Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.08 KB, 62 trang )

MỤC LỤC Trang 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu đề tài 9
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài 9
6. Đóng góp của đề tài 9
7. Kết cấu của đề tài 10
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ NHÂN
TỐ NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 11
1.1 Trình bày quan niệm triết học Mác – Lênin về sản xuất và những nhân
tố của quá trình sản xuất vật chất 11
1.1.1 Khái niệm sản xuất, sản xuất vật chất 11
1.1.2 Những nhân tố của quá trình sản xuất vật chất 14
1.2 Kết cấu và vị trí của các yếu tố trong lực lượng sản xuất 15
1.3 Vai trò của nhân tố người trong việc phát triển lực lượng sản
xuất 22
1.3.1 Quan niệm của triết học Mác – Lênin về con người và nhân tố người
trong lực lượng sản xuất 22
1.3.2 Con người – nhân tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất 23
Tiểu tiết chương 1 27
CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI – ĐIỀU KIỆN
QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở
HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY 28
2.1 Vài nét về huyện Tiên phước 28
2.2 Thực trạng lực lượng sản xuất ở huyện Tiên phước 32
2.2.1 Thực trạng nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên
Phước 33
2.2.2 Thực trạng tư liệu sản xuất trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên
Phước 41


2.3 Giải pháp cho phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở
huyện Tiên Phước 44
2.3.1 Cơ sở lí luận của giải pháp 44
2.3.2 Phương hướng phát triển nhân tố con người ở huyện Tiên Phước
tỉnh Quảng Nam hiện nay 44
2.3.3 Giải pháp cho phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở
huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam 52
Tiểu tiết chương 2 58
KẾT LUẬN 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
- -
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Con người với nguồn tiềm năng trí tuệ vô tận, là nguồn lực quyết
định, là mục tiêu là động lực của sự phát triển. Trong bất kì thời đại nào con
người vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và quan trọng nhất của xã hội,
giữ vị trí trung tâm trong sự phát triển kinh tế. Ngay trong những buổi đầu
tiên của xã hội loài người, thời kỳ nguyên thủy, con người sống thành bầy
đàn trong các thị tộc, bộ lạc, lúc đó trình độ nhận thức còn thấp họ tồn tại
bằng những hoạt động thường ngày như săn bắt, hái lượm nhưng chính bản
thân họ ngay lúc đó đã là chủ thể duy nhất của hoạt động này. Với việc
khám phá ra những công cụ, phương tiện lao động mới cùng với sự phát
triển ngày càng cao của bộ óc con người. Họ đã không ngừng cải biến tự
nhiên, làm chủ tự nhiên để phát triển mặt xã hội của mình. Ngày nay, nhờ
các tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, các máy móc thiết bị và công
nghệ hiện đại ra đời đã giải phóng phần nào sức lao động của con người, cả
lao động chân tay và lao động trí óc. Nhờ đó năng suất lao động tăng lên
gấp nhiều lần. Mặc dù vậy, những thành tựu của khoa học đó không thể xóa
nhòa vai trò của con người cũng như thay thế vai trò của con người trong

quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Máy móc dù hoàn thiện đến đâu, dù
thông minh như thế nào đi chăng nữa thì cũng chỉ là khâu trung gian cho
hoạt động của con người, do con người sản xuất ra và chịu sự điều khiển bởi
con người. Vì vậy, trong bất kì thời đại nào nhân tố con người vẫn sẽ là
nhân tố quyết định quan trọng nhất và là chủ thể duy nhất của mọi hoạt
động trong xã hội.
Phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất không phải là một
vấn đề mới, tuy nhiên, việc nghiên cứu nhân tố người trong lực lượng sản
xuất là một vấn đề mang tính thời sự phải diễn ra thường xuyên trong các
giai đoạn lịch sử, ở tất cả các quốc gia. Con người vừa là chủ thể của lịch sử
- -
2
vừa là sản phẩm của lịch sử do đó việc phát triển con người gắn liền với
việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đối với đất nước ta hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập
quốc tế và kinh tế tri thức thì nhân tố người cần được chú trọng và phát triển
toàn diện trên tất cả các mặt. Có như vậy thì mới có thể đảm bảo cho sự
phát triển cả mặt chất cũng như mặt lượng của xã hội. Trong những năm
gần đây, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đảng và
Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư phát triển lực lượng sản xuất và đầu tư phát
triển con người thu được nhiều thắng lợi đáng kể. Tuy nhiên, thực trạng cho
thấy nền kinh tế nước ta phát triển không đồng đều giữa các vùng miền, các
khu vực mà một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do nhân
tố người trong lực lượng sản xuất chưa được quan tâm và phát triển đúng
mức cho từng địa phương cụ thể, đặc biệt là ở những vùng miền núi có nền
kinh tế kém phát triển. Nếu tình trạng này kéo dài thì đây thực sự là một trở
ngại lớn đối với nước ta trong thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Như vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra là tiến hành nghiên cứu ở những khu
vực có nền kinh tế kém phát triển để không những tạo ra sự phát triển nơi
đây mà còn tạo ra động lực phát triển chung cho nền kinh tế của nước ta.

