MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá là một trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện cùng
với sự xuất hiện của xã hội loài người. Nói cách khác, văn hóa phát triển
cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người và ngày càng được bổ
sung thêm những nội dung mới. Văn hoá là biểu hiện trí tuệ nhân loại, nó
được bồi đắp theo quy trình từ thấp lên cao, theo tính quy luật đi từ chưa
nhiều đến nhiều hơn, từ chưa phong phú đến phong phú hơn, ít sâu sắc đến
sâu sắc hơn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Văn hoá là nền tảng sinh hoạt tinh thần của con người trong xã hội,
phản ánh trình độ phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Đất nước ta
bên cạnh những đổi mới, chuyển biến về kinh tế, xã hội, cơ cấu quản lý thì
những vấn đề văn hoá mới nảy sinh từ quá trình đô thị hoá, trình độ dân trí
nâng cao cũng làm cho nhu cầu hưởng thụ văn hoá gia tăng về quy mô chất
lượng.
Nam Đông là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế những
đặc điểm về địa lí tạo cho huyện sự khác biệt so với những nơi khác. Toàn
bộ các xã đồng bào dân tộc trước đây đều nằm trên vùng núi cao hiểm trở
bị thắt chặt theo hai vùng Đông-Tây Trường Sơn. Sống trong vùng khí hậu
khắc nghiệt đã tạo cho dân tộc Nam Đông đức tính cần cù, chịu khó, chịu
thương và ý thức cộng đồng gắn bó với nhau rất mật thiết. Hình thức cư trú
phân tán và biệt lập là nét đặc thù của các dân tộc miền tây Thừa Thiên
Huế nói chung và huyện Nam Đông nói riêng. Những biến động đã làm
mất đi nét cổ truyền văn hóa dân tộc lâu đời của đồng bào như ngôi làng
Cơ-tu truyền thống . Kinh tế chủ yếu là nương rẫy và săn bắt. Ngày nay,
cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng ổn định. Chính sách
định canh định cư mang lại hiệu quả đáng kể trong đời sống vật chất tinh
thần, chính sách phát triển kinh tế mới ở Nam Đông từ 1976 đến nay có tác
dụng tích cực trong việc giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Một cuộc sống mới đang hồi sinh và phát triển
trên vùng đất Nam Đông.
2
Xây dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam Đông Thừa Thiên
Huế bên cạnh tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo tồn phát huy giá trị
văn hoá của mình, vừa sử dụng những thành quả kinh tế, chính trị giáo dục
và đặc biệt là những thành quả của khoa học - công nghệ hiện đại cho đẩy
mạnh sáng tạo các giá trị văn hoá truyền thống và xây dựng đời sống văn
hoá mới phải tiến hành song song với nhau, để phát triển bền vững bước
những ảnh hưởng bới những mặt hai của nền kinh tế thị trường, những hạn
chế của việc thực hiện chính sách định cư, quy hoạch phát triển kinh tế…
Vì vậy việc xây dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam Đông Thừa
Thiên Huế là nhiệm vụ cấp thiết nhằm góp phần giữ gìn phát huy văn hoá
dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và
sự chỉ đạo bởi đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc xây
dựng đời sống văn hoá mới đang được các tổ chức đảng, chính quyền và
nhân dân huyện Nam Đông hết sức quan tâm thực hiện.
