Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Ôn thi ĐH Chiếc thuyền ngoài xa NMC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.42 KB, 21 trang )

Cảm nhận về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu
Cảm nhận về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu
A.Mở bài:
Nguyễn Minh Châu –người mở đường tinh anh và tài năng
của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.Những tác phẩm của
ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối
rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa”viết vào những năm đầu thời kì đổi mới.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học
đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một
cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật
sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in
đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu: với
cách khắc họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và
sáng tạo.
B.Thân bài:
Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng
ý,trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế
chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương
mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu,người bạn chiến đấu năm
xưa,giờ đang là chánh án huyện,Phùng đi tới một vùng biển
từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi
sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào.Sau một
tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc
thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức
tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một
nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữ có pha
đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng
gười lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên


chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả
khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai
chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con
dơi ”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà
cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một
lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa
khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy
cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.Bức ảnh “Chiếc
thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ
trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật.
Tác phẩm không dừng lại ở đó,người nghệ sĩ Phùng bàng
hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức
ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa”:Bước ra là một
người đàn bà mệt mỏi,cam chịu và một lão đàn ông dữ
dằn,ác độc,coi việc đánh vợ như là phương cách giải tỏa
những uất ức khổ đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng
hổ,mặt đỏ gay,lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng …
lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt
lưng quật tới tấp vào người đàn bà,lão vừa đánh vừa thờ
hồng hộc,hai hàm răng nghiến ken két ”. Trong “chiếc
thuyền ngoài xa”,một sự thật còn trớ trêu,cay đắng nữa:Cha
con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một
mạch,sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão
đàn ông liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật
vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”.Người nghệ sĩ Phùng như
cay đắng nhận thấy những cái ngang trái,bi kịch trong gia
đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những
thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công
sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống
sót xa.Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp,nhưng cuộc sống

đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng
có gì là đẹp.Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ
sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ
thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao).
Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại
cuộc sống thanh bình,tốt đẹp.Nhưng hiện thực cuộc sống
vẫn còn những góc khuất.Đặc biệt là câu chuyện của người
đàn bà làng chài ở tòa án huyện.Bề ngoài,đó là một người
đàn bà nhẫn nhục,cam chịu,bị chồng thường xuyên hành
hạ,đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ,năm ngày
một trận nặng”,nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó
với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa Quý tòa bắt tội con
cũng được,phạt tù con cũng được,đừng bắt con bỏ
nó”.Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ
đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi
phong ba,để cùng làm ăn nuôi nấng phải sống cho con chứ
không phải sống cho mình”.Phùng từng là người lính chiến
đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược
nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người
đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà,Phùng
càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc
đời và con người.
Người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh
như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng
trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ
nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.Người đàn
bà ấy thật đáng chia sẻ cảm thông.Lão đàn ông trước kia là
một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một
người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống

khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính
những người thân của mình.Làm thế nào để đem lại cái phần
thiện trong người đàn ông ấy?!Trong một gia đình như gia
đình vợ chồng làng chài,những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé
Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người
nghệ sĩ như Phùng,những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm
gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?
Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo.Những tình
huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ
lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con
người , Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì
chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà
bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ
lão.Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên
một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không hề đơn giản mà phức
tạp,không dễ gì khám phá.Người nghệ sĩ phải có cái nhìn
nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.
Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật
Phùng đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo.Lời kể trở
nên khách quan,chân thật giàu sức thuyết phục.Ngôn ngữ
nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng
người:giọng lão đàn ông thô bỉ,lời người đàn bà xót xa cam
chịu…Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đã góp phần khắc sâu
hơn chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
C.Kết bài:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học
đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:Mỗi
người trong cõi đời,nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn
giản,sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một
cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật

sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in
đậm phong cách tự sự-triết lí của nhà văn Nguyễn Minh
Châu.
Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số
những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống ,dũng cảm thể hiện những góc khuất
của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta.
Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà
văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản,và nhà
văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các
tầng sâu lịch sử”.
(Sưu tầm)
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI TRONG
TRUYỆN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Mở bài:
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh
Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người
đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị
tha, đức hi sinh cao thượng mà khiến khi gấp trang sách lại ta không
thể nào quên.