Với tinh thần là người con của quê hương Tiên Phước, em thấy rằng,
Tiên Phước là một huyện miền núi có nền kinh tế kém phát triển, đời sống
người dân nơi đây còn rất khó khăn, do vậy em đã hình thành nên đề tài:
“Phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước, tỉnh
Quảng Nam hiện nay”. Đây là việc làm cần thiết đối với huyện Tiên Phước.
Trên cơ sở đó có thể nắm bắt được một cách đầy đủ tình hình sử dụng và
bồi dưỡng phát huy nhân tố con người trong những năm qua của huyện,
đồng thời qua đó có thể chỉ ra những điểm hợp lý cũng như những hạn chế,
bất cập từ đó đề xuất phương hướng, góp phần vào việc phát triển con người
Tiên Phước một cách hiệu quả trong sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay.
- -
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Con người là chủ thể của mọi sự sáng tạo, là nguồn gốc của mọi của
cải vật chất. Vì vậy liên quan đến đề tài này có rất nhiều tài liệu nghiên cứu.
Gần đây nhất có các công trình nghiên cứu của các tác giả như:
Tác giả Nguyễn Thị Trâm, với công trình nghiên cứu nghiên cứu của
mình. “Vấn đề nguồn lực con người trong thời kỳ đổi mới” in trong tác
phẩm, “Đổi mới ở Việt Nam tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm”, nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội -2004. Tác giả đã đề cập đến vai trò quyết
định của nhân tố người trong lực lượng sản xuất. Tác giả khẳng định vai trò
quan trọng của nguồn lực con người trên lập trường của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Tuy nhiên, vai trò của nhân tố người chỉ được phát huy một cách cao
nhất khi kết hợp với nguồn lực và nhân tố khác. Cũng trong tác phẩm này,
tác giả nêu lên một số bất cập về nguồn lực con người hiện nay ở Việt Nam.
Đó là sự bất cập về yêu cầu của thể lực đối với con người Việt Nam, với
những hạn chế về trí lực. Bất cập trong cơ cấu đào tạo. Trên cơ sở đó tác giả
đã đưa ra một số giải pháp để phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay như: Giải pháp về kinh tế xã hội, về giáo dục trong đó chú
trọng đến giáo dục đại học.

Cũng bàn về nhân tố người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả
Nguyễn Văn Tài với công trình nghiên cứu của mình “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và phát huy nhân tố con người”, Tạp chí triết học, số
2(153), tháng 4 năm 2004. Tác giả đề cập con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người và vấn đề phát huy vai trò nhân
tố con người là cơ sở khoa học cho đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Theo tác giả, phát huy nhân tố con người trước hết đó là quan
tâm đến lợi ích của con người, thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao của con
- -
4
người, coi con người vừa là mục đích vừa là động lực của sự phát triển của
cách mạng Việt Nam. Thứ hai, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ
luật, pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, đó là phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, phải thực sự coi giáo dục là sự nghiệp quốc sách hàng đầu
để phát triển toàn diện con người Việt Nam.
Tác giả Trần Nhân trong tác phẩm “Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi
mới”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội - 2004, với phần “Phát triển
nguồn lực con người - nhân tố quyết định thắng lợi của đổi mới và phát
triển”. Tác giả đã coi nhân tố con người là nhân tố quyết định cho sự phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề cập đến
vấn đề đào tạo và sử dụng đội ngũ nhân tài của đất nước hiện nay. Trong sự
phát triển phải đặt lực lượng sản xuất lên hàng đầu, trong việc phát triển lực
lượng sản xuất thì việc phát triển khoa học và công nghệ lên vị trí hàng đầu.
Còn trong phát triển khoa học và công nghệ và chuyển giao công nghệ
thành lực lượng sản xuất thì vấn đề phát triền đội ngũ nhân tài phải giữ vị trí
ưu tiên. Ngày nay, nói tới khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp là nói tới tầm quan trọng đặt biệt của đội ngũ nhân tài trong
việc phát triển lực lượng sản xuất.

Hay tác giả Trần Văn Bính, “Xây dựng chiến lược con người - một
đòi hỏi cấp thiết”, trong tác phẩm “Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội - 2001. Tác giả đã chỉ ra tính chất quyết định đối với các chế độ
xã hội khác nhau là phụ thuộc vào chiến lược phát triển nhân tố con người.
Đầu tư cho con người là đầu tư không những cho sự phát triển trước mắt mà
đó là chiến lược lâu dài. Với xã hội Việt Nam hiện nay, đầu tư cho con
người có nghĩa là đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật. Chỉ có thể
đẩy mạnh phát triển kinh tế, vượt qua đói nghèo, biết đầu tư phát triển một
nền giáo dục hiện đại, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.
- -
5
Tác giả Tống Tất Đường, nghiên cứu về “Phát triển nhân tố người
trong lực lượng sản xuất ở tỉnh Nghệ An hiện nay”, tác giả cho rằng: Nhân
tố người trong lực lượng sản xuất là một nhân tố mang tính quyết định đến
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay. Nhân tố con
người được đầu tư phát triển đúng mức là động lực cơ bản quyết định đến
tất cả các lĩnh vực xã hội khác, bởi vì con người là lực lượng sản xuất số
một. Không có nhân tố con người thì quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội không được thực hiện. Nhân tố con người là quyết định đối với tư liệu
sản xuất, song không thể coi thường các nhân tố khác, bởi vì, nếu không có
các nhân tố khác thì nhân tố con người có phát triển đến mức độ nào đi
chăng nữa thì không thể phát huy đươc vai trò và tác dụng trong sản xuất xã
hội. Hơn nữa, nhân tố người trong lực lượng sản xuất có quan hệ với các
nhân tố khác một cách biện chứng. Đầu tư phát triển lực lượng sản xuất là
đầu tư cho cả hệ thống các yếu tố cấu thành trong đó nhân tố người giữ vai
trò chủ đạo. Bởi nhân tố con người là lực lượng sáng tạo đối với các nhân tố
khác, là động lực của sự tiến bộ đối với các yếu tố còn lại của lực lượng sản
xuất.
Tác giả Hồ Văn Dũng cũng khai thác “Nhân tố người trong lực lượng