Với nhận thức tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hoá
mới đối với sự phát triển của một địa phương, nên tôi chọn "Những khía
cạnh triết học của việc xây dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam
Đông- tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với chủ trương bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá do UNESCO
(tổ chức văn hoá thế giới) phát động. Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền
tảng văn hoá tinh thần xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển kinh tế xã hội’’. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh các quan niệm mới về văn hoá của phương Tây mà cốt lõi là đề
cao nhân tố văn hoá trong phát triển, phát huy những giá trị văn hoá, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá trong đó có những công trình tiêu
biểu sau:
Trong cuốn sách Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa
do Phạm Duy Đức chủ biên (NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội, năm 2008)
các tác giả đã bàn luận quan điểm của các nhà triết học Maxit về xây dựng
3
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Và một số lĩnh vực cơ bản như văn hoá
chính trị, vấn đề xây dựng con người đạo đức, lối sống, tín ngưỡng…
Trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thử thách của toàn cầu
hoá (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002) các tác giả nguyễn Trọng
Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên đã phân tích về vật chất của toàn cầu hoá của
góc độ triết học, giá trị học, quan hệ của toàn cầu hoá với việc giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, những giải pháp và dự báo về vị
trí vai trò, khả năng của giáo dục truyền thống trong sự phát triển nền văn
hoá nước ta hiện nay.
Tiến sĩ Vũ Thị Kim Dung, đại học sư phạm Hà Nội, trong tạp chí
Triết học số 1 (101) tháng 2 năm 1998, Cách tiếp cận vấn đề văn hóa theo
quan điểm triết học Mác-Lênin, xuất phát từ quan điểm về bản chất của con
người về phương thức xác định bản chất của sự “tồn tại người’’ của triết
học Mac, chúng ta có thể kết luận rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của
sự hình thành phát triển con người thì văn hoá là cái nôi thứ hai. Nếu tự
nhiên là cái quy định sự tồn tại của con người với tư cách là một thực thể
sinh vật, thì văn hóa là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản
chất người gắn liền với những hoạt động sống của con người. Nói cách
khác, văn hoá là sự kết tinh năng lực bản chất người trong thế giới các sản
phẩm do chính hoạt động con người tạo ra, là cái quy định bản chất con
người. Với tư cách là một “sinh vật có tính loài” là “một thực thể xã hội”.
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm trong cuốn Xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc (NXB Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội năm 2001) đã tiếp cận những yếu tố cấu thành nền văn hoá, những tiền
đề lí luận và thực tiễn hoạt động văn hoá do Đảng ta lãnh đạo để nêu những
nét chính về tính tiên tiến của nền văn hoá mà nhân dân ta xây dựng, về
bản sắc văn hóa dân tộc, qua đó đề xuất một số biện pháp cơ bản và kiến
nghị xây dựng phát triển văn hoá.
Tác giả Nguyễn Huy Hoàng trong cuốn Mấy vấn đề triết học văn
hoá (NXB văn hoá thông tin, Hà Nội, năm 2002) đã xem xét văn hoá trong
sự phát triển của tri thức triết học từ góc độ lịch sử đến góc độ phương
pháp luận để trên cơ sở đó suy ngẫm một số vấn đề cấp bách đối với thực
tiễn và văn hoá hiện nay.
4
Trong cuốn Cơ sở triết học của văn hoá nghệ thuật Việt Nam do Đỗ
Huy chủ biên (NXB văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 2002) các tác giả đề
cập đến những khía cạnh phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan mật thiết đến nền tảng và tư duy triết học
cả sự phát triển văn hoá nghệ thuật nói chung, sự phát triển của các mê thức
văn hoá nghệ thuật Việt Nam nói riêng.
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay chưa có công trình nào xuất bản
và công bố trùng với hướng tiếp cận và đối tượng nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Từ quan điểm của triết học Mác-Lênin về văn hoá và vai trò của văn
hoá, làm rõ những giá trị và đề xuất các giải pháp xây dựng đời sống văn
hoá mới ở huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế.
Nhiệm vụ:
- Phân tích quan điểm triết học Mác - Lênin về khái niệm bản chất,
cấu trúc, chức năng và giá trị của văn hoá.
- Làm rõ giá trị văn hoá ở huyện Nam Đông và đề xuất giải pháp xây
dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận là quan điểm triết học Mác - Lênin, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá và vai trò của văn hoá.
Đề tài kết hợp vận dụng những nguyên tắc của phép biện chứng duy
vật với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như logic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá, so sánh, điều tra xã hội học.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đời sống văn hoá ở huyện Nam
Đông, Thừa Thiên Huế hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ những giá trị văn hoá của huyện Nam Đông
và đề xuất giải pháp phát huy những giá trị đó giai đoạn hiện nay.