Thân bài:
Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra tình huống
truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ
số phận: Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng,
một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương
mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức
tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã
phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “Trước mặt

tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in
một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn
lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh đẹp đến nỗi Phùng có cảm
giác bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào. Nhưng đằng sau chiếc
thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người
chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn
thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến
ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan
vỡ. Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề
được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi
một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi
mụ, khi thì gọi chị ta Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ
không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì Chị cũng giống như hàng
trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ
DANH.

Lần đầu chị xuất hiện: Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân
hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét
thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng
kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Chị bị chồng hành
hạ một cách tàn nhẫn: Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ
gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày
xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng
nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc
thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở
hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão
lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông
nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Kì lạ thay chị vẫn lặng im

chịu đựng, vẫn lặng yên như một sự cam chịu ”Người đàn bà với một
vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống
trả, cũng không tìm cách trốn chạy”.

Chị là ai ?

+ Trước đây Chị vốn là con của một gia đình khá giả nhưng số phận
đã không may mắn với chị. Chị mắc bệnh đậu mùa. Di chứng để lại
đó là Cái xấu, cái xấu xí thô kệch đã đeo đuổi chị như một định
mệnh, suốt từ khi còn nhỏ cho đến tận bây giờ.
+ Vì xấu xí không ai lấy nên chị trót có mang với một anh hàng chài
nhà ở giữa phá vẫn hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Thế rồi
thành vợ thành chồng. Chị xuống ở luôn dưới thuyền. Cuộc sống
mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh: “có nhiều
tháng biển động phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Gia đình
nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,
+ Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu. Lão chồng của chị từ
một anh con trai “hiền lành nhưng cục tính” đã trở thành một kẻ vũ
phu lỗ mãng. Hắn đã lấy phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế
tắc cuộc sống. Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá
là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với
lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ". “Mày” ở đây là vợ ông ta. “Chúng mày” là vợ con của ông
ta. Họ là những đồng loại rất gần gũi với ông ta. Cay đắng thay cho
số phận của chị.

+ Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm
cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Thậm chí chị còn
yêu cầu hắn “ Muốn đánh chị thì đưa chị lên bờ để đánh vì chị không

muốn để những đứa con nhìn thấy cảnh bố hành hạ mẹ”. - Vì đâu chị
lại chịu đựng và cam chịu như vậy ?

+ Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của
cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Vì
chị rất thấu hiểu lẽ đời. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh trên
biển không có người đàn ông. trong cuộc mưu sinh đầy cam go:
thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề
“Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong
ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên
dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi
con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được!”.

+ Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng: chị thừa nhận chồng chị
trước kia là anh con trai hiền lành nhưng cục tính, chẳng qua vì đói
nghèo, thất học, túng quẫn lão chồng mới sinh ra vậy. Đây chính là
sự hiểu đời, sự thông cảm và vị tha của chị. Chị không hề oán trách
chồng mà ngược lại chị rất cảm thông và vị tha. Chị là người có đức
hi sinh cao thượng.
Không chỉ vậy, nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình
thương con vô bờ bến của chị. Tình mẫu tử của chị đã vút lên trên
cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa . Vì
thương con chị đã luôn miệng xin quý tòa đừng bắt con bỏ nó. Chị
hiểu như thế nào là nỗi đau của những trẻ thơ sống trong cảnh bố
mẹ ly dị. Chị không muốn nhìn cảnh các con thấy bộ mẹ chia tay.
Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão đàn ông vũ phu mang chị lên
bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Vì thương con mà chỉ đưa thằng

Phác lên bờ để sống. Vì thương con mà chị đã đau đớn nhìn cảnh
thằng Phác vì thương mẹ mà đã chống trả lại bố đẻ của mình. Trong
đau khổ chị vẫn luôn chắt lọc những niềm vui ví như khi nhìn các con
được ăn no, được nô đùa hay có lúc chị và chồng chị cũng có những
giây phút đầm ấm, hòa thuận. Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản
năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương mê muội, đáng
thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình
thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm
trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là
bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu
lòng vị tha và đức hi sinh.

+ Phùng và Đẩu là hai cán bộ
cách mạng vừa bước ra khỏi
chiến tranh. Mới đầu các anh căng
thẳng, các anh không hiểu nhưng
sau đó, qua câu chuyện của
người đàn bà ở tòa án, Phùng và
Đẩu đã vỡ lẽ. Qua câu chuyện
của người đàn bà, họ càng thấy
rõ: Không thể dễ dãi, đơn giản
trong việc nhìn nhận mọi sự vật,
hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến
diện với con người và cuộc sống mà phải có cái nhìn đa diện, nhiều
chiều, phổ quát thì mới hiểu được những sắc cạnh của cuộc đời. Vì
“con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. Đây cũng là nét mới
trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công
thần của triều đại văn học mới".

Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp đối lập (giữa hình thức và tâm hồn),

đặt nhân vật trong tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu
giúp người đọc khám phá “….ẩn dấu” trong “bể sâu tâm hồn” người
đàn bà hàng chài.
Mối Quan Hệ Giữa Nghệ Thuật Và Đời Thường Trong
Tác Phẩm 'Chiếc Thuyền Ngoài Xa" Của Nguyễn
Minh Chaau CẢM NHẬN VĂN CHƯƠNG


Từ những năm 60 của thế kỷ trước, công chúng đã biết
đến Nguyễn Minh Châu qua những tiểu thuyết như: Cửa
sông, Dấu chân người lính cùng khá nhiều truyện ngắn
được đánh giá là những thành công của văn xuôi chống
Mĩ. Hồi ấy, chắc không ít người từng nghĩ rằng: ông như
con tằm đã nhả hết tơ trong thời chiến nên chuyển sang
thời bình tất yếu sẽ "giảm phong độ".
Nhưng những tác phẩm được viết từ sau 1975 và nhất là
từ thời kỳ đổi mới của Nguyễn Minh Châu đã chứng tỏ ở
ông vẫn còn một vốn viết rất sung mãn. Ông đã đem đến
cho văn đàn sau chiến tranh những khám mới về con
người, những suy tư về thế sự và đó hình như mới
đúng là Nguyễn Minh Châu. Không phải vô cớ mà
Nguyên Ngọc coi ông là "người mở đường tinh anh và
tài năng" thời kỳ đổi mới. Chỉ cần viện dẫn truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa cũng đủ thấy Nguyên Ngọc
không quá lời.
Khi được đưa vào chương trình ngữ văn 12 mới, thay
thế cho Mảnh trăng cuối rừng, nhiều giáo viên văn tỏ ra
nuối tiếc thiên diễm tình lãng mạn giữa bom đạn Trường
Sơn. Cùng với tâm lí ấy là sự cảm thấy khó khăn khi
thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của Chiếc thuyền

ngoài xa. Tác phẩm này quả thực không dễ dàng tiếp
nhận vì nó là tiếng nói đa thanh, đa nghĩa; nó đặt ra rất
những vấn đề bức xúc, phức tạp của thế sự nhưng lại
giải quyết trong vỏn vẹn khuôn khổ một truyện ngắn. Để
hiểu tác phẩm này, có thể bắt đầu từ tình huống truyện.
Đó là tình huống của những nghịch lí.
Nghịch lí thứ nhất là sự kiện nhân vật Phùng - nghệ sĩ
nhiếp ảnh được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một
bức ảnh về cảnh biển buổi sáng có sương mù để bổ
sung xuất bản bộ lịch. Phùng đến vùng biển từng là bãi
chiến trường cũ thời chống Mĩ. Sau một tuần lễ kiên
nhẫn chờ đợi, người nghệ sĩ đã gặp "một cảnh "đắt"
trời cho". Đó là tuyệt tác của tạo hóa đẹp như "một bức
tranh mực tàu của một danh họa thời cổ". Bằng con mắt
nhạy cảm nhà nghề, Phùng phát hiện ra một sự hài hòa,
thơ mộng đến tuyệt diệu của cảnh biển buổi sáng. Trên
cái phông nền mờ nhòe của sương sớm có pha chút
màu hồng dịu của bình minh, có những bóng người trên
thuyền im phắc được nhìn qua những mắt lưới. Phát
hiện ra vẻ đẹp "thực đơn giản và toàn bích" đó, tâm tư
của Phùng không chỉ tràn đầy những rung cảm thẩm mĩ
mà còn như được thanh lọc để trở nên trong sáng hơn.
Trong lúc tâm hồn thăng hoa bởi cái đẹp, anh nghiệm
thấy đúng như ai đó đã phát hiện ra "bản thân cái đẹp
chính là đạo đức". Vì đứng trước thế giới ấy - thế giới
mà Phùng gọi là chân lí của sự toàn thiện, toàn mĩ, anh
đã cảm nhận rất rõ "cái khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn". Như để làm dịu đi cơn khát, người nghệ sĩ đã
dùng chiếc máy ảnh bấm liên thanh hết một phần tư
cuốn phim. Nhưng cũng trớ trêu thay, chính trong lúc

