguyên nhân Khuất Nguyên viết Ly Tao là do “Ưu sầu u tư”, do
“oán” cũng thống nhất quan niệm “phát phẫn trứ thư”của ông. Ông cho rằng Chu Dịch, Xuân
Thu, Ly Tao, Thi tam bách… được viết ra điều do “Những người này đều có cái uất ức trong
lịng khơng bày tỏ được của mình”( Thử nhân giai ý hữu sở uất kết, bát đắc thông kỳ đạo), nên

viết sách để “truyền đạt cái ý nghĩ của mình”(toại kỳ chí chi tư) mong lưu truyền hậu thế. Tư Mã
Thiên nói chuyện người xưa nhưng thực ra là nói về mình. Tác phẩm viết ra từ những điều uất ức
không hề là những câu chuyện sáng tác riêng tư, mà biểu lộ nỗi bất bình chung của nhà văn đối
với thực tại.
Tư Mã Thiên cịn ca ngợi những bậc anh hùng đã có cơng tiêu diệt bọn cường quyền,
những con người hết lịng vì dân vì nước. Đồng thời ơng cũng bày tỏ sự đồng cảm với số phận
tài hoa nhưng bị xã hội mục nát đương thời chà đạp, đẩy họ vào những bi kịch.
Ngồi ra Tư Mã Thiên cịn có quan điểm về sử học và việc viết sử rất độc đáo và khác biệt so
với những nhà sử học khác. Tư Mã Thiên nói về phương pháp viết sử của mình như sau: “tôi chỉ
thuật lại chuyện xưa, sắp đặt lại các chuyện trong đời chứ có phải sáng tác đâu.” Câu nói này
thể hiện đúng cái quan điểm của tác giả và sử. Ngày nay chúng ta không nắm được tất cả những
tài liệu ơng đã dùng, nhưng có một điều chắc chắn là ông không bao giờ thay đổi tài liệu. Những
nhân vật thời Ân, Chu, chính là những nhân vật của Thượng Thư, những nhân vật thời Xuân
Thu, Chiến Quốc là những nhân vật của Xuân Thu, Quốc Ngữ, Tả Truyện, Chiến quốc sách. Lời
nói của họ là lời họ nói trong thực tế, theo những tài liệu tin cậy nhất. Những bài văn bia của nhà
Tần là do chính tay tác giả chép lại. Và ơng đã để lại cho chúng ta cả một kho tàng văn kiện vô
giá, nào chế, biểu, nào văn bia, thư phú, bài hát, lời ca, cả những bài nghị luận rất dài, tất cả
chiếm một phần ba tác phẩm; trong số đó phần lớn cịn sống đến ngày nay vì nó gắn liền với số
phận của Sử Ký. Đành rằng, đây đó, có những chi tiết sai lầm vì tài liệu lúc bấy giờ số lớn là tài
liệu truyền miệng. Nhưng nói chung ơng hết sức nghiêm túc.
Quan niệm viết sử này khác xa quan niệm những nhà viết sử cổ Hy Lạp, La Mã. Các nhà viết
sử cổ đại, trừ Thuxiđit, thường xem sử là một cơng trình nghệ thuật. Những nhân vật của họ đọc
những bài diễn văn rất hay, nhưng do họ sáng tác ra, những nhân vật ấy tồn tại với tính cách
những giả thuyết tiêu biểu cho chính kiến của họ. Chính vì vậy sử học hiện đại khơng xem đó là
những cơng trình khoa học, khơng ai lấy đó làm cơ sở chính cho sự nghiên cứu La Mã, Hy Lạp


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ


cổ. Trái lại, Sử Ký từ trước đến nay vẫn là uy tín lớn nhất của cổ sử Trung hoa. Bất kỳ ai muốn
nghiên cứu bất kỳ phương diện nào của Trung quốc cổ cũng khơng thể coi thường nó. Trịnh Tiểu
nói, “một trăm đời sau, các sử quan không thể thay đổi cái phép tắc của ông, kẻ học giả không
thể bỏ quyển sách của ơng”, chính là vì vậy.
Tư Mã Thiên là người cha của sử học Trung hoa, nhưng là một người cha khó bắt chước nhất.
Đối với sử học Trung quốc, ơng là người duy nhất nói về đương thời. Các sử gia về sau chỉ viết
về một triều đại khi triều đại ấy đã chấm dứt. Họ sợ hiện tại và lẩn tránh nó. Trái lại Tư Mã
Thiên đã dành một nửa tác phẩm cho giai đoạn từ Hạng Vũ đến Vũ Đế, và việc càng gần, ông
chép càng rõ. Ơng để lại những trang vơ cùng sinh động về Cấp Ám, con người dám nói thẳng sự
thực, khơng kiêng nể gì Vũ Đế. Ơng kết tội Lữ Hậu, nêu bản tính lưu manh của Cao Tổ, phơi
bày một bức tranh đau thương về xã hội trước mắt. Ông đau xót trước cái cảnh vua chúa mê tín
(Phong thiện thư), phung phí tài sản nhân dân (Bình Chuẩn Thư), ngoại thích lộng hành (Nguỵ
Kỳ Vũ An Hầu liệt truyện), quan lại tàn ác (Khốc lại liệt truyện), nhà nho cầu an, giả dối (Cơng
Tơn Hoằng truyện, Thích Tơn Thơng truyện). Ơng run sợ cho tương lai. Và chính ở đây, người ta
mới hiểu hết cái tâm sự của ông, lòng yêu nước, yêu nhân dân cũng như sự trung thực của một
nhà khoa học.
Nhưng quan trọng hơn hết, ông hiểu tác phẩm của ơng là viết cho ai. Ơng nói quyển Sử Ký
viết cho “những người của nó”. Người của nó đây khơng phải là một vị ân chủ, một mỹ nhân, mà
là nhân dân vĩ đại và bất tử. Ơng có ý thức rõ về việc đó, cho nên hai ngàn năm sau đọc Sử Ký,
ta thấy nó sinh động, mãnh liệt vô cùng, đồng thời tràn ngập cái hào khí của chính nghĩa. Nhìn
vào quyển sách của ông, ta thấy hiện lên rõ rệt sự bất bình đẳng trong xã hội, cảnh nghèo khổ
của những nông dân mất hết đất đai, sự giàu có phè phỡn cua bọn phong kiến, con buôn lớn. Ta
thấy bức tranh hiện thực về xã hội mà bọn bồi bút phong kiến cố hết sức che đậy bằng những
danh từ trống rỗng. Cố Viêm Võ nói rất đúng, “Người xưa làm sử không cần bàn luận, nhận xét ,
mà cái ý của tác giả thấy ngay trong việc trình bày thì chỉ có một mình Thái sử cơng làm được
mà thơi”. Cái khó ở đây khơng ở phương pháp mà ở con tim. Cũng vì Tư Mã Thiên khơng viết
tác phẩm theo những khn khổ có sẵn về đạo đức phong kiến, nên những nhận xét của ông về
lịch sử rất là trác việt.
Qua các nhân vật trong Sử Ký cho ta thấy Tư Mã Thiên đã viết về lịch một cách chân thực,

khách quan. Ơng khơng như một số nhà soạn sử trước đó vì e ngại cường quyền mà khơng dám
viết sự thật lịch sử. Nhưng Tư Mã Thiên không đưa hết tất cả vào trong Sử Ký mà chọn lọc