sản xuất và việc phát huy nhân tố đó ở nước ta hiện nay”. Qua công trình
của mình, tác giả đã trình bày vấn đề con người trong nội dung của lực
lượng sản xuất, phân tích đặc điểm của người lao động Việt Nam và đề xuất
một số giải pháp để phát huy nhân tố này.
Tác giả Nguyễn Văn Thiện với công trình “Góp phần bàn thêm về
nhân tố người”, Tạp chí nghiên cứu trao đổi. Tác giả đã đi sâu vào nghiên
cứu nhân tố người, sự phân biệt với các khái niệm khác khi chỉ về con
người. Nhân tố người theo tác giả là nói đến bản chất xã hội của con người,
là hạt nhân cốt lõi đặc trưng cho mặt chất lượng của nguồn lực con người,
nhấn mạnh vai trò chủ thể, tích cực, năng động, sáng tạo của con người.
Đưa ra khẳng định về tính quyết định của nhân tố con người đối với sự phát
- -
6
triển của xã hội nói chung, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nước ta hiện nay nói riêng.
Tác giả Lê Quang Hoan với luận án tiến sỹ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và vấn đề phát huy nhân tố người trong đổi mới hiện nay”.
Tác giả đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh khi bàn về vấn đề con
người và nhân tố con người. Tác giả nêu lên vấn đề “Phát huy nhân tố con
người có thể hiểu là phát huy nguồn lực con người, khi con người trở thành
một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra động lực phát triển của
một quá trình xã hội”. Tác giả đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân
tố con người đối với sự nghiệp cách mạng để đưa ra cách thức phát triển và
phát huy nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay.
Đối với huyện Tiên phước chỉ có những công trình nghiên cứu về lực
lượng sản xuất một cách chung chung, hầu như không có công trình nghiên
cứu về nhân tố người trong lực lượng sản xuất. Các công trình nghiên cứu
trên tuy đa dạng phong phú nhưng không có công trình nghiên cứu nào một
cách có hệ thống và trùng lặp với đề tài này. Xuất phát từ thực tiễn đó và
với tâm huyết về mảnh đất nơi đây của chính bản thân mình, em đã chọn đề

tài “Phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước
tỉnh Quảng Nam hiện nay”. Qua quá trình nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần
làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc phát triển nhân tố người trong lực
lượng sản xuất ở huyện Tiên phước, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội nơi
đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục đích:
Tìm hiểu thưc trạng việc sử dụng và phát triển nhân tố người trong
lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước, qua đó đưa ra một số giải pháp
cũng như những bài học để phát huy nhân tố con người một cách hiệu quả
vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở huyện Tiên Phước hiện nay.
Nhiệm vụ:
- -
7
Để thực hiện được mục đích đó, đề tài phải làm rõ những nhiệm vụ
sau:
- Trình bày quan niệm của triết học Mác - Lênin về nhân tố người
trong lực lượng sản xuất.
- Phân tích thực trạng lực lượng sản xuất hiện nay.
- Tìm ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy cho sự phát triển
nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu đề tài:
Cơ sở lý luận:
Việc nghiên cứu và trình bày khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng
với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các vấn đề về con
người, vấn đề về lực lượng sản xuất. Khóa luận có kế thừa, tiếp thu những
thành quả của công trình nghiên cứu trước như các bài viết, các tư liệu điều
tra trước đây để khái quát lại và đưa ra ý kiến của mình.
Phương pháp nghiên cứu:

Khóa luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích - tổng hợp,
logic - lịch sử, so sánh, thống kê…khóa luận đặc biệt chú ý đến quan điểm
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu cũng như trong trình
bày đề tài này.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Khóa luận chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản về sử dụng và phát
triển con người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước tỉnh Quảng
Nam, qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần vào việc phát huy
nhân tố con người trong lực lượng sản xuất.
6. Đóng góp của đề tài:
Về lý luận:
- -
8
Góp phần cũng cố nhận thức lý luận về học thuyết hình thái kinh tế
xã hội, về vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất, đặc biệt vai trò
của nhân tố người trong lực lượng sản xuất.
Về thực tiễn:
Những giải pháp để phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất
ở huyện Tiên Phước có thể áp dụng cho những vùng có nền kinh tế kém
phát triển, có điều kiện tương tự như huyện Tiên Phước.
Đề tài này có thể để tham khảo và cung cấp thông tin cho huyện Tiên
Phước trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài được kết cấu gồm 2 chương 6 tiết sau:
Chương 1: Quan niệm của triết học Mác - Lênin về nhân tố người
trong lực lượng sản xuất.
1.1 Trình bày quan niệm triết học Mác - Lênin về sản xuất và
những nhân tố của quá trình sản xuất vật chất.

1.2 Kết cấu và vị trí của các yếu tố trong lực lượng sản xuất.
1.3 Vai trò của nhân tố người trong lực lượng sản xuất.
Chương 2: Phát triển nhân tố người - điều kiện quyết định sự phát
triển lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
2.1 Một vài nét về huyện Tiên Phước.
2.2 Thực trạng lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước.
2.3 Giải pháp cho phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất
ở huyện Tiên Phước tỉnh, Quảng Nam hiện nay.
- -
9
CHƯƠNG 1
QUAN NIỆM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ NHÂN TỐ
NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1 Trình bày quan niệm triết học Mác - Lênin về sản xuất và
những nhân tố của quá trình sản xuất vật chất.
1.1.1 Khái niệm sản xuất, sản xuất vật chất.
Khái niệm sản xuất: “Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người
và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất
tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của
sự tồn tại và phát triển của xã hội” [2, 287]. Theo Ăngghen “Điểm khác biệt
căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ, loài vật may mắn
lắm chỉ biết hái lượm, trong khi con người lại sản xuất” [17, 241].
Khái niệm sản xuất vật chất: “Sản xuất vật chất là quá trình con người
sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất
của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và
phát triển của con người” [2, 287].
Vậy sản xuất là khái niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm sản xuất
vật chất, sản xuất vật chất chỉ là một mặt của sản xuất mà thôi.
Con người cũng giống như con vật luôn tồn tại trong quan hệ với môi