ấy, Phùng lại bàng hoàng chứng kiến cảnh tượng không
có một chút "thơ" nào. Từ trong cảnh biển đẹp như mơ
ấy lại xuất hiện những con người xấu xí. Đó là người
đàn bà cao lớn với những đường nét thô kệch, rỗ mặt,
dáng vẻ mệt mỏi, khuôn mặt tái ngắt. Đó là hình ảnh
người đàn ông với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, chân
đi chữ bát, con mắt đầy vẻ độc dữ. Nếu trước đó, cảnh
chiếc thuyền ngoài xa yên tĩnh, thơ mộng thì cảnh bạo
hành trong gia đình người dân chài lại vô cùng tàn
nhẫn, dã man. Hóa ra người đàn bà lặng lẽ theo chồng
lên bờ là chỉ để hứng chịu những trận đòn vô lí. Chứng
kiến cảnh ấy Phùng đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Đầu tiên là sự bất ngờ có pha chút thất vọng vì ngoại
hình của cặp vợ chồng dân chài khiến người nghệ sĩ
đang thăng hoa trong cảm xúc bỗng mất hứng. Bất ngờ
tiếp theo là người đàn ông không hiểu vì lí do gì, chẳng
nói, chẳng rằng, dùng chiếc thắt lưng "quật tới tấp vào
người đàn bà". Lão ta đánh vợ như một sự giải tỏa, để
trút bỏ "cơn giận như lửa cháy". Người đàn bà bị chồng
đánh đập tàn nhẫn nhưng không hề kêu khóc, van xin,
cũng không hề phản kháng hay bỏ chạy. Cái thân hình
vập vạp ấy như đã quen với việc bị đánh, trở thành nơi
để hứng chịu những trận đòn kỳ quặc của chồng.
Nhưng có một chi tiết chen ngang khiến chị ta không
cầm nổi nước mắt - sự xuất hiện của thằng Phác - đứa
con trai mà chị ta hết mực yêu thương. Việc thằng Phác
chứng kiến mẹ bị hành hạ, xông vào bênh vực mẹ đã
khiến người đàn bà vừa trước đó tỏ ra vô cảm, trơ lì với
những trận đòn bỗng "chắp tay vái lấy vái để" thằng bé
rồi lại "ôm trầm lấy nó" mà khóc tức tưởi. Toàn bộ cảnh

bạo hành gia đình diễn ra trong một thời khắc ngắn ngủi
"như trong một câu chuyện cổ đầy quái đản". Nó tác
động không nhỏ đến tâm lí hoài nghi của người nghệ
sĩ.
Nghịch lí thứ hai là chuyện Phùng lại chứng kiến cảnh
lão đàn ông đánh vợ và cảnh cô chị gái cố đoạt lấy con
dao găm trong tay thằng Phác khi nó định dùng để bảo
vệ mẹ. Bản chất của người lính năm xưa trỗi dậy, Phùng
không nhẫn nhịn được nên đã can thiệp và bị thương.
Anh được đưa đến trạm y tế của tòa án huyện. Ở đây,
Phùng có người bạn đồng ngũ là Đẩu - vị chánh án tòa
án được coi là "bao công của phố huyện". Với sự vô tư,
trách nhiệm của một nhà chấp pháp, Đẩu đã mời người
đàn bà đến vì mục đích giải thoát cho chị ta. Nhưng cả
Đẩu và Phùng đều không ngờ rằng, người đàn bà từ
chối một cách quyết liệt thiện chí giúp đỡ của Phùng và
Đẩu. Theo lời chị ta thì "quý tòa bắt tội con cũng được,
phạt tù con cũng được" nhưng "đừng bắt con bỏ nó"!
Điều gì làm nên cách ứng xử ("lấy cam chịu làm đầu")
của người đàn bà qua những nghịch lí ấy?
Người đàn bà cam chịu anh chồng vũ phu thô bạo bởi
chị ta hiểu chồng và ít nhiều có sự biết ơn. Biết ơn bởi
lúc nhỏ chị ta đã là một "đứa con gái xấu, lại rỗ mặt",
"trong phố không ai lấy" và vì thế việc gã đàn ông làng
chài trở thành chồng đối với chị cũng là một sự hàm ơn.
Trong những lời kể về cuộc đời dằng dặc những nhọc
nhằn của mình, người đàn bà không hề tỏ ra oán chồng.
Chị ta hiểu chồng mình bản chất không phải là kẻ độc
ác. Trước kia anh ta "hiền lành lắm" và không bao giờ
đánh đập vợ. Chỉ khi đối mặt với sự nghèo túng, phải