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

những hình tượng và sự việc lớn có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc. Và quan trọng hơn ơng
vì nhân dân, đứng trên quan điểm của nhân dân mà nhìn về lịch sử. Tuy là “sử thánh” của Trung
quốc nhưng thong qua hình tượng những nhân vật, Tư Mã Thiên đã lên tiếng phê phán những
hành động sai trái của chế độ thống trị mà cao nhất đó chính là những tên vua tàn ác, ngu si, ăn
chơi sa đọa, gây chiến tranh liên miên làm cho đời sống nhân dân lâm vào khổ cực, lầm than.
Mặc dù trong thời Hán ảnh hưởng của Nho giáo còn rất lớn nhưng Tư Mã Thiên ít chịu bị chi
phối bởi tư tưởng Nho giáo. Ông không đề cao những giai cấp thống trị, cùng những tư tưởng
Nho giáo hà khắc của Khổng Tử . Đối với bọn vua tàn ác, ông lên án và ca ngợi người anh hùng
vì nghĩa.
Ơng ln ln lấy quyền lợi của nhân dân, lấy sự sống của họ để đánh giá nhân vật lịch sử.
Đặc biệt khi viết lịch sử nhân vật nào, ơng cũng nêu rõ sự gắn bó của nhân vật với số phận của
dân chúng. Ông thấy rõ Trần Thiệp “tài năng ở dưới mức trung bình”, nhưng đã làm được một
việc oanh liệt, chỉ vì được dân chúng ủng hộ. Sự phân tích của ơng về sự thành công của Lưu
Bang và sự thất bại của Hạng Vũ có một ý nghĩa to lớn. Dưới con mắt của ông, Hạng Vũ là một
con người phi thường “tài năng và chí khí hơn người”, “từ cận cổ đến nay chưa ai có được như
thế”. Về tư cách cá nhân mà nói, thì Lưu Bang kém Hạng Vũ về tất cả mọi mặt. Hạng Vũ là viên
tướng bách chiến bách thắng, quân chư hầu sợ Hạng Vũ đến nỗi “đi bằng đầu gối, khơng ai dám
ngẩng lên nhìn”. Hạng Vũ thương người và trọng nghĩa. Trái lại Lưu Bang là một người “không
lo làm ăn”, “tham tiền và ham gái”, ngạo mạn, vô lễ, “thấy khách đội mũ nhà nho, Bái Công liền
giật lấy mũ đái vào trong”. Thế nhưng cuối cùng Lưu Bang lại lấy được thiên hạ. Đó là vì Lưu
Bang biết tự kiềm chế mình, lắng nghe theo lịng dân, ln ln chú ý đến dân chúng cho nên
dân chúng tin. Đúng như Hàn Tín nói, Hạng Vũ chỉ có cái nhân của người đàn bà, cái dũng của

một kẻ thất phu, tiếc tiền, tiếc đất, chỉ tin vào tài năng của cá nhân mình, nghi ngờ tất cả; đã thế
lại hiếu sát làm cho nhân dân thất vọng. Lưu Bang đã thắng vì biết dựa vào dân, tận dụng tài
năng các tướng. Cách nhìn nhận như vậy rất đúng và khoa học. Nó làm người ta nhớ đến những
tác phẩm của Makiaven, ở đây, Tư Mã Thiên có thể sánh với những sử gia lớn nhất của thời cổ
đại.

2. Sử kí và ảnh hưởng của sử kí với Trung Quốc


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

2.1. Giới thiệu sơ lược về sử kí
Với bộ Sử ký, Tư Mã Thiên được tôn là Sử thánh, một trong Mười vị thánh trong lịch sử
Trung Quốc. Tư Mã Thiên làm chức Thái sử lệnh rồi Trung thư lệnh, đời nhà Hán. Sử ký là cơng
trình sử học lớn nhất của Trung Quốc và là một trong những quyển sử có tiếng nhất của thế giới.
Đặc biệt bộ sử này còn là một trong những tác phẩm văn học ưu tú của nhân loại. Bộ sử vĩ đại
này miêu tả tổng quát về lịch sử Trung Quốc bao trùm 2.000 năm từ Hoàng Đế đến đời Hán Vũ
Đế . Cơng trình này là nền tảng cho sử học Trung Hoa mãi về sau...bên cạnh đó nó cịn có đóng
goip1 to lớn cho văn học.
Sử ký là một cơng trình sử học được tơn vinh là Sử Thánh do Tư Mã Thiên viết trong
hoàn cảnh được ông tâm sự như sau: Biên chép, sắp đặt văn Sử ký được bảy năm, thì Thái sử
cơng gặp cái họa Lý Lăng, bị cùm trói trong tù. Bèn bùi ngùi mà rằng: Đó là tội của ta ! Đó là
tội của ta ! Thân tàn khơng dùng được nữa rồi ! Nhưng rồi lại suy nghĩ kỹ mà rằng: Ơi ! Viết
sách làm thơ, đó là điều những người trong lúc cùng dùng để truyền đạt cái ý nghĩ của mình.
Xưa Tây bá bị tù ở Dĩu Lý nên diễn giải Chu dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Thái nên
viết Xuân Thu; Khuất Nguyên bị đuổi nên vết Ly Tao; Tả Khâu Minh bị mù làm Quốc Ngữ; Tôn
Tẫn cụt chân bàn Binh Pháp; Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời truyền lại sách Lữ Lãm; Hàn Phi
bị tù ở Tần làm những thiên Thuyết Nan, Cô Phẫn; ba trăm bài ở Kinh Thi phần lớn đều do

thánh hiền làm ra để giãi bày cái nỗi phẫn uất. Những người ấy đều vì những điều uất ức không
biểu lộ ra được, cho nên thuật lại việc xưa mà lo truyền lại người sau. Do đó, bèn soạn thuật
cho xong từ thời Nghiêu cho đến năm được lân thì dừng bút, bắt đầu từ Hồng Đế. Nó được lưu
giữ, ít người biết, cho đến thời cháu ngoại của ông là Dương Vận (Dương Uẩn?), thì mới được
cơng bố gọi là Thái Sử Cơng Thư Chí. Tên Sử ký là tên đặt sau này.
Nó đã xây dựng một phong cách viết sử mà sau này trở thành "khn mẫu chính thức"
cho tài liệu lịch sử Trung Hoa. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên trình bày các sự kiện theo chuỗi kèm
theo chú giải, nguồn tham khảo. Cơng trình này gồm 526.500 chữ, 130 thiên; khơng theo trình tự
thời gian, mà theo 5 chủ đề, bao gồm bản kỷ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện; viết về nhiều lĩnh vực
của xã hội gồm âm nhạc, lễ hội, lịch, tín ngưỡng, kinh tế; kèm theo một nguồn tham khảo lớn.
Trước ông, lịch sử được viết dành cho triều đình. Phong cách viết sử mở rộng cho nhiều mặt của


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

xã hội trong Sử ký sau này ảnh hưởng rất nhiều đến sử gia Tư Mã Quang ( khi viết Tư trì thơng
giám).
Sử ký của Tư Mã Thiên cũng đã được coi như hình mẫu cho văn học với nghệ thuật miêu tả
chân dung nhân vật và sự kiện đạt tới trình độ bậc thầy không chỉ trong nền văn học Trung Hoa
mà cả trên thế giới. Nó được các nhà phê bình văn học coi là có "trình độ miêu tả điêu luyện"
(như phương pháp đàm thoại khiến các miêu tả thêm sống động), "phong cách sáng tạo" (ngơn
ngữ bình dân, dí dỏm và phong phú, như tác phẩm thơ không vần), "súc tích" (cách viết chỉ miêu
tả những điểm cốt yếu, ngắn gọn dễ hiểu)... Sử ký của Tư Mã Thiên có hàng ngàn nhân vật điển
hình sống mãi trong văn học, điều đó làm cho ơng có thể xếp ngang hàng với những nhà văn bậc
thầy của thế giới. Hệ thống nhân vật của ông thật đông đảo, thật đa dạng, đủ các nghề nghiệp, đủ
các đẳng cấp, từ các bậc đế vương, hàng ngũ quan lại, các triết gia… cho đến những thị dân,
nông dân ở mọi nơi, mọi chốn. Những hình tượng nhân vật như các bậc đế vương Hạng Vũ, Lưu
Bang, những tướng lĩnh tài ba Hàn Tín, Lý Quảng, thích khách can trường như Kinh Kha,

thương gia giảo hoạt như Lã Bất Vi, những thuyết khách tài giỏi “uốn ba tấc lưỡi” làm xoay
chuyển thiên hạ như Tô Tần, Trương Nghi, những triết gia bất tử như Khổng Khâu, Trang Tru,
v.v… không những đã trở thành những hình mẫu, những chuẩn mực nghệ thuật vĩnh cửu mà còn
là đề tài, là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều thế hệ nhà văn kế tiếp.
Ở Sử Ký, không giống các văn bản lịch sử chính thức thời gian sau này, vốn chấp nhận
học thuyết Khổng giáo, tuyên bố quyền lực thần thánh của các vị Hoàng đế và loại trừ ra ngồi
vịng pháp luật mọi âm mưu chiếm ngơi báu, phong cách viết sử tự do và có chủ đích của Tư Mã
Thiên đã được nhiều nhà thơ và tiểu thuyết sau này học tập. Đa số các thiên Liệt truyện đều là
những đoạn văn miêu tả sống động các nhân vật và sự kiện, vì Tư Mã Thiên đã sử dụng một cách
chính xác các câu chuyện lịch sử trong quá khứ làm nguồn tư liệu của mình, và có điều chỉnh lại
cho đúng với thực tế.Ví dụ, ông viết truyện Kinh Kha ám sát Tần Thuỷ Hồng trong thiên
“Thích khách liệt truyện” dựa trên lời kể của một vị quan trong triều nhà Tần và vụ ám sát xảy ra
khi vị quan đó đang có mặt tại đó
Sử ký gồm trên 52 vạn chữ, 130 thiên, xếp loại các thông tin thành 5 phần khác nhau: Bản
kỷ, Biểu, Thư, Thế gia và Liệt truyện.