trường. Song quan hệ sống giữa con người và môi trường luôn có bản tính
hoạt động, làm cho con người trong quan hệ này cũng thường xuyên rơi vào
tình trạng mất cân bằng với môi trường. Khi rơi vào tình trạng này thì một
cách tất yếu, ở con người nảy sinh ra những đòi hỏi về các điều kiện và
phương tiện sinh tồn. Những đòi hỏi như thế của con người chính là nhu cầu
- -
10
mà trước hết là nhu cầu tồn tại và về sau còn nảy sinh ra cả nhu cầu phát
triển. Đến lược nhu cầu sau khi xuất hiện lại thúc đẩy con người hoạt động
để thỏa mãn nhằm bảo đảm cho họ tồn tại và phát triển.
Nhu cầu của con người càng ngày càng tăng trong khi đó môi trường
tự nhiên thì nghèo đi, những sản vật trong tự nhiên không còn đáp ứng được
nhu cầu ngày càng tăng của con người. Đến lúc này, nhu cầu của con người
chỉ được thỏa mãn khi con người tác động tích cực bằng lao động vào giới
tự nhiên. Bằng lao động và thông qua lao động con người sản xuất ra đời
sống xã hội của mình mà trước hết là đời sống vật chất - một đời sống do
chính con người tạo ra cho mình, khác về chất so với đời sống chỉ biết sử
dụng những gì có sẵn trong tự nhiên của họ.
Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người. C.Mác đi đến xác
định tiền đề đầu tiền của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề
của mọi lịch sử đó là “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm
ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết phải có thức ăn, thức uống,
nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là
việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất.
Trong Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, Mác chứng minh rằng con
người ngay từ đầu là một thực thể tự nhiên và điều đó có nghĩa là hoạt động
sống của con người được thực thể hóa theo hai nghĩa: Thứ nhất, nó được
phú cho sức mạnh tự nhiên, đến chừng mực nào đó thì những vật thể tự
nhiên bên ngoài được nó đồng hóa, chiếm lĩnh đến chừng mực ấy nếu
không có chúng thì con người không thể tồn tại được; Thứ hai, bởi vì những

sức mạnh chủ quan của con người mang tính vật thể, cho nên tác động của
chúng trong hoạt động người cũng là những tác động mang tính vật thể.
Trong tác phẩm này Mác dùng từ “vật thể” để chỉ “vật chất”.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát
triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời
sống xã hội. Tất cả các quan hệ về Nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ
- -
11
thuật, tôn giáo…đều hình thành biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất. Khái
quát lịch sử phát triển của nhân loại, C.Mác đã kết luận “Việc sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính mỗi giai đoạn phát triển
kinh tế nhất định của mỗi dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó
mà người ta phát triển các thể chế Nhà nước, các quan điểm pháp quyền,
nghệ thuật và thậm chí những quan niệm tôn giáo của con người ta”. [14,
500].
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến
đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình.
Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật
chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết
định phát triển xã hội từ thấp đến cao.
Sản xuất vật chất được tiến hành trong những điều kiện tất yếu như
môi trường tự nhiên và dân số (bao gồm sự tăng dân số và mật độ dân cư).
Môi trường tự nhiên bao gồm những điều kiện địa lý tự nhiên (đất
đai, rừng núi, sông ngòi, khí hậu…), của cải trong tự nhiên (tài nguyên,
khoáng sản, thú rừng, hải sản…) và những năng lượng tự nhiên (sức gió,
sức nước, ánh sáng mặt trời…). Tất cả những cái đó đều ảnh hưởng quan
trọng đến đời sống con người và tiến bộ xã hội, song mức độ ảnh hưởng của
chúng đến đâu thì tùy thuộc vào trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của con
người từng giai đoạn lịch sử, tùy thuộc vào tính chất của chế độ xã hội.
Trong giai đoạn xã hội phát triển còn thấp, khi chưa có kỹ thuật, công

nghiệp cơ giới, nếu môi trường tự nhiên, trước hết là hoàn cảnh địa lí của
một nước mà phong phú có nhiều tài nguyên thì con người ở đấy tốn ít thời
gian và sức lực trong việc tạo ra tư liệu sinh hoạt và tư liệu lao động cần
thiết cho đời sống và sản xuất của nước đó. Ngược lại, những nơi có hoàn
cảnh địa lí không thuận lợi, tài nguyên nghèo nàn thì khả năng và điều kiện
phát triển sản xuất có những hạn chế và khó khăn nhất định, song con người
với tư cách là chủ thể tích cực, sáng tạo, với trình độ khoa học kỹ thuật ngày
- -
12
càng phát triển thì con người có khả năng khắc phục những khó khăn của
môi trường, tạo điều kiện sản xuất với tốc độ nhanh.
Cùng với môi trường tự nhiên, dân số cũng là điều kiện cần thiết của
sản xuất vật chất. Mỗi một quốc gia dân tộc phải có một dân số nhất định để
có được số lượng người lao động cần thiết cho việc tổ chức sản xuất. Dân
số, tốc độ phát triển dân số của một nước ít nhiều có ảnh hưởng đến sinh
hoạt vật chất, đến sự tồn tại và phát triển của nước đó.
Nhìn chung sản xuất vật chất có những vai trò quan trọng sau:
- Sản xuất vật chất làm cho con người thay đổi tư thế dáng đi, làm cho
tay chân thuần thục.
- Sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
con người.
- Sản xuất vật chất gắn các cá thể người lại với nhau thành xã hội.
- Sản xuất vật chất là điều kiện thuận lợi cho con người hiểu thế giới
khách quan sâu hơn, thông tin về nó nhiều hơn, vì vậy bộ não của con người
phát triển.
- Sản xuất vật chất là điều kiện thuận lợi cho con người suy ngẫm. cải
tiến công cụ sản xuất, thay đổi cách thức quản lí nhằm nâng cao năng suất
lao động. Vì vậy, sản xuất vật chất là nhân tố quan trọng nhất, quyết định
nhất đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
1.1.2 Những nhân tố của quá trình sản xuất vật chất