gánh cả một gia đình đông con lão ta mới tha hóa. Nói
về chồng mình, người đàn bà tỏ ra rất vị tha. Chị ta cho
rằng, việc người đàn ông đánh vợ không phải lỗi ở hắn
mà là ở mình. Nghĩa là do "đẻ nhiều quá" mà cuộc sống
chật vật, căng thẳng khiến "cứ lúc nào thấy khổ quá là
lão xách tôi ra đánh".
Lí do thứ hai khiến người đàn bà cam chịu là tình
thương với con cái. Vì thương con mà chị ta tìm mọi
cách nhằm vẫn chấp nhận để cho chồng giải tỏa bằng
đánh đập mà vẫn không làm tổn thương đến con. Bản
tính người mẹ đã tạo cho người đàn bà một sự chịu
đựng khủng khiếp. Đọc chiếc thuyền ngoài xa, lắm lúc
tôi cứ băn khoăn một lẽ, chẳng biết cái đức hi sinh,
nhẫn nhịn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam -
Cái phẩm chất mà từ ca dao, đến ông Tú rồi biết bao áng
thơ văn hiện đại hết lời ca ngợi ấy là ưu hay nhược
điểm? Là đáng tự hào hay không nên quá tự hào? Vì
không muốn để con biết là mình bị đánh nên chị ta chỉ
dám cầu xin một "ân huệ" - xin chồng đưa mình lên bờ
để đánh. Trong những đứa con đông đúc của mình, chị
ta thương nhất thằng Phác nên đã gửi nó lên theo ông
ngoại trên đất liền. Gửi thằng bé lên đó không chỉ vì
tránh cho tâm hồn non nớt của nó bị tổn thương mà
quan trọng hơn là để nó khỏi làm điều gì dại dột với bố.
Thế nên, khi để thằng Phác chứng kiến mình bị đánh
đập, khi thằng Phác bất chấp tình cha con để bênh vực
mẹ, người đàn bà đã không thể chịu đựng nổi nỗi đau.
Tình thương con đã biến chị từ chỗ tỏ ra không có cảm
giác đau đớn thân xác đã trở nên yếu đuối đến thảm
hại.

Cũng vì thương con mà chị ta không muốn cảnh gia
đình tan vỡ. Phản ứng của người đàn bà khiến tôi nhớ
lại như in một ấn tượng từ tuổi thơ. Tôi đã từng chứng
kiến những con gà mái chống lại diều quạ để bào vệ đàn
con. Bình thường chúng rất lành và nhút nhát nhưng hễ
phải bảo vệ đàn con là chúng rất dữ dằn. Tôi đã từng
thấy cảnh con quạ chỉ dám bay vòng bên trên chứ
không dám sà xuống đám gà con đang quây quanh chân
mẹ vì con gà mái mắt cứ long lên chỉ chực lăn xả vào
con quạ nếu nó đáp xuống. Đó chính là sức mạnh ở bản
năng người mẹ mà bình thường nó không thể có được
để chống lại loài chim ăn thịt? Phản ứng của người đàn
bà ở tòa án huyện phải chăng cũng được miêu tả theo
quy luật ấy? Khi mới đặt chân đến tòa án, mặc dù không
phải là lần đầu nhưng chị vẫn không khỏi sợ sệt, lúng
túng khác hẳn lúc bị chồng đánh giữa bãi xe tăng hỏng.
Để tỏ ra là chỗ dựa tin cẩn cho người người mẹ đáng
thương, chánh án Đẩu đã bày tỏ sự sẵn lòng giúp đỡ để
giải thoát cho chị ta, trừng trị lão đàn ông vũ phu. Trong
suy nghĩ đơn giản của Đẩu và Phùng, lẽ ra chị ta phải
cảm thấy nhẹ người vì đã cởi bỏ được một gánh nặng
vẫn phải đeo đẳng bấy lâu. Nhưng người đàn bà lại trở
nên sợ hãi. Chị ta "chắp tay lại vái lia lịa", "con lạy quý
tòa", chị ta chấp nhận "Quý tòa bắt tội con cũng được,
phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó ".
Nói thế nghĩa là chị ta chấp nhận những hình phạt nặng
nề của pháp luật, thà là kẻ có tội trước pháp luật, bị bắt
tội, bị đi tù còn hơn là phải li dị. Khi Phùng xuất hiện, chị
ta nghĩ rằng, tòa án bố trí sẵn nhân chứng để buộc mình
phải li dị thì người đàn bà - như con gà mái bảo vệ đàn