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

12 thiên Bản kỷ (Quyển 1-12): ghi lại tiểu sử của những vị vua nổi tiếng từ thời vị Hoàng Đế
thần thoại cho tới Tần Thuỷ Hoàng và các vị vua của nhà Hạ, nhà Thương, và nhà Chu. Tiểu sử
của bốn Hoàng đế và một hồng hậu nhiếp chính (Cao Tổ, Lữ Hậu, Hiếu Văn, Hiếu Cảnh, Hiếu
Vũ) nhà Tây Hán trước thời ông cũng được cho vào phần này.
10 thiên Biểu (Quyển 13-22): xây dựng bảng thời gian các sự kiện quan trọng.
8 thiên Thư (Quyển 23-30): là những đoạn sử về kinh tế, văn hóa, khoa học và tơn giáo trong
thời gian sinh sống của các nhân vật trong cuốn sách.
30 thiên Thế gia (Quyển 31-60): ghi lại tiểu sử các vị vua chư hầu nổi tiếng, tầng lớp quý tộc
và quan lại đa số thuộc giai đoạn từ Xuân Thu tới Chiến Quốc.

70 thiên Liệt truyện (Quyển 61-130): đề cập đến nhiều nhân vật, sự việc khác nhau, từ
thường dân đến quý tộc, từ chuyện cung đình đến chuyện xảy ra ngồi địa bàn của Trung Quốc.
Phần này có tiểu sử nhiều nhân vật quan trọng như Lão Tử, Mặc Tử, Tôn Tử, Kinh Kha, v.v...

II. NỘI DUNG
1. Khái niệm hình tượng

Hình tượng văn học có thể là ngun mẫu ngồi đời, hoặc có thể xuất phát từ trí tưởng tượng,
điều ấy hầu như khơng quan trọng lắm. Cái chính là khi đi vào tác phẩm những hình tượng ấy để
lại trong lịng bạn đọc những dấu ấn khó phai mờ qua năm tháng. Những hình tượng ấy đã trỏ
thành “thật hơn sự thật”.
2. Phương pháp chung xây dựng hình tượng nhân vật trong Sử Ký

Trong Sử Ký, nhân vật là con người thực, việc thực, như Tư Mã Thiên đã nói: “Tơi chỉ thuật
lại chuyện xưa chứ có sáng tác đâu”. Thế nhưng Sử Ký đã trở thành tác phẩm văn học vĩ đại chính
là nhờ thành cơng trong xây hình tượng nhân vật.
Các nhân vật trong Sử Ký đều là những nhân vật điển hình. Mỗi nhân vật được hình tượng hóa
đều có sự có sự chọn lựa. Sự chọn lực ấy nói lên một điều tất yếu: những nhân vật được miêu tả là
những nhân vật có ý nghĩa nhất định trong lịch sử. Do đó mỗi nhân vật đã mang tính điển hình.


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

Mỗi nhân vật dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên đều hiện rõ nét, có cá tính, có số phận. Ơng
khơng hư cấu nhân vật nhưng nhân vật của ông rất sinh động.
Về ngoại hình, Tư Mã Thiên miêu tả nhằm khắc họa đậm nét hình ảnh nhân vật. Thái Trạch có
vẻ ngồi tầm thường: “mũi hếch, tai lồi, mắt to, sống mũi tẹt, đầu gối cong…” nhưng ông lại là
người biện sĩ giỏi nhất một thời. Nhân vật trong Sử Ký là nhân vật lịch sử nhưng lại hiện lên sinh

động khong kém các nhân vật văn học. Việc chọn chi tiết đặc biệt về ngoại hình của nhân vật là cả
một cơng trình nghệ thuật của Tư Mã Thiên.
Trong văn học, nhân vật được miêu tả bằng những chi tiết từ ngoại hình đến hành động từ đó
người ta có thể biết về tình cách, nội tâm của nhân vật. Tư Mã Thiên đã biết vô cùng khéo léo
trong việc lựa chọn chi tiết đắt giá làm cho người đọc như thấy được nhân vật làm, nghe nhân vật
nói và hiểu được cá tình của nhân vật.
Với việc chọn góc nhìn về lịch sử khách quan và rất khoa học, Tư Mã Thiên khơng nhìn nhân
vật của mình bằng con mắt phong kiến, Nho gia giáo điều hà khắc bóp méo sự thật lịch sử. Ơng
khơng qua những chi tiết có thể với một vài sử gia nó là vụn vặt như là câu nói hay hành động trẻ
con lúc cịn nhỏ của nhân vật. Ơng chọn lọc những chi tiết đó, chính những hành động lúc nhỏ
chính là nền tảng hình thành, ảnh hưởng đến con người nhân vật sau này.
Tư Mã Thiên đặc biệt là không bao giờ thuyết minh dài dòng mà chủ yếu để bản thân sự việc, cá
tính nhân vật tự nói lên tình cách của họ. Ông miêu tả nhân vật trung thực không che giấu cái xấu,
phơ trương cái tốt. Ví như khi viết về Lưu Bang (Hán Cao Tổ) ông không ngần ngại khắc họa Lưu
Bang như một tên lưu manh, thủ đoạn.
Bên cạnh đó nhiều nhân vật trong Sử Ký cũng được Tư Mã Thiên đưa vào những chi tiết
hoang đường. Chính những chi tiết này làm cho nhân vật càng sống động thú vị hơn.
Nhân vật của Tư Mã Thiên cũng được miêu tả tâm lý thành cơng và sâu sắc.
3. Hình tượng nhân vật điển hình trong Sử Ký
3.1 KHUẤT NGUYÊN
Khuất Nguyên vốn là một nhà chính trị gia, một nhà thơ yêu nước. Vì bị người khác ganh tị
mà dèm pha ơng nên Sở Hồi Vương đã tù đày Khuất Nguyên và dẫn đến kết cục là ông phải tự
tử ở sơng Mịch La. Trước đó, hồn cảnh và số phận của Khuất Ngun khơng được ai biết đến.
Ơng như là một người vô danh trong cái xã hội lúc bấy giờ. Nhưng nhờ có Sử Ký của Tư Mã
Thiên, Khuất Nguyên đã được người đời biết đến và trở thành một hình tượng nổi bật và điển


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ


hình trong Sử Ký. Tư Mã Thiên đã kể lại chuyện Khuất Nguyên như kể về một người bạn, một
người tri kỉ mà ông ln thấu hiểu nỗi lịng. . Do đó có thể nói rằng: “ trước ơng khơng ai nói
đến Khuất Ngun, sau ông không ai đánh giá Khuất Nguyên đúng bằng”
Khi miêu tả Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên chỉ dùng vài nét tiêu biểu mà đã làm nổi lên nhân
vật điển hình. Khuất Ngun một lịng vì dân vì nước mà bị dèm pha. Để xây dựng thành công
nhân vật Khuất Nguyên, ban đầu Tư Mã Thiên đã nói về tài năng, tấm lịng u nước và sự tín
nhiệm của Sở Hồi Vương dành cho ơng.
“ Khuất Ngun tên là Bình cùng họ với vua nước Sở. Bình làm chức tả đơ đời Sở Hồi Vương,
học rộng, nhớ lâu, thấy rõ lẽ trị loạn, thạo việc giấy tờ. Vào cung thì cùng vua bàn tính việc
nước, ban bố các mệnh lệnh, ra thì tiếp đãi khách khứa, ứng đối với chư hầu. Nhà vua rất tin
dùng”.
Sau đó Tư Mã Thiên lại nói đến nguyên nhân khiến số phận của Khuất Nguyên lâm vào bi
kịch. Nếu như lúc trước Tư Mã Thiên kể về tài hoa và sự yêu mến của vua dành cho Khuất
Ngun thì bây giờ chính sự tài hoa và lịng u mến được dành cho ơng lại trở thành lí do khiến
ơng lâm vào thảm cảnh. Người ta thường nói người có tài ln bị kẻ khác ghen ghét. Kẻ ghen tị
với Khuất Nguyên ở đây là tên đại phu Thượng Quan. Thông qua nhân vật này, ta có thể thấy
được thời đại mà Khuất Nguyên đang sống. Một thời đại luôn ẩn chứa những tên nịnh thần gian
xảo chỉ luôn lăm le hãm hại người hiền tài.
“Đại phu Thượng Quan cùng ông ngang hàng, tranh được vua yêu trong bụng ghen ghét tài n
ăng.Hoài Vương sai Khuất Nguyên làm pháp lệnh, Khuất Nguyên nháp bản thảo chưa xong, đại
phu Thượng Quan trông thấy muốn cướp lấy, Khuất Nguyên không cho, ông ta bèn gièm với
vua:
- Bệ hạ sai Khuất Bình làm pháp lệnh, khơng ai là khơng biết. Mỗi khi lệnh ban ra, Bình lại khoe
cơng của mình, nói: Ngồi ta ra, chẳng ai làm nổi .
Nhà vua giận, bỏ rơi Khuất Bình.”
Khi nói về Khuất Ngun, Tư Mã Thiên dùng rất ít câu văn để miêu tả con người ông mà
phần lớn câu văn là dùng để kể về sự ngu muội, không biết dùng người tài của Sở Hoài Vương
và hoàn cảnh của nước Sở sau khi Khuất Nguyên rời đi cũng như muốn nói về hoàn cảnh xã hội



MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

của Khuất Ngun hơn là con người Khuất Nguyên. Bởi nguyên nhân khiến Khuất Nguyên rơi
vào bi kịch không phải là bản thân ông mà phần lớn là do xã hội ông đang sống hay nói chính
xác hơn là do những người chủ mà ông luôn tôn thờ. Qua đó, Tư Mã Thiên muốn nhấn mạnh
hơn về bi kịch của Khuất Nguyên đó là có tài nhưng lại khơng được sử dụng tài năng để giúp đời
trái lại còn phải chịu số phận bi thảm.
Tư Mã Thiên đã kể lại việc Tần muốn đánh Tề để thấy rõ sự ngu dốt và tham lam của Sở
Hồi Vương. Chỉ vì tham lam một mảnh đất sáu trăm dặm mà ông ta đã tuyệt giao với nước Tề
vốn là đồng minh của mình. Sau đó thì bị Tần bội ước, bị vây đánh thảm thương.
“Sau khi Khuất Nguyên bị truất, nước Tần muốn đánh Tề, nhưng Tề hợp tung với Sở. Tần Huệ
Vương lo ngại bèn sai Trương Nghi giả vờ bỏ Tần, mang nhiều tiền của tình nguyện thờ nước
Sở. Trương Nghi nói:
- Tần ghét Tề, nhưng Tề lại hợp tung, thân với Sở. Nếu Sở tuyệt giao với Tề thì Tần sẽ xin dâng
sáu trăm dặm đất ở Thượng Ư.
Sở Hoài Vương tham đất, lại tin lời Trương Nghi, bèn tuyệt giao với Tề, sai sứ sang Tần nhận
đất. Trương Nghi nói dối sứ giả:
- Nghi hẹn cho nhà vua sáu dặm, chứ có phải làm sáu trăm dặm đâu.
Sứ thần Sở giận, ra về, nói lại với Hồi Vương. Hồi Vương giận, đem đại quân đánh Tần. Tần
đem quân đánh lại phá tan quân Sở ở sông Đan, sông Tỉnh, cém tám vạn đầu bắt tướng Sở là
Khuất Cái, lấy đất Hán Trung của Sở. Hoài Vương bèn đem tất cả quân trong nước Sở đánh sâu
vào nước Tần. Hai bên đánh nhau ở Lam Điền. Nước Ngụy nghe tin, đánh úp Sở, đem quân đến
đất Đặng. Quân Sở lo sợ từ nước Tần trở về, cịn qn Tề thì giận khơng cứu Sở. Sở khốn to.”
Để làm tăng thêm sự hèn kém của Sở Hồi Vương, Tư Mã thiên cịn kể thêm việc thả
Trương Nghi của ơng ta. Vì nghe lời của Cận Thượng và sủng phi của mình là Trịnh Tụ mà bỏ
qua lời khuyên của Khuất Nguyên- người luôn trung thành với mình, Sở Hồi Vương đã tha cho
kẻ đã khiến mình bị mất nước, nhân dân khổ cực.

Thơng qua việc khắc họa rõ nét sự ngu muội của Sở Hoài Vương, Tư Mã Thiên đã làm nổi
bật tinh thần trung quân ái quốc cao quý của Khuất Nguyên. Đối lập với một vị vua ngu ngốc và


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

hèn kém là một người văn nhân tài giỏi và hết mực trung thành. Tuy có bất bình trước sự mê
muội của Hồi Vương nhưng thay vì bỏ mặc khơng lo nghĩ thì Khuất Ngun vẫn một lịng lo
nghĩ đến vua đến nước. Ơng ln tin tưởng rằng Hồi Vương sẽ có một ngày nhận ra nỗi oan
khuất của mình mà lại tin tưởng mình để mình có thể báo ơn vua, đền nợ nước.
“Khuất Bình cũng ghét chuyện ấy. Tuy bị ruồng bỏ, xua đuổi, ơng vẫn lo toan nước Sở, lịng
vẫn nghĩ đến Hồi Vương, cứ mong trở về, mong có một ngày nào nhà vua tỉnh ngộ, tập tục sẽ
thay đổi. Lịng ơng chỉ mong sao cho nhà vua được cịn, nước được mạnh, trong một bài, ông
nhắc đi nhắc lại điều ấy đến ba lần. Nhưng rốt cục vẫn không làm sao được ! Điều đó, chứng tỏ
Hồi Vương suốt đời không tỉnh ngộ”
Tuy nhiên mong ước ấy của Khuất Ngun khơng thể thành sự thật được. Sở Hồi Vương
khơng bao giờ tỉnh ngộ được. Để chứng minh cho sự khơng tỉnh ngộ đó của Sở Hồi Vương, Tư
Mã Thiên đã có đoạn viết về kết cục của ơng ta. Lại một lần nữa vì nghe lời của bọn nịnh thần
mà bỏ qua lời của trung thần mà Hoài Vương đã chuốc lấy kết cục bi thảm cho mình.
“Về sau, chư hầu cùng nhau đánh Sở, phá tan quân Sở, giết tướng Sở là Đường Muội. Bấy giờ
Chiêu Vương nước Tần thơng gia với Sở, muốn họp mặt với Hồi Vương. Hồi Vương toan đi,
Khuất Bình can:
- Tần là nước hùm sói, khơng thể tin ? Đừng đi là hơn.
Con nhỏ của Hoài Vương là Tử Lan, khuyên nhà vua nên đi:
- Sao lại để mất lịng vua Tần ?
Hồi Vương bèn ra đi. Khi vào đất Vũ Quan, Tần sai phục binh cắt đứt đường về, nhân giữ Hoài
Vương lại để địi cắt đất. Hồi Vương giận, khơng chịu, bỏ trốn sang Triệu, Triệu khơng chứa,
Hồi Vương lại về Tẩn, rốt cục chết ở Tần, rồi đưa về chôn ở Sở.”

Số phận bi thảm của Khuất Nguyên vẫn không dừng lại ở đây. Khi vua mới lên ngôi những
tưởng nỗi oan của Khuất Nguyên sẽ được sáng tỏ. Ông sẽ vẫn được ra giúp vua giúp nước.
Nhưng kẻ mới lên ngôi vẫn mê muội và bất tài như vậy. Khoảnh Tương Vương vì nghe lời của
dỗn lệnh Tử Lan- người đã gián tiếp gây ra cái chết của Hoài Vương mà kết tội đi đày cho
Khuất Nguyên.