Để tiến hành được một quá trình sản xuất vật chất, về cơ bản cần có
ba yêu tố: Hoạt động vật chất có mục đích của con người; Những tư liệu vật
chất cho chính hoạt động ấy và những đối tượng vật chất khách quan mà
hoạt động này hướng vào nhằm thay đổi chúng.
Trong sản xuất vật chất, con người phải sử dụng các năng lực vốn có
của mình, trước hết là những sức mạnh vật chất để tác động vào đối tượng
vật chất làm thay đổi tính chất, cấu trúc, hình thái của chúng. Nghĩa là, con
người phải tiến hành các quá trình trao đổi vật chất với những đối tượng
- -
13
khách quan. Những sức mạnh vật chất vốn có của mình mà con người dùng
để trao đổi với đối tượng khách quan được Mác gọi là “Năng lực thuộc về
bản chất” - cái mà ngay từ đầu giới tự nhiên đã phú cho con người và về sau
ngày càng phát triển thêm nhờ vào lao động.
Trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị và Tư bản, Mác chỉ
rõ năng lực đó của con người là sức lao động. Vấn đề là sức lao động của
con người được sử dụng và phát huy như thế nào và ở mức độ nào trong sản
xuất vật chất, thì điều đó phụ thuộc vào mục đích nhu cầu, năng lực và trình
độ của họ, phụ thuộc vào những đối tượng, tư liệu và phương tiện hoạt động
của họ, phụ thuộc vào cách thức tổ chức quá trình sản xuất, phụ thuộc vào
những điều kiện khách quan diễn ra trong quá trình sản xuất. Ngoài ra, khi
đi vào quá trình sản xuất vật chất, con người không thể không đưa vào quá
trình sản xuất các sức mạnh của mình như kinh nghiệm và kỹ năng lao
động, sở thích và thị hiếu, tình cảm và niềm tin. Những sức mạnh này không
giữ vai trò quyết định, song chúng luôn ảnh hưởng theo những mức độ khác
nhau đến quá trình sản xuất vật chất. Về sau lao động của con người ngày
càng mở rộng và nâng cao lên thì những lực lượng đó sẽ thâm nhập sâu vào
sản xuất vật chất và vai trò của chúng sẽ tăng lên.
Hoạt động sản xuất vật chất có những đối tượng vật chất. Thông qua
lao động những đối tượng này sẽ thay đổi tính chất, kết cấu trạng thái và sẽ

trở thành sản phẩm. Những đối tượng mà con người dựa vào để cải biến
thành sản phẩm có hai nhóm, một nhóm là những đối tượng “thuần tự
nhiên”, nhóm kia là những đối tượng do con người tạo ra bằng chính lao
động của mình. Nhóm thứ hai ngày càng tăng lên và chiếm đa số, nhóm thứ
nhất ngày càng giảm đi và dần trở thành thiểu số.
1.2 Kết cấu và vị trí của các yếu tố trong lực lượng sản xuất.
Khái niệm lực lượng sản xuất: “Lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực
lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Nó bao gồm người lao động với một thể lực, tri thức, kĩ năng lao động nhất
- -
14
định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản
xuất, sức lao động của co người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó thể
hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất” [ 4, 391].
Kết cấu lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là hệ thống bao gồm các yếu tố có quan hệ tác
động qua lại với nhau gồm người lao động và tư liệu sản xuất. Bản chất của
lực lượng sản xuất được thể hiện ở các đặc trưng sau:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất là nhân tố khách quan, là nền tảng vật
chất của toàn bộ lịch sử loài người. Lực lượng sản xuất được kế thừa và
phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi một thế hệ khi mới
sinh ra thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất nhất định, không tùy
thuộc vào sự lựa chọn của mình vì “lực lượng sản xuất là kết quả của năng
lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực này bị quyết định bởi
những điều kiện trong đó người ta sống, bởi những lực lượng sản xuất đã
đạt được, bởi hình thái xã hội đã có trước họ, không phải do họ tạo ra mà do
thế hệ trước tạo ra” [12, 430].

Thứ hai, trong mỗi nền sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất thể hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và hoạt động của mỗi yếu tố trong
lực lượng sản xuất đều có tư cách là sự thực hiện trực tiếp hay dán tiếp một
phương diện nào đó của mối quan hệ này. Vì vậy, tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất nói lên tính chất và trình độ chinh phục và làm chủ giới
tự nhiên của con người.
Thứ ba, lực lượng sản xuất mang tính năng động, ít bền vững, dễ thay
đổi và thường xuyên phát triển. Sự phát triển của các nền sản xuất vật chất
là cơ sở cho sự phát triển của các chế độ xã hội trong lịch sử, và xét đến
cùng là do lực lượng sản xuất quyết định.
- -
15
Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thì người lao động giữ
vị trí hàng đầu. V.I Lênin viết “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân là người lao động” [12, 430]. Chính con người chế
tạo ra tư liệu lao động, luôn luôn cải biến và sử dụng nó để tiến hành sản
xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu nhưng nếu không được
con người sử dụng thì không thể phát sinh tác dụng, không thể trở thành lực
lượng sản xuất có ích cho xã hội. Do đó “Lực lượng sản xuất là lực lượng
của bản thân con người và trình độ của lực lượng sản xuất cũng chính là
trình độ phát triển của chính bản thân con người, là sự phát triển năng lực
làm chủ tự nhiên xã hội và bản thân con người qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau” [5, 84]. Trình độ đó không chỉ tồn tại trong bản thân con người
(trí tuệ, tinh thần, kĩ năng) dưới dạng tiềm năng mà còn được vật hóa biểu
hiện ra ở các công cụ, phương tiện sản xuất và nhất là trong hoạt động sản
xuất đạt được mục đích thực tiễn của con người. Do đó, cần làm chủ được
những sức mạnh tự nhiên, xã hội và bản thân thì trình độ của lực lượng sản
xuất của con người càng cao. Nghĩa là hiệu quả của sản xuất của con người
ngày càng cao.
Qua các thời đại khác nhau, trình độ phát triển của người lao động

được phản ánh thông qua sự phát triển của quá trình nhận thức và cải tạo
giới tự nhiên của con người thông qua sự phát triển của công cụ lao động.
Trong thời đại ngày nay, phát triển nguồn lao động đóng vai trò quan trọng
đối với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta. Sau hơn hai mươi
năm đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực Việt Nam có
sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đất nước hiện nay có đội
ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Tính đến hết năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên tổng số 85
triệu dân, đứng thứ hai trên khu vực và đứng thứ mười ba trên thế giới về
quy mô dân số. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ
về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng (trên 50% số dân
- -
16
trong độ tuổi từ 15 - 60 (độ tuổi lao động), trong đó 45 % trong tổng số lao
động dưới độ tuổi 54). Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế xã
hội.
Về chất lượng, việc đặt mục tiêu xây dựng và phát triển một nền giáo
dục hướng về cộng đồng với sự tham gia đóng vai trò chủ đạo và quản lý
chặt chẽ của Nhà nước đã góp phần nâng cao mặt bằng dân trí cho mọi tầng
lớp nhân dân. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trong khu vực có tỷ
lệ người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao. Lực lượng
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đã tăng từ 7,6 % (1986) lên gần
30 % (2007). Người lao động Việt Nam có những phẩm chất tốt đẹp như
thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc
biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi
thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội
nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên so với yêu cầu của
quá trình phát triển nền kinh tế đất nước trong bối cảnh có sự hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng, thì trên thực tế chất lượng nguồn nhân lực nước ta
hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế.