con - bấy giờ mới trút bỏ cái vẻ bề ngoài tỏ ra u mê,
nhút nhát. Sự biến đổi này bắt đầu bằng thái độ gai góc
hẳn lên. Từ lối xưng hô với Đẩu "con - quý tòa", chị ta
bỗng chuyển sang lối xưng hô "chị - các chú". "Vị bao
công phố huyện" cùng người bạn đồng ngũ của mình
lúc đầu có ý định giảng giải cho chị ta lí do chính đáng
để li dị nhưng rồi chính chị ta lại dạy cho Đẩu và Phùng
một bài học về cách nhìn cuộc sống. Đẩu và Phùng
không hiểu nổi những bí ẩn về người đàn bà này nhưng
chị ta lại tỏ ra hiểu và thông cảm khi cho rằng "lòng các
chú tốt" nhưng "các chú đâu có hiểu được cái việc của
các người làm ăn lam lũ, khó nhọc". Trái với vẻ nông
nổi thiếu thực tế của Phùng và Đẩu, chị hiểu được vai
trò của người đàn ông trên thuyền để chống chọi với
sóng gió, "dù hắn man rợ, tàn bạo".
Đúng là cái đức hi sinh từ ngàn đời của người phụ nữ
Việt đã di truyền cho người đàn bà này sức chịu đựng
khủng khiếp và cùng với sự chịu đựng ấy là một nỗi khổ
ải kỳ cục. Người chồng cũng khổ nhưng còn được giải
tỏa bằng việc đánh vợ. Thằng Phác cũng khổ nhưng
còn có chỗ che chở là ông ngoại. Người đàn bà dân
chài này khổ còn vì không biết giải tỏa bằng cách nào,
không thể và không muốn chia sẻ cùng ai. Khổ đến
mức, chỉ được chồng chiếu cố cho một ân huệ là được
lên bờ chịu đòn mà cũng như một cái ơn. Tất nhiên,
không phải chị ta không hạnh phúc nhưng đó là hạnh
phúc tội nghiệp - hạnh phúc khi đôi lúc nhìn lũ con
được ăn no. Như vậy, người đàn bà vùng biển này cũng
như cô Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng, đều là kiểu
"hạt ngọc ẩn" mà Nguyễn Minh Châu cả đời tìm kiếm.

Có điều, cô Nguyệt trong Mảnh Trăng cuối rừng là mẫu
hình lí tưởng chỉ để mơ ước, để ngắm nhìn chứ không
có thực còn người đàn bà vùng biển trong tác phẩm này
thì hiện lên từ những lấm lem bụi đời. Chị ta là "hạt
ngọc ẩn" bởi lẽ đằng sau cái vẻ ngỡ như thô vụng,
thậm chí u tối, người đàn bà này không phải không có
những suy nghĩ sắc sảo, sâu xa. Và "hạt ngọc ẩn" ấy chỉ
thực sự hiển lộ khi buộc phải bộc lộ mình.
Hé mở dần bản chất của người đàn bà vùng biến, thiên
truyện đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội bức
thiết. Ý nghĩa ấy trước hết được gửi vào Đầu. Anh là
chánh án tòa án thông hiểu luật pháp lại sẵn có lòng hào
hiệp cứu người nhưng lại thiếu hiểu biết thực tế. Trong
suy nghĩ đơn giản của Đẩu chỉ cần giúp người đàn bà li
hôn, trừng phạt lão đàn ông vũ phu kia là sẽ đem lại lẽ
công bằng. Nhưng nếu giả sử buộc phải li hôn, người
đàn bà sẽ sống như thế nào với sóng gió biển cả và
nhất là phải nhìn cảnh lũ con bị chia sẻ "có bố thì không
có mẹ, có mẹ thì không có bố". Bài học đặt ra từ mâu
thuẫn này là: muốn cải tạo cuộc sống phải căn cứ vào
thực tế cuộc sống làm cho cuộc sống "dễ thở" hơn chứ
không phải chỉ đem sách vở mà áp đặt vào cuộc sống.
Nếu chỉ biết đem sách vở mà áp vào cuộc sống thì
chánh án Đẩu có khác nào một thứ Rôbốt, có khi vô tình
trở thành kẻ hành động phản nhân văn mà chính mình
không ý thức được. Người đàn ông đánh vợ, về lí là có
tội nhưng nếu xét từ hoàn cảnh sống thì chính anh ta
cũng là nạn nhân chứ không chỉ là phạm nhân. Không
phải ngẫu nhiên mà tác giả sáng tạo chi tiết Phùng
chứng kiến gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng

của lính Ngụy, ở nơi có chiếc xe tăng hỏng của Mĩ Ngụy.
Phùng và Đẩu đều là những người lính trở về thời bình
với vinh quang chiến thắng. Ở tác phẩm này, có lẽ
Nguyễn Minh Châu muốn kí thác một điều, không phải
hễ cứ đánh đuổi được ngoại xâm, thống nhất đất nước
là có thể đem lại hạnh phúc cho con người. Tàn dư của
xã hội cũ còn đó trong nạn bạo hành gia đình khiến
những người lính Trường Sơn năm xưa vẫn chưa yên
lòng với vinh quang của quá khứ. Câu chuyện để lại một
kết thúc bỏ lửng. Chẳng biết sau này, cuộc sống của gia
đình làng chài ấy sẽ tiếp diễn ra sao, liệu rằng cái bãi xe
tăng hỏng của Mĩ Ngụy có còn là nơi diễn ra nạn bạo
hành? Liệu cái thắt lưng da của lính Nguy có còn tác
quái với gia đình làng chài ấy không? Và thằng Phác -
cái thằng bé giống bố như lột ấy rồi đây sẽ trở thành
con người như thế nào? Nếu cuộc sống này còn tiếp
diễn thì ai dám chắc nó sẽ không trở thành kẻ tha hóa
điên rồ như cha mình. Kết thúc bỏ lửng ấy không chỉ
tránh được công thức mà quan trọng hơn, nó nhấn sâu
hơn bức thông điệp khắc khoải đau đáu về số phận con
người: cuộc chiến đấu với đói nghèo, lạc hậu còn diễn
ra dai dẳng lâu dài. Nó cũng khốc liệt chẳng kém gì cuộc
chiến chống ngoại xâm vừa qua đi.
Thiên truyện còn đặt ra những vấn đề có ý nghĩa nghệ
thuật với văn nghệ sĩ sau chiến tranh. Ý nghĩa ấy chủ
yếu được gửi vào nhân vật Phùng. Sự phát hiện những
nghịch lí cuộc sống giúp Phùng nhận thức rõ hơn bản
chất mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Chiếc
thuyền trong sương sớm đẹp vì nó là viễn ảnh, được
nhìn từ xa. Nó có thể thanh lọc tâm hồn người nghệ sĩ

nhưng vẫn vô nghĩa với những con người lam lũ ở phía
sau vẻ đẹp ấy, những con người cơ cực bởi gánh nặng
mưu sinh. Bức ảnh của Phùng được trưởng phòng
khen ngợi, có mặt trong nhiều gia đình "sành nghệ
thuật" nhưng chính tác giả của nó lại không bằng lòng
vì đó là hình ảnh chỉ để ngắm nhìn, đó còn là sản phẩm
của cái nhìn dễ dãi về cuộc sống, chưa vươn tới được
bản chất cuộc đời, chưa cất lên được tiếng nói của
những con người lam lũ nhọc nhằn. Sự phiến diện ấy
bắt nguồn từ chính Phùng. Anh thiết tha với cái đẹp, với
nghệ thuật và cũng sẵn lòng hào hiệp của người lính
Trường Sơn nhưng cũng như Đẩu, Phùng còn thiếu
hiểu biết thực tế thành ra vẫn hời hợt trong cách nhìn
đời, lúng túng không giải thích được những nghịch lí
phức tạp của cuộc sống. Sự phiến diện ấy còn bởi
Phùng chỉ sáng tạo theo đơn đặt hàng. Nghĩa là theo sự
giao việc của trưởng phòng - mà như thế không thể gọi
là sáng tạo. Bản thân từ sáng tạo đã bao hàm một cái gì
của riêng mình, từ chính mình, là chống lại công thức
Trong hoàn cảnh thời đại, khi cái nhìn giản đơn về con
người và cuộc sống còn ngự trị trong sáng tác văn học
thì tác phẩm này đặt ra một vấn đề liên quan đến sự
sống còn của nghệ thuật Việt Nam sau chiến tranh. Đó
là cách nhìn con người và cuộc đời. Người nghệ sĩ -
theo nhà văn - phải nhìn cuộc đời bằng đôi mắt toàn
diện, phải thấy được những phức tạp của cuộc sống
chứ không thể nhìn cuộc sống một cách dễ dãi, xuôi
chiều. Đó không chỉ là tâm nguyện của riêng Nguyễn
Minh Châu mà là của cả một lớp văn nghệ sĩ thời kỳ Đổi
mới.