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

Bất lực trước thời cuộc, Khuất Nguyên đành chọn cho mình cái chết để giữ lại sự trong sạch
cả đời “Tơi nghe nói, khi vua gội đầu xong thì người ta phủi mũ, khi vua tắm xong thì người ta
giũ áo, lẽ nào để cái thân trong trắng bị vật làm nhơ bẩn đi. Ta thà gieo mình xuống sơng
Tương, chơn mình trong bụng cá, lẽ nào để cái bản chất trắng ngần của ta chịu bụi bậm của
đời?
Bèn làm bài phú Hoài sa, đoạn ơm đá gieo mình xuống sơng Mịch La mà chết”
Điểm đặc sắc trong phần Khuất Nguyên liệt truyện là Tư Mã Thiên đã đưa ra một đoạn trong
bài “ Ngư phủ từ” của Khuất Nguyên để nói lên tâm sự u uất của nhà văn. “đến bờ sông, xõa tóc
đi, ngâm nga trên bờ đầm, sắc mặt tiều tụy, hình dung khơ héo…” “Tất cả đời đều nhơ đục, chỉ
một mình ta trong, tất cả mọi người đều say, riêng một mình ta tỉnh, cho nên bị đuổi…”
Tâm trạng của Khuất Nguyên rất giống với Nguyễn Trãi. Số phận của Nguyễn Trãi cũng
giống như Khuất Nguyên đều là những người trung thành mà luôn bị thế lực xấu xa vùi dập.
Nguyễn Trãi cũng đã thốt lên những lời thơ đau xót cho số phận của chính mình:
“ Hư danh thực họa thù kham tiếu
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên”
( Oan thán)
Và cũng như Khuất Nguyên, Nguyễn trãi không lo cho riêng mình mà dành nỗi ưu tư lớn cho
vận mệnh nước nhà, cho thế hệ tương lai:
“ Hư danh tự thán thành Cơ, Đẩu

Hậu học thùy tương tác chuẩn thằng”
( Mạn hứng III)
Nếu như trong thơ Nguyễn Trãi phảng phất nỗi buồn sâu lắng thì đó là nỗi buồn vì lí tưởng
chưa thành, tự thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm với dân với nước:
“ Quốc phú binh cường chăng có chước
Bằng tơi nào thuở ích chưng dân”


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

( Trần tình II)
Điều đó chứng tỏ Tư Mã Thiên đã xây dựng thành cơng hình tượng Khuất Ngun để trở
thành hình tượng tiêu biểu cho lớp người tài hoa nhưng lại bị các thế lực xấu xa vùi dập, những
con người tuy có tài năng nhưng thời thế lại không cho phép họ phơ diễn tài năng đó ra giúp đời
Có thể nói rằng hình tượng Khuất Nguyên được xây dựng gần giống với con người của Tư
Mã Thiên. Khuất Nguyên là người có tài nhưng lại gặp cảnh ngộ bi thảm cũng giống như Tư Mã
Thiên vì giúp bạn mà phải chịu nhục hình. Một điểm giống nhau nữa giữa Tư Mã Thiên và
Khuất Nguyên là nếu như Khuất Nguyên giận về nỗi nhà vua nghe không phân biệt phải trái, để
lời gièm pha che mất óc sáng suốt, để kẻ gian ác làm hại người trung thành, khiến cho người
ngay không có chỗ dung thân, cho nên lo buồn nghĩ ngợi mà làm ra Ly Tao thì Tư Mã Thiên từ
bi kịch của bản thân mà phẫn uất căm hận mà viết nên Sử kí. Điều này đã thể hiện được quan
niệm ““ Phát phẫn trứ thư” ( uất ức mà viết thành sách) của Tư Mã Thiên.
Khuất Ngun vì ln ray rứt với lẽ sống của con người, với thực trạng của cuộc đời. Ơng
giận vua khơng phân biệt phải trái, nghe lời kẻ nịnh thần mà làm hại người trung thành. Thất
vọng trước cuộc đời ông đã làm bài “ Ly tao”. Và Tư Mã Thiên không chỉ viết về cuộc đời Khuất
Nguyên mà còn đưa ra những nhận định về văn phong của “ Ly tao”, nói về giá trị của nó. Điều
đó chứng tỏ ơng thực sự hiểu rõ nỗi lịng của Khuất Ngun.”. Có thể thấy rằng Tư Mã Thiên đã
dành những lời cảm thán bi ai cho số phận của Khuất Nguyên. Có lẽ khi chép lại nỗi lòng của

nhà văn, Tư Mã Thiên cũng chép lại nỗi lịng của mình trong đó nữa
“Ly Tao cũng như là buồn trong chia ly. Trời là khởi thủy của loài người. Cha, mẹ là gốc của
con người. Người ta gặp lúc khốn cùng thì quay về gốc. Cho nên hễ khó khóc mỏi mệt, ốm đau,
khơng ai khơng kêu trời ! Khi đau xót, thương cảm, khơng ai khơng kêu cha mẹ. Khuất Bình theo
đạo ngay đi đường thẳng, dốc hết lịng trung, đưa hết trí khơn ra thờ vua,nhưng lại bị kẻ gièm
pha ly gián, có thể gọi là ở vào cảnh khốn cùng vậy ! Mình tín mà bị ngờ vực, mình trung mà bị
chỉ trích, làm sao khỏi ốn thán ! Khuất Bình viết Ly Tao là do oán thán mà ra vậy ! Thơ Quốc
Phong mê sắc mà không dâm, thơ Tiểu Nhã oán trách mà không loạn. Như Ly Tao thực là gồm
được cả hai. Trên kể từ Đế Cốc, dưới nói đến Tề Hoàn, giữa thuật truyện vua Thang và Vũ, chỉ
trích việc đời. Nó nêu rõ tầm quan trọng của đạo đức, nguyên nhân làm nước nhà trị hay loạn,
không có chuyện gì là khơng nói đến. Văn ơng ngắn gọn, kín đáo, chí ơng trong sạch, nết ơng


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

thanh cao; tuy nói những điều vụn vặt, nhưng ý nghĩa rất rộng; việc nhắc đến tuy gần, nhưng
nghĩa thì xa. Chí ơng trong sạch nên hay nói đến cái hoa thơm. Nết ơng cao cho nên dù chết
cũng không được dung nạp. ông thoát khỏi cái thế giới bùn lầy như con ve bỏ lốt ở nơi dơ đục,
để cất mình ra khỏi đám bụi trần chẳng để cho đời làm dơ bẩn. Thật là ở bùn mà trong trắng
chẳng lây đen. Suy cái chí ấy thì ơng có thể thi sáng với mặt trăng, mặt trời vậy!”
Ở cuối đoạn kết cục của Hồi Vương, Tư Mã Thiên đã có sự đánh giá nhận xét về ông và
nguyên nhân khiến ông lâm vào thảm cảnh.. Đây là một điều đặc sắc trong ngòi bút của Tư Mã
Thiên, nếu như những nhà sử học khác chỉ đơn giản là kể lại sự kiện xảy ra cịn Tư Mã Thiên thì
cịn biết đặt mình vào trong hồn cảnh đó để nhận xét về thời cuộc. Vì khơng sao qn được
nhục hình của mình mà trong đoạn văn này ta có thể bắt gặp những tư tưởng phẫn uất, chán nản.
“Người làm vua, không kể dại hay khơn, hiền hay dở đều muốn tìm kẻ trung thần để trị nước,
cất nhắc kẻ giỏi để giúp mình. Vậy mà chuyện nước mất nhà tan thì cứ kế tiếp nhau diễn ra, trái
lại cái cảnh vua thánh nước trị thì mấy đời cũng khơng thấy có. Đó là vì cái bọn gọi là trung kia

khơng phải là trung, và cái bọn giỏi kia không phải là giỏi vậy. Hồi Vương vì khơng biết phân
biệt kẻ trung thần cho nên ở trong thì bị Trịnh Tụ làm mê hoặc, ở ngoài bị Trương Nghi lừa dối,
rốt cục ruồng bỏ Khuất Bình mà tin đại phu Thượng Quan, lệnh dỗn Tử Lan. Rốt cục quân
thua, đất bị cắt, mất đứt sáu quận, chết bỏ xác ở đất Tần, làm trò cười cho thiên hạ. Đó đều do
khơng biết người mà mắc vạ, Kinh Dịch nói: Giếng sạch chẳng ăn, lịng ta băn khoăn ! Đạo ta
có thể đem ra dùng, vua sáng dùng đạo ta, mọi người đều nhờ phúc . Vua khơng sáng thì thực là
vơ phúc vậy”
Qua đó thể hiện tư tưởng sâu sắc của Tư Mã Thiên thơng qua ngịi bút của ơng. Khơng với
những nhà sử học khác, ông không e ngại cường quyền, viết đúng những gì mắt thấy tai nghe.
Ơng đứng về tư tưởng của nhân dân mà phán xét. Ơng ốn ghét những tên vua chúa hoang dâm
vô độ, hại nước hại dân nên ngịi bút của ơng khơng hề khoan nhượng mà thẳng tay chỉ trích
chúng. Cịn đối với những người tài hoa có cơng với nhân dân, một lịng u mến nhân dân thì
ơng dùng hết lời khen ngợi. Có thể nói ngịi bút của Tư Mã Thiên là ngịi bút ghi chép đúng sự
thật, trung thành với sự thật lịch sử.
Vì thương cảm cho cuộc đời đầy khí tiết của Khuất Ngun mà khơng ai được biết đến.
Ơng đã sửa lại sự bất cơng đó bằng việc ghi chép thêm sự việc những người đời sau vì ngưỡng