Sau hơn ba mươi năm tiến hành công nhiệp hóa, vẫn còn khoảng
78 % lao động cả nước thuộc lĩnh vực nông nghiệp, và các nguồn lao động
phần lớn chưa qua đào tạo nghề. Tỷ lệ học sinh, tỷ lệ các trường trung học,
đại học, tỷ lệ tốt nghiệp đại học, tỷ lệ các học vị tiến sỹ trên triệu dân của
nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu
người tương đương, nhưng chất lượng có nhiều vấn đề. Điều tra của Bộ giáo
dục và đào tạo cho thấy, cả nước có tới 63 % sinh viên ra trường không có
việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại mà có
nhiều người không làm đúng ngành mình học…Theo điều tra diễn đàn kinh
tế thế giới (WEF) năm 2005, nguồn nhân lực Việt Nam được xếp hạng
53/59 quốc gia được khảo sát và mất cân đối nghiêm trọng. Ở Việt Nam cứ
- -
17
1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công
nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này ở thế giới là 1,4 và 10.
Theo một hướng điều tra khác cũng cho thấy mức độ sẵn sàng tham
gia vào sân chơi thế giới của người lao động nước ta còn hạn chế. Kết quả
cuộc thăm dò ý kiến trên báo điện tử VnExpress mới đây cho thấy, chỉ 8,6
% độc giả trả lời rằng họ hiểu rất rõ về tổ chức thương mại thế giới (WTO),
và tiến trình gia nhập của Việt Nam, 28,5 % nói hiểu tương đối, 41,2 % nói
hiểu lơ mơ, số còn lại không hiểu và thậm chí không quan tâm đến vấn đề
này. Trước thực trạng về nguồn nhân lực Việt Nam và yêu cầu hội nhập
quốc tế, một yêu cầu cấp bách đặt ra là phải có những giải pháp cụ thể cho
việc phát triển nguồn nhân lực Việt Nam cả về số lượng và chất lượng nhằm
thúc đẩy kinh tế xã hội của đất nước một cách vững chắc.
Tư liệu sản xuất:
Tư liệu sản xuất là những cái dùng trong sản xuất, điều kiện vật chất
của sản xuất [7, 13]. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng
lao động.
Tư liệu lao động là một hay nhiều hệ thống vật thể làm khâu trung

gian truyền tải sức lao động từ con người lên đối tượng lao động nhằm biến
đổi đối tượng lao động thành sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người.
Trong tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và các phương tiện khác hỗ
trợ cho con người khi sử dụng công cụ cũng như khi tiến hành lao động nói
chung. Trong tư liệu lao động thì công cụ lao động là thành phần quan trọng
nhất, bởi đây là nơi tập trung nhất sức mạnh của tư liệu lao động, cái truyền
tải sức lao động trực tiếp nhất đến với đối tượng. Vì vậy, trong quá trình sản
xuất con người không ngừng đúc kết kinh nghiệm của mình cải tiến công cụ
lao động để nâng cao năng suất và tạo ra nhiều thành phẩm cho xã hội.
Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản
xuất. Sự phát triển của công cụ lao động là nguyên nhân sâu xa làm biến đổi
xã hội. C.Mác cho rằng: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh
- -
18
chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công
nghiệp” [16, 187]. Hay trong Tư bản, Mác viết: “Những thời đại kinh tế
khác nhau không phải là ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng
sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [13, 388].
Đối tượng lao động “Là những vật bị lao động của con người tác
động trong quá trình lao động sản xuất” [7, 13]. Đối tượng lao động hay còn
được gọi là toàn bộ những vùng của tự nhiên được con người đưa vào sản
xuất. Nó trước hết là những cái có sẵn trong tự nhiên, loại này con người chỉ
cần dùng lao động tác động vào để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Những
cái không có sẵn buộc con người phải tìm mọi cách để tạo ra nó như: Sợi
tổng hợp, vật liệu xây dựng, các hóa chất, loại này thông qua lao động sáng
tạo của con người để cải biến ít nhiều phục vụ cho sản xuất. Xã hội ngày
càng phát triển nhu cầu của con người ngày càng tăng điều này tỉ lệ nghịch
với những sản vật có sẵn trong tự nhiên ngày càng trở nên cạn kiệt. Khi mà
môi trường tự nhiên mất cân bằng buộc con người phải tìm mọi cách chế tạo
ra những điều kiện nhân tạo để phục vụ cho quá trình sản xuất. Vậy, đối