Còn nhớ hồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao
viết truyện ngắn Đôi mắt phê phán lối sống ích kỉ, suy
nghĩ lạc lõng của văn sĩ Hoàng, ca ngợi Độ, tức là ca
ngợi mẫu hình văn nghệ sĩ từ bỏ cái cao siêu, cá nhân
trong nghệ thuật, tự nguyện dùng nghệ thuật để tuyên
truyền, vận động Cách mạng góp phần giải phóng dân
tộc. Khi dùng nghệ thuật để tuyên truyền thì tất yếu
nghệ thuật phải tìm đến lối thể hiện đơn giản (vì lực
lượng cách mạng chính là quần chúng nhân dân trong
những năm 40 -50 của thế kỷ trước). Tư tưởng ấy ngỡ
mâu thuẫn mà lại thống nhất với Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu. Thống nhất ở chỗ Nam Cao đặt
ra vấn đề "đôi mắt" của người nghệ sĩ trong thời chiến
còn Nguyễn Minh Châu thì trăn trở về cách nhìn con
người và cuộc đời trong thời bình. Thời chiến, mọi vấn
đề thuộc về cá nhân phải tạm gạt bỏ, mọi nỗi đau phải
nén lại để lấy tinh thần đánh giặc nhưng thời bình văn
chương không thể không quan tâm đến số phận cá
nhân, không thể không thâm nhập đến tận cùng những
góc tối, góc khuất của con người và cuộc đời. Bởi có
như vậy mới khơi dậy được ở con người những tình
cảm nhân văn và mới làm nên sự sống của nghệ thuật.
Tác giả Nguyễn Thư
(Trường PTTH Chuyên Bắc Giang)
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI
TRONG TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NHÀ
VĂN NMC
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn
Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho
người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với

tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh cao thượng mà khiến khi
gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra
tình huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà
nhân vật dần hé lộ số phận:
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng,
một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau
thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để
chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng
phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có
một không hai(dẫn chứng) . Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp
như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng
vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù,
người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng (dẫn chứng). Phùng từ sung
sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến
lòng anh tan vỡ.
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không
hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC
đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng
chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta Không phải nhà văn
"nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà
là vì Chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển
nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ DANH. Dường như cuộc sống
chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều
kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ.
- Ngoại hình: trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi
ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn
ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho
diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

- Số phận: Bất hạnh
Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị,
xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận
đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các
con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ
+ Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ
+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi
thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả,
lam lũ, bấp bênh
+ Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,
+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại
xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời
lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống
trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương
nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu
đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Số phận đầy bi kịch được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia
sẻ.
- Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: chị coi việc mình bị đánh đó như 1
phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận,
không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì :
"Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng
đừng bắt con bỏ nó".
Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không
có người đàn ông.
+ Yêu thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ không thể
sống cho mình")

Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương
con vô bờ bến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông
làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi
dạy các con " Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con,
ko thể sống cho mình như trên đất được".
Tình thương vô bờ đối với những đứa con Phân tích ty của chị
với thằng Phác, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì
thương mẹ mà hận bố,
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ
cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa .
+ Người đàn bà vị tha
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được
những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ( " nhìn con được ăn no, có
khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận")
+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ
đời
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn")
Vì hoàn cảnh: trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa
biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu
hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà
bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy
nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.
Đắng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và
một tấm lòng yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà
hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến,
vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu
hiểu các lẽ đời.
Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao

phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi
sinh.
Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không
thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng
của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với
con người và cuộc sống. Đây cũng ;à nét mới trong văn xuôi sau
năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần của triều đại
văn học mới".

×