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

mộ tấm gương trung kiên của Khuất Nguyên mà đến viếng thăm nơi ông nhảy xuống sơng. Vì
bọn vua chúa đều mê muội trong việc dùng người cho nên Khuất Nguyên mới đâm đầu xuống
sông Mịch La rồi Gỉa Nghi mới phải điếu Khuất Nguyên để tự điếu mình. Và Tư Mã Thiên đã
ghi chép nỗi lòng của hai nhà thơ ấy cũng như là ghi chép nỗi lịng của mình nữa. “Sau khi
Khuất Nguyên chết đuối ở Mịch La hơn trăm năm, đến đời Hán, có Giả Nghị làm thái thú của
Trường Sa Vương, qua sông Tương ném thư xuống sông để điếu Khuất Nguyên”
3.2 Kinh Kha
Hình tượng Kinh Kha trước hết được ghi trong sử sách tự hơn hai ngàn năm qua, đó là lịch

sử sau được các văn nhân đem viết thành dã sử như trong “Đông Chu Liệt Quốc”.Kinh Kha
trong “Sử Ký” của Tư Mã Thiên chỉ được ghi chép văn tắt chừng mười trang ở mục “Thích
Khách Liệt Truyện” nhưng đã dựng lên một hình tượng khá độc đáo về Kinh Kha.
Nhà thơ Vũ Hồng Chương đã có những câu thơ về hình tượng người anh hùng này:
“Một nét dao bay ngàn thuở đẹp
Dù sai hay trúng cũng là dư
Kìa uy dũng kẻ sang Tần khơng trở lại
Đã trùm lấn u Ly, hề át Chun Chư
Ơi Kinh Kha!
Hào khí người cịn sang sảng
Nước sơng Dịch cịn trơi hay đã cạn
Chí anh hùng vằng vặc sáng thiên thu.”
Kinh Kha cũng là một trong những hình tượng độc đáo trong “Sử ký”. Khi miêu tả về
Kinh Kha, Tư Mã Thiên dùng phương pháp tự sự độc đáo làm thành một phong cách riêng, đó là
khi kể chuyện về nhân vật, ơng thường đưa ra những giai thoại rất ngắn, có thể vụn vặt nhưng
chính những chi tiết đó là những nét điển hình làm cho nhân vật sống.
“Kinh Kha là người nước Vệ, tổ tiên là người nước Tề. Kinh Kha di cư sang Vệ, nước Vệ
gọi là Khánh Khanh.Sau đó sang nước Yên gọi là Kinh Khanh.Kinh Kha thích đọc sách, đánh
gươm, đem kiếm thuật nói với Vệ Nguyên Quân. Vệ Nguyên Quân không dùng.”


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

Tư Mã Thiên kể Kinh Kha hai lần bỏ đi khi bàn kiếm thuật với Cáp Nhiếp và đánh cờ với
Lỗ Câu Tiễn. “Kinh Kha có lần qua chơi đất Du Thứ, bàn kiếm thuật với Cáp Nhiếp. Cáp Nhiếp
giận, trợn mắt nhìn Kinh Kha đi ra, không trở lại nữa.” Một lần khác, Kinh Kha đi chơi đến
Hàm Đan. Lỗ Câu Tiễn cùng Kinh kha đánh cờ, tranh nhau nước cờ. Lỗ Câu Tiễn giận mắng,
Kinh Kha im lặng trốn đi, sau đó không gặp nhau nữa. Tác giả đã dùng phép ức dương: trước khi

nói đến sự dũng cảm của Kinh Kha thì kể một chuyện làm người đọc tưởng Kinh Kha lần đầu
hèn nhát, rồi lần thứ hai cũng lại hèn nhát. Qua đó ta thấy được Kinh Kha là người có tính cách
khẳng khái, cao thượng, chỉ chơi với những người cùng chí hướng, khi thấy họ khơng cùng chí
nguyện thì âm thầm bỏ đi chứ khơng phải là hèn nhát, sợ sệt.
Nhân vật được miêu tả một cách toàn diện hơn, khách quan hơn, trung thực hơn nó khơng
mang ý muốn chủ quan của Tư Mã Thiên. Đặt nhân vật trong mọi hoàn cảnh để miêu tả một
nhân vật lịch sử dù vĩ đại đến đâu trước hết phải là một người bình thường. Tư Mã Thiên theo
dõi một nhân vật là cốt tìm cho được cái bản chất của nó và trong khi theo dõi nhân vật, ơng
khơng chạy theo nhân vật mà quyết tìm được cái quyết định tính cách của nhân vật. Chỉ là một
chi tiết nhỏ Tư Mã Thiên đã định hình được tính cách nhân vật của mình một cách chân thực.
Kinh Kha là người có tâm sự sâu kín trong lịng, khơng thể thổ lộ cùng ai. Kinh Kha kết
thân với Cao Tiệm Ly, là người giỏi gẩy đàn trúc.Kinh Kha hàng ngày cùng Cao Tiệm Ly uống
rượu ở chợ nước Yên,“ Sau khi chén rượu dở say, Cao Tiệm Ly gẩy đàn trúc, Kinh Kha họa theo
mà hát vui ở giữa chợ. Sau đó lại cùng nhau khóc, xem như bên cạnh khơng có người”. Chi tiết
tuy nhỏ nhưng lại khắc họa đậm nét cá tính của Kinh Kha: thâm trầm và mang một tâm sự u uẩn.
Kinh Kha chỉ kết thân với người tâm giao ý hợp cho dù người đó là địa vị thấp hay cao,như Cáp
Nhiếp hay với Lỗ Cao Tiễn, hay trong bất kì hồn cảnh nào, trong quán thịt chó, tưởng chừng
như là nơi “trần tục” nhưng từ nơi đó lại sinh ra một tình bạn đẹp. Cách chọn bạn tâm giao của
Kinh kha cũng cho thấy được tính cách và tâm hồn của nhân vật này.
Với Tư Mã Thiên, một nhân vật lịch sử không chỉ được miêu tả trong khi họ đóng vai trị
lịch sử mà họ được miêu tả trong cả cuộc sống đời thường, ở cả những lúc khốn khó nhất, cùng
quẫn nhất. Vì theo ơng, có như vậy thì nhân vật mới khơng phải đóng kịch để trình diễn vai trị
lịch sử của mình, mới thấy, mới hiểu được một cách chân thật nhất và có cách nhìn nhận chính
xác về nhân vật này. Chính vì điều này mà hệ thống nhân vật trong “Sử ký” nói chung và nhân
vật Kinh kha nói riêng hiện lên trên từng thiên truyện hết sức đặc sắc và nổi bật.