tượng lao động rất phong phú, thông qua đối tượng lao động ta có thể biết
được sức sáng tạo của con người. Sự phong phú của đối tượng lao động là
điều kiện thuận lợi để con người tác động, khai thác tạo ra những vật chất
mới cho xã hội loài người.
Mọi đối tượng lao động đều bắt nguồn từ tự nhiên nhưng không phải
mọi yếu của tự nhiên đều là đối tượng lao động. Bởi vì chỉ những yếu tố tự
nhiên nào mà do con người tác động trong quá trình sản xuất nhằm biến đổi
nó phù hợp với mục đích của mình mới gọi là đối tượng lao động. Để đảm
bảo cho quá trình sản xuất vật chất của xã hội loài người diễn ra thường
xuyên và ổn định thì con người cần phải nâng cao ý thức bảo vệ môi trường,
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay vấn đề mất cân bằng hệ sinh thái
đang là vấn đề nóng bỏng, vì thế con người không nên chỉ thấy những
- -
19
nguồn lợi trước mắt mà khai thác bừa bãi môi trường tự nhiên trong khi
thiệt hại về sau thì vô cùng khủng khiếp.
Điều đó có ý nghĩa là khoa học đã phát triển tới mức trở thành điểm
xuất phát trực tiếp cho những biến đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất và tạo
ra những ngành sản xuất mới đồ sộ. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện
đại đã kết hợp với khoa học và kỹ thuật thành một thể thống nhất không
tách biệt được. Khoa học lại đề ra hàng loạt phương tiện kỹ thuật và quá
trình công nghệ mới về chất lượng trong sản xuất. Trước kia khoa học chủ
yếu là tổng kết từ thực nghiệm và sản xuất trực tiếp. Nhưng ngày nay, việc
nghiên cứu khoa học dẫn đến tạo ra kỹ thuật sản xuất, ngược lại muốn giải
quyết những vấn đề kỹ thuật sản xuất đòi hỏi phải nghiên cứu cơ bản từ
khoa học. Tri thức khoa học được vật chất hóa, được kết tinh vào mọi nhân
tố của lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học bao hàm trực tiếp trong hoạt
động của người lao động sản xuất dần dần chiếm địa vị chỉ đạo thay cho
thói quen và kinh nghiệm thông thường. Người lao động sản xuất tiến lên
vận dụng tri thức khoa học để điều khiển, kiểm tra quá trình sản xuất, đề

xuất sáng kiến, sử dụng hợp lý thiết bị, nguyên liệu, năng lượng và để tổ
chức hoạt động của mình một cách hiệu quả nhất. Chức năng của con người
trong quá trình sản xuất đã và sẽ có những biến đổi to lớn, con người không
còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là sáng
tạo điều khiển quá trình đó. “Khoa học không còn đứng ở bên ngoài sản
xuất mà chuyển thành một mắt khâu bên trong, thống nhất chặt chẽ với
những mắt khâu khác trong lực lượng sản xuất” [1, 28]. Chúng ta sẽ thấy
điều này ở sự thâm nhập mạnh mẽ của khoa học vào lĩnh vực kỹ thuật thế
kỷ XX. Sử dụng những kết quả của vật lý, hóa học, người ta đã cải tiến kỹ
thuật thăm dò và khai thác dầu khí, cung cấp nguồn năng lượng cho công
nghiệp hiện đại. Thành tựu của vật lý nguyên tử, vật lý hạt nhân đã được sử
dụng để tạo ra kỹ thuật khai thác nguồn năng lượng nguyên tử, chế tạo bom
A, bom H. Kết quả nghiên cứu nhiệt động học, cơ học lượng tử, vật lý chất
- -
20
rắn được sử dụng và chế tạo động cơ phản lực, làm thay đổi căn bản kỹ
thuật vận tải như chế tạo máy bay hiện đại, các vệ tinh và tàu vũ trụ Ứng
dụng sinh học vào kỹ thuật tạo giống, chế tạo phân bón, thuốc trừ sâu. Ứng
dụng sinh học vào phát hiện ra bệnh hiểm nghèo và điều trị nó. Vậy sự thâm
nhập ngày càng sâu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã làm cho lực
lượng sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Như vậy, các yếu tố trong lực lượng sản xuất đều có vị trí và vai trò
nhất định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó người lao
động là lực lượng sản xuất hàng đầu. Cùng với người lao động, công cụ lao
động đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Ngày nay, với sự thâm
nhập ngày càng sâu rộng của tri thức khoa học vào trong sản xuất tạo cho
lực lượng sản xuất có bước phát triển mới về chất so với trước đây.
1.3 Vai trò của nhân tố người trong việc phát triển của lực lượng
sản xuất.

1.3.1 Quan niệm của triết học Mác- Lênin về con người và nhân tố
người trong lực lượng sản xuất.
Có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề con người và nhân tố người
trong lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ được hiểu đúng đắn và
khoa học trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi con người không
được hiểu theo một cách chung chung, trừu tượng.
Quan niệm của triết học Mác - Lênin về con người: Chủ nghĩa Mác -
Lênin cho rằng con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội
đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người trong quá trình tồn tại
không chỉ tác động vào tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên
bản chất con người, làm cho con người khác với con vật “Bản chất của con
người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội” [15, 11].
- -
21
Quan niệm về nhân tố người trong lực lượng sản xuất: Nhân tố người
trong lực lượng sản xuất hay nguồn lực con người là “Tổng thể những nhân
tố thuộc về chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã
hội tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng,
phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trong hoạt
động xã hội” [3, 271-272].
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhân tố người,
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh đã khẳng định
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa” [20, 310]. Trong đời sống xã hội, thực tiễn vận dụng sáng tạo và
khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của
ban chấp hành Trung ương khóa VII đề ra nghị quyết và thông qua nghị
quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là “Động
lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa

xã hội”. Đó là con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Bởi lẽ người lao động nước
ta đóng vai trò ngày càng quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và trong sự phát triển nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, dưới sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng của
người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng khẳng định “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của công cuộc đổi mới đất nước”. Thực tiễn đã chứng minh xã hội ta hiện
nay tình trạng mất hài hòa về sự phát triển của bản thân mỗi cá nhân. Cá
nhân phải được phát triển toàn diện và hài hòa về đạo đức, trí tuệ, thể lực là
mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội, nhưng mục tiêu cơ
bản và quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết
định lịch sử xã hội và lịch sử của chính mình.
1.3.2 Con người – nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất.
- -
22
Như đã trình bày trong phần kết cấu và vị trí của các nhân tố trong
lực lượng sản xuất, ở đó đã khẳng định lực lượng sản xuất hàng đầu là
người lao động. Mọi thành tố cấu thành trong lực lượng sản xuất đều có vị
trí và vai trò nhất định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu thiếu
một trong những nhân tố đó thì lực lượng sản xuất sẽ không được duy trì và
phát triển. Xét trong mối quan hệ giữa nhân tố con người với những thành
tố cấu thành lực lượng sản xuất ta thấy:
Nhân tố người trong mối quan hệ với tư liệu sản xuất thì: Con người
với tư cách là chủ thể, các yếu tố cấu thành tư liệu sản xuất là khách thể. Ở
đây con người đóng vai trò quyết định, bởi vì: Con người là chủ thể sáng tạo
ra mọi giá trị của cải vật chất, tinh thần của xã hội, trong đó có sự sáng tạo
ra những tư liệu sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học
kỹ thuật, sự ra đời của những máy móc thiết bị hiện đại. Trước tình hình đó