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ


Kinh Kha chỉ là một tân khách. Người ta chưa thấy Kinh Kha là dũng sĩ ở một cử chỉ hay
giọng nói nào cả. Mãi đến khi Thái Tử Đan bày tỏ công việc nhờ Kinh Kha, Kinh Kha đã nói
rằng: “Đó là một việc lớn của nước, thần hèn kém sợ không đáng sai khiến”. Đó khơng phải là
câu nói nhún mình, mà là sự thật. Thái Tử Đan dập đầu cố xin thì Kinh Kha lại từ chối nhiều lần
rồi mới nhận lời. Kinh Kha là người biết tự tri, một người biết suy nghĩ thấu đáo, xét kĩ trước khi
làm công việc gì mà đây lại cịn là việc nước hệ trọng.
Kinh Kha cũng là một kẻ sĩ không hành động khinh suất, nóng vội. Kinh Kha bảo với
Thái Tử Đan rằng: “Tơi có một người bạn quen là Cáp Nhiếp chưa đến, muốn đợi bạn tơi giúp
sức mới có hy vọng thành việc được”. Nhưng vì cái họa Tần đến mau quá, vua Tần đã sai đại
tướng Vương Tiễn đi lấn đất đã sang đến nước Yên. Kinh Kha đành liều đi, trong bụng tuyệt
vọng.
Từng chi tiết nhỏ được Tư Mã Thiên chú trọng làm nổi bật lên tính cách của nhân vật
chính, nhất là qua từng sự việc cụ thể.
Bên sông Dịch Thủy, mọi người đều “mặc áo mũ trắng” để tiễn đưa Kinh Kha- tiễn đưa
người hiệp sĩ lên đường sẽ không bao giờ quay trở lại. Cao Tiệm Ly gẫy đàn trúc, Kinh Kha theo
nhịp mà hát. Tiếng đàn và lời hát bi tráng làm “ kẻ sĩ đều sụt sùi nức nở”:
“Gió hiu hắt, chừ. Dịch Thủy lạnh ghê
Tráng sĩ ra đi, chừ, không bao giờ về”
Lời hát của Kinh Kha khẳng khái, nói lên một quyết tâm như là lời bày tỏ tâm sự, một lời
giã biệt “không bao giờ về”. Ra đi mà biết sẽ không bao giờ về, ai lại không ngậm ngùi, luyến
tiếc. Tình cảm đó của người tráng sĩ truyền trong lời hát thành một âm điệu vừa bi ai, vừa hùng
tráng, làm xúc động tâm hồn người ở lại, “mọi người trợn mắt, tóc đều dựng đứng xiên lên mũ”.
Và Kinh Kha ra đi, “ khơng hề nhìn ngối lại”. Tư Mã Thiên chỉ dùng mấy chữ “khơng hề nhìn
ngối lại” mà khí phách anh hùng của Kinh Kha nổi bật lên. Ông miêu tả rất hay đoạn này, để lại
trong lịng người đọc một tình cảm đẹp, một cảm xúc sâu lắng đối với hình ảnh người tráng sĩ ra
đi vì nghĩa lớn. Ở đây cũng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng phản ánh lý tưởng chung của thời đại
đã được thể hiện rõ.



MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

Khi miêu tả một nhân vật lịch sử thì các sử gia thường chỉ xét họ trong giờ phút mà họ
đóng vai trị lịch sử, họ chỉ xét nhân vật trong : “tư thế lịch sử của nó”, nhưng Tư Mã Thiên
khơng làm như vậy mà ơng miêu tả nhân vật một cách tồn diện, khái quát và hết sức khách
quan.
Tư Mã Thiên miêu tả đoạn Kinh Kha hành thích vua Tần, Kinh Kha bình tĩnh và anh
dũng. Nhưng vì Tần Thủy Hồng được quần thần giúp sức, Kinh Kha thất bại. Tuy việc không
thành nhưng người đời sau vẫn ca tụng nhân vật Kinh Kha. Nhân vật này lôi cuốn người đọc
không chỉ qua hình ảnh của chàng hiệp sĩ mà cịn là một con người có tâm sự kín đáo khơng mấy
ai hiểu.Hình ảnh Kinh Kha đã trở thành hình tượng trong thơ ca, truyền kỳ… Hình ảnh đó mang
tính chất lãng mạn của người hiệp sĩ thời đại.
3.3 Hạng Vũ
Có thể nói Hạng Vũ là một trong những nhân vật mà Tư Mã Thiên khắc họa thành công
nhất. Mặc dù là một nhân vật có thật trong lịch sử Trung Quốc và được Tư Mã Thiên viết lại
nhưng bằng ngòi bút tài hoa của mình Tư Mã Thiên đã dựng nên hình tượng Hạng Vũ hết sức
độc đáo và đậm tình văn học.
Thuở nhỏ bản thân Hạng Vũ không hẳn là bậc kì tài bởi vì: “học chữ chỉ đủ để viết tên họ
mà thôi, kiếm chỉ đánh lại một người”. Dù học chữ không nên, học võ không xong thế nhưng lại
muốn “học cách đánh vạn người” là cái lạ đầu tiên của Hạng Vũ được Tư Mã Thiên tinh tế nhận
ra ...Tác giả không bỏ qua những chi tiết nhỏ mà qua đó cịn nhận định được rằng Hạng Vũ là
nhân vật khác thường khi biết được Hạng Vũ đã từng tuyên bố khi thấy Tần Thủy Hoàng du
ngoạn qua Chiết Giang: “ có thể cướp và thay thế hắn”. Từ những chi tiết nhỏ ấy được tác giả
khai thác ta có thể thấy được Hạng Vũ có chí khí hơn người đây là nét tính cách nổi bật của ông.
Hạng Vũ rất dũng cảm, gần như Hạng Vũ khơng sợ một ai, chỉ có người khác sợ Hạng Vũ.
Hạng Vũ “thân cao hơn tám thước, có thể vác nổi chiếc đỉnh”. Chỉ với một câu mà Tư Mã Thiên
đã dựng nên hình tượng Hạng Vũ hơn người và có sức mạnh phi thường.
Hình tượng anh hùng Hạng Vũ còn được khắc họa qua từng trận đánh. Khi vua tôi Triệu

vương bị quân Tần vây khốn ở Cự Lộc. Có hơn mười doanh quân chư hầu đến cứu Triệu, nhưng
tất cả đều bất động, riêng Hạng Vũ cùng quân Sở quyết sống mái với quân Tần, lấy một chọi
mười, trải chín cuộc huyết chiến với qn Tần, tiếng hơ chém giết vang trời động đất, quân


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

tướng lũ chư hầu sợ đến bạc mặt, sau này đại phá quân Tần, cứu được Triệu vương. Quân Sở can
đảm, lại có sức mạnh, Hạng Vũ cảm thấy khơng cho họ có đất dụng võ là lãng phí, thật đáng
tiếc. Vì vậy, Hạng Vũ ln giễu võ giương oai. Tuy là thống sối, nhưng Hạng Vũ thích xơng
pha nơi hiểm trận. Mỗi lần chiến đấu, Hạng Vũ thường xông lên trước ba quân, tới đâu quét sạch
tới đó. Thường là, Hạng Vũ chưa động rới binh khí, chỉ cần trừng mắt nhìn, đối phương đã hồn
bay phách lạc, mắt khơng dám nhìn, tay chân cứng đờ, tè cả ra quần, tan rã hoàn tồn.
Hạng Vũ ln muốn quyết đấu với chủ sối đối phương. Hạng Vũ nói với Lưu Bang:
“Mấy năm nay thiên hạ xao xuyến khốn khổ, chỉ vì hai chúng ta”. Hạng Vương muốn cùng Hán
Vương khiêu chiến, quyết một phen sống mái, không nên làm khổ nhân dân thiên hạ nữa. Đúng
là khí khái của anh hùng.
Thắng bại của chiến tranh, nói đến cùng là thắng bại của đấu tranh chính trị, ít ra cũng là
thắng bại của chiến lược chiến thuật, khơng can hệ gì tới cơ thể lớn bé, tới sức lực của chủ soái.
Hạng Vũ coi đánh trận như đánh nhau, coi chính trị như kịch hát, giản đơn như con trẻ. Mọi
người đều rõ, “quân cần tinh không nhiều, tướng cần mưu không cần mạnh”. Hạng Vũ không
phải không biết điều này, không thế đã chẳng phải học binh pháp, cịn nói, khơng học cái “chỉ
đánh được một người” mà đòi học cái “đánh được cả vạn người” Tiếc rằng khi gặp việc, Hạng
Vũ không dùng tới cái “đánh cả vạn người”, mà chỉ dùng tới cái “đánh được một người”. Rõ
ràng Hạng Vũ không phải sối tài, chỉ là thất phu có sức mạnh và rất dã man, ác bá.
Cái mạnh của thất phu là cái mạnh của một người, cái mạnh của tướng soái là cái mạnh
của vạn người. Trên chiến trường không thể khơng có sức mạnh, “hai qn giao tranh, qn
mạnh sẽ thắng”. Nhưng sức mạnh nói ở đây là sức mạnh của tồn qn, khơng phải sức mạnh

của cá nhân. Đương nhiên trong một lúc nào đó, tướng lĩnh lên trước ba qn sẽ có tác dụng cổ
vũ sĩ khí, trong thời đại binh khí lạnh lại càng như vậy. Nhưng Hạng Vũ xông vào hiểm trận lại
không phải để cổ vũ sĩ khí mà hồn tồn vì sự say mê cá nhân. Kết quả, do Hạng Vũ sống theo
chủ nghĩa anh hùng cá nhân, binh sĩ và các tướng sĩ khác thấy có mình cũng như khơng, làm gì
cịn sức mạnh và trí tuệ của tập thể? Tư Mã Thiên phê bình Hạng Vũ “dùng trí riêng” (chỉ dựa
vào cá nhân), “đánh bằng lực” (chỉ dùng bạo lực), hai điều này nói rõ được điểm mấu chốt.
Lịng nhân của đàn bà và sức mạnh của thất phu dường như có mâu thuẫn? Thực ra con
người Hạng Vũ vốn luôn mâu thuẫn. Tính cách Hạng Vũ có mặt dũng cảm, có mặt nhu nhược;
có mặt tàn nhẫn, có mặt ơn hồ. Hạng Vũ tự xưng là Tây Sở bá vương, sự thực là rất dã man và
bá đạo. Hạng Vũ thật bạo ngược, cậy mạnh cậy khỏe, giết người không run tay. Ân Thông quận


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

thú Cối Kê khơng hề có thù ốn gì với Hạng Vũ, hai bên cịn có ý họp nhau phản Tần, nhưng nói
giết là giết. Tống Nghĩa hay nói trời nói bể kỳ thực là một người chậm hiểu, tuy có chút sai sót
nhỏ với Hạng Vũ, cũng nói giết là giết. Hồi Vương là Nghĩa đế vơ tích sự, Hạng Vũ chỉ đơng, y
không dám chỉ tây, Hạng Vũ chỉ nam, y không dám chỉ bắc, muốn dọn nhà phải dọn nhà, muốn
nhường đất phải nhường đất, không cản đường Hạng Vũ, nhưng vẫn bị Hạng Vũ sai người mưu
sát. Thê thảm nhất là hai mươi vạn quân đầu hàng của triều Tần, Hạng Vũ chỉ trong một đêm đã
tập kích chơn hết. Ơi, hai mươi vạn người! Hạng Vũ khơng nói lời nào, không hề chớp mắt, sai
người giết sạch.
Nhưng trong Hồng Môn yến, mặt đối mặt với Lưu Bang, Hạng Vũ khơng xuống tay được.
Vì giữa hai người khơng thù khơng ốn gì chăng? Ân Thơng và Hạng Vũ cũng khơng thù ốn gì.
Vì Hạng Vũ nhận ân đức của Lưu Bang? Hạng Vũ giận đến nghiến răng nghiến lợi lúc Lưu Bang
vào Hàm Dương trước. Vì khơng biết thế nào là lợi hại chăng? Phạm Tăng đã chỉ rõ: Lưu Bang
“chí chẳng nhỏ” lại có “khí độ của thiên tử”, đó chính là cái hoạ trong lịng cần phải vứt bỏ.
Khơng có khả năng giết chăng? Với võ cơng của mình Hạng Vũ bảo người phải chết canh ba thì

người có dám sống đến canh năm? Huống hồ Lưu Bang, danh nghĩa là khách mời của Hạng Vũ,
nhưng thực chất là tù binh, trong ngoài đều là người của Hạng Vũ. Ngay Phàn Khối cũng đã nói
với Lưu Bang, người ta là con dao cái thớt, chúng ta là con gà con cá. Hay khơng có cơ hội để
xuống tay? Cơ hội có nhiều như trước lúc Phàn Khối vào trướng hộ giá, không thành vấn đề.
Như lúc Phạm Tăng đưa mắt ra hiệu, Hạng Vũ vẫn khơng có phản ứng, cuối cùng thì Lưu Bang
như con ngan đã luộc chín lại bay mất. Phạm Tăng tức giận, chửi rủa: “trẻ con không thể cùng
bày mưu kế.”
Từ lâu Phạm Tăng đã hiểu: “Qn vương đơi lúc khơng đành lịng”. “Khơng đành lịng”
chính là “lịng nhân của đàn bà”.
Từ cách kể, miêu tả đầy dụng ý của tác giả đã bày ra trước mắt người đọc một góc khuất
trong Hạng Vũ. Thực ra Hạng Vũ bề ngoài rất cứng rắn nhưng trong lịng lại rất yếu đuối. Hạng
Vũ là người thích sĩ diện. Người thích sĩ diện thì nội tâm đều rất yếu đuối. Duy chỉ có người yếu
đuối thì mới thích sĩ diện. Hạng Vũ vì khơng muốn có bất kỳ một thương tổn nào, nên mới liều
mạng giữ cho được sĩ diện của mình. Ln ln nghĩ đến sĩ diện, nên Hạng Vũ mới tự vẫn ở Ô
Giang: “Dẫu cho các phụ lão Giang Đơng có thương mà phong vương cho ta, thì ta cịn mặt mũi
nào nhìn thấy họ” và đã lưu lại một câu danh ngôn về sĩ diện: “Cịn mặt mũi nào nhìn phụ lão
Giang Đơng”. Vì sao khơng cịn mặt mũi nào? Ngồi những ý nghĩ khác, cịn vì muốn được sự


MƠN Văn Học Trung Quốc

Nhóm Ơ Ơ

thương xót. Đối với một người suốt đời chỉ muốn mạnh như Hạng Vũ thì thương xót là thương
hại. Vì vậy Hạng Vũ mới nguyện chết. Tự giết mình thì sĩ diện mới cịn, lịng dạ được thanh
thản.
Tính cách, nội tâm Hạng Vũ ln có mâu thuẫn và xung đột. Nói trắng ra, Hạng Vũ là
một nhà nghệ thuật hành vi bất hạnh, như một đứa trẻ bị đẩy ra chiến trường, nơi chém giết.
Hạng Vũ không nghĩ nhiều về giết người, nhưng lại không thể không giết người, không nghĩ
nhiều về đánh trận nhưng lại khơng thể khơng đánh trận. Hạng Vũ cịn có cách lựa chọn nào

khác? Hạng Vũ khơng có cuộc sống khác, chẳng cịn cách nào có thể thể hiện được giá trị sinh
tồn, hoàn thành hành vi nghệ thuật của mình chỉ cịn biết thơng qua việc giết người mở đầu hành
trình cuộc sống, chỉ biết thơng qua chiến tranh để hồn thành cuộc sống. Vì vậy, Hạng Vũ vừa
thích giết người, vừa thích đánh trận. Nhưng đằng sau sự dũng cảm là nhu nhược, đằng sau sự
tàn nhẫn là tình thương. Hạng Vũ giết người như ngóe, nhưng trong thâm tâm lại có chút khiếp
sợ. Hạng Vũ đánh trận nào cũng thắng, nhưng trong tận đáy lòng lại có phần cảm giác thất bại.
Chính vì nội tâm khiếp sợ, nên mới liên tục giết người. Chính vì sợ thất bại, nên mới gắng sức để
thắng lợi. Chỉ có những dịng máu tươi khơng ngừng chảy mới rửa sạch được nỗi nhục nhã sinh
ra từ sự yếu đuối, và cũng chỉ có thắng lợi liên tiếp thắng lợi mới an ủi được tâm trạng đau khổ
bất an.
Vì vậy chúng ta mới thấy Hạng Vũ đã khơng cịn giữ được bình tĩnh như lúc khiêu chiến
với Lưu Bang. Khơng cần đưa nhiều người ra chiến trường, hai chúng ta đấu với nhau là xong!
Điều đó, chứng tỏ Hạng Vũ đã quá mệt mỏi, mong chiến tranh sớm kết thúc, và cũng chứng tỏ,
Hạng Vũ rất sợ thất bại, mong lần này lại chiến thắng với phương thức tiện nhất và đảm bảo
nhất. Vì vậy khi nghe tiếng hát bài ca nước Sở vang lên khắp nơi, Hạng Vũ đã không điều tra,
khơng nghiên cứu, cũng khơng nghĩ xem có phải là mưu kế của kẻ thù, mà nghĩ ngay rằng mình
đã thất bại. Bởi vì từ nơi sâu thẳm trong tâm lý Hạng Vũ đã sẵn có “mầm của thất bại”. Thậm
chí, tơi cịn tin rằng trong lịng Hạng Vũ đang vang lên một giọng nói: “Ngày này đã đến! Cuối
cùng đã kết thúc tất cả!”.
Trong lúc Hạng Vũ “thở phào” vì cuối cùng đã thất bại thì tự đáy lòng Hạng Vũ, sự uỷ mị
đằng sau sự tàn nhẫn đã trỗi dậy. Thắng thua thành bại, sống hay chết liệu cịn ý nghĩa gì? Cái
duy nhất cịn nhớ tới bây giờ là con tuấn mã và người đẹp. Đây cũng là mối chung tình duy nhất,
là nơi “trong sạch” nhất của Hạng Vũ, sau cả đời chinh chiến, giết chóc. “Chuy khơng đi chừ,
biết làm sao! Nàng Ngu hỡi, biết là làm sao?”. Thực thắm thiết, ấm áp biết bao, thực dịu dàng,


×