đã không có ít luận điểm xuyên tạc vai trò của con người, họ cho rằng con
người đã mất chỗ đứng, thay vào đó là khoa học kỹ thuật. Quả thật khoa học
có phát triển, nhưng không vì thế mà làm lu mờ đi vai trò của con người
trong quá trình sản xuất vật chất cho xã hội. Nói như vậy, không phải ở đây
ta bác bỏ sự tác động trở lại của tư liệu sản xuất đối với nhân tố con người.
Con người là nhân tố sáng tạo, quyết định song tư liệu sản xuất đóng vai trò
chi phối, trong một số trường hợp còn gây ảnh hưởng lớn đến nhân tố con
người. Con người không thể tự tìm ra hay trực tiếp biến các sản phẩm của tự
nhiên thành sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống ngày càng cao của
mình được. Trong Tư bản Mác chỉ ra rằng “Một hàng hóa bất kỳ luôn có sự
kết tinh bên trong nó sức lao động của con người, nhưng nếu mổ xẻ hàng
hóa này ra thì ta không thể nhìn thấy một gam hay một tinh thể sức lao động
nào ở trong đó. Cho nên, sức lao động không tự hoạt động để đến với đối
tượng được nếu thiếu tư liệu lao động” [25, 44 ].
Ngày nay, việc nhìn nhận vai trò của con người và tư liệu sản xuất
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò vô cùng quan trọng,
- -
23
do đó cần phải thường xuyên theo dõi và đánh giá một cách khách quan vai
trò của hai yếu tố này. Có như vậy mới đảm bảo phát huy một cách tốt nhất
sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội.
Xét nhân tố người trong mối quan hệ với đối tượng lao động: Trong
mối quan hệ này, một bên là đối tượng khai thác, một bên là chủ thể của sự
khai thác.
Môi trường tự nhiên bản thân nó rất phong phú, tuy nhiên tự bản thân
nó không thể sáng tạo ra các giá trị mới đáp ứng cho cuộc sống xã hội của
con người. Chỉ có người lao động với tiềm năng trí tuệ của mình đã tìm mọi
cách tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên để xây dựng cho mình cuộc
sống đầy đủ hơn. Như Mác đã nói: Giới tự nhiên không chế tạo ra bất kỳ
máy móc nào, không chế tạo ra xe hơi, đường sắt, điện báo, máy dệt chúng

là sản phẩm lao động của con người. Vậy, trong mối quan hệ này, nhân tố
con người đóng vai trò quan trọng và quyết định nhất, là chủ thể của sự sáng
tạo ra những giá trị vật chất. Con người đã vượt lên trên tất cả để khẳng
định vị thế cao nhất của mình trong mối quan hệ với tự nhiên. Mức độ chinh
phục giới tự nhiên trong sản xuất của con người chứng tỏ con người đã
quyết định đến tính chất và mức độ phát triển của các thành tố trong lực
lượng sản xuất.
Với lao động, con người không những có được sự đáp ứng về mặt vật
chất cho các nhu cầu của con người mà còn giúp con người giải phóng một
phần nào đó sự lệ thuộc của con người vào tự nhiên. Bằng chứng là con
người đã chế tạo ra những máy móc trang thiết bị hiện đại để nghiên cứu
môi trường tự nhiên, từ đó có thể tránh được những tác động xấu mà môi
trường tự nhiên gây ra. Con người có thể dự báo được hướng đi của bão, sự
tăng lên của mức nước lũ và những diễn biến phức tạp của nó Từ những
dự báo đó con người sẽ tìm mọi cách để phòng tránh được thiệt hại lớn nhất
về sức người cũng như sức của.
- -
24
Trong các nguồn lực có thể khai thác được như: Nguồn lực tự nhiên;
nguồn lực khoa học công nghệ; nguồn vốn, thì nguồn lực con người là quyết
định nhất. Bởi lẽ, những nguồn lực khác chỉ có thể được khai thác hiệu quả
khi nguồn lực con người được phát huy. Chúng ta biết rằng, điều kiện tự
nhiên, khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò quan trọng trong một quốc gia,
song những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể “
bất động”, chúng chỉ trở thành nhân tố “khởi động” và phát huy tác dụng
khi kết hợp với nguồn lực con người. Nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt,
ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, ngoại trừ con
người, những thành tố khác trong lực lượng sản xuất ngày càng lỗi thời, tất
yếu phải thay thế cho phù hợp với quá trình sản xuất, chỉ có bản thân con

người mới làm được điều đó. Con người cải tiến công cụ lao động, con
người làm biến đổi giới tự nhiên. Như đã trình bày ở trước, công cụ lao
động là yếu tố động nhất trong tư liệu sản xuất, nó thường xuyên thay đổi,
sự thay đổi thường xuyên đó thể hiện vai trò của nhân tố người. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất xét một cách sâu xa thì đó là sự phát triển của
con người. Vì vậy, “Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử
thể hiện trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch
sử đó” [4, 394].
Vai trò quyết định của nhân tố người trong lực lượng sản xuất còn
được thể hiện ở khả năng sáng tạo vô tận của con người. Với quá trình lao
động ngày càng phức tạp, đòi hỏi ngày càng cao thì sự đáp ứng của con
người ngày một đầy đủ hơn. Con người dường như chưa bao giờ biết mệt
mỏi, luôn lao động, sáng tạo ra những cái mới. Nếu ở thời điểm này, trong
lĩnh vực sản xuất con người chưa nhận thức một cách đầy đủ nên trong quá
trình sản xuất cho ra năng suất thấp, con người không dừng lại ở đó, họ luôn
tìm mọi cách để cải tiến quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Con người chưa bao giờ chịu bất lực bởi khả năng vô tận của chính bản thân
- -
25

×