Đề tài này có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội - nhân văn, nhất là trong nghiên cứu về văn hóa góp
5
phần tích cực cho việc tìm kiếm các giải pháp phát huy bảo tồn giá trị văn
hoá truyền thống ở huyện Nam Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 2 chương (5 tiết).
6
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VĂN HOÁ
1.1. Khái lược về phạm trù "văn hóa"
Văn hóa là một trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất
sớm. Nói cách khác, văn hóa tồn tại phát triển gắn liền với xã hội loài
người và ngày càng được bổ sung thêm những nội dung mới, nhân lên ở
tầm cao cùng với sự thăng tiến về tri thức của nhân loại. Nhưng trí tuệ đó
không bỗng dưng mà thành, nó phải đươc bồi đắp theo quy trình từ thấp lên
cao, theo tính quy luật đi từ chưa nhiều đến nhiều hơn, từ chưa phong phú
đến phong phú hơn, từ chưa sâu sắc đến sâu sắc hơn, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
Cho đến nay loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế xã
hội và mỗi một hình thái như vậy biểu hiện những đặc trưng khác nhau của
mỗi phương thức sản xuất. Đây là những bước tiến dài nhưng cũng rất đa
dạng và phong phú, bởi vì đó là một quá trình tồn tại trong vận động. Chính
sự vận động của phương thức sản xuất là nhân tố căn bản nhất tạo ra đời
sống vật chất và tinh thần của con người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định, trong đó văn hóa là một lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần, là kết quả
trực tiếp từ quá trình hoạt động vật chất, biểu hiện sinh động đời sống của
con người.
Vào buổi bình minh của xã hội loài người, với sự tồn tại của cách
thức sản xuất săn bắt, hái lượm, con người sống thành bầy đàn, làm chung,
ăn chung, ở chung, quần tụ trong một xã hội không có ‘‘dải phân cách”,
cho nên văn hóa của xã hội này là ‘‘văn hóa đại đồng”. Chính phương thức
sinh tồn cộng đồng này là cơ sở của sức mạnh tập thể, đó là dấu hiệu gắn
kết những con người riêng biệt thành xã hội. Tuy nhiên trong cộng đồng
này, ‘‘lượng thì mạnh nhưng chất thì yếu” nên con người trở nên thụ động.
Mặc dù trình độ vật chất và sinh hoạt tinh thần còn thấp kém, nhưng vẫn
chứa đựng những chân giá trị. Con người đã biết giao tiếp, tương trợ lẫn
nhau trong tiến trình tìm kiếm sự sinh tồn và chống chọi với thách thức của
thiên nhiên. Bên cạnh đó, con người đã biết sử dụng lực lượng tự nhiên để
chinh phục tự nhiên, biết chế tạo công cụ mà ban đầu rất thô sơ để đáp ứng
7
nhu cầu vật chất tinh thần của con người. Đó là buổi đầu con người thực
hành văn hóa trong đời sống.
Lúc bấy giờ, dù chưa có ngôn ngữ, chữ viết, tri thức về thế giới còn
rất sơ khai nhưng con người đã biết thực hành văn hóa trong đời sống. Dù
là những cử chỉ, những hành động, những ký hiệu và những công cụ thô sơ
nhưng đã chứa đựng ý tưởng, những giá trị mang màu sắc văn hóa của con
người.
Tuy nhiên tư duy triết học phải thừa nhận rằng, sự tồn tại của chế độ
chiếm hữu nô lệ tuy mang đậm màu sắc của một nền văn hóa kém nhân
văn, nhưng chính sự bạo ngược về quyền con người đã tạo thành một cơ sở
lịch sử để nhân loại ý thức được về một giá trị đối kháng giàu tính nhân
bản. Nhìn một cách toàn diện, đây là hai mặt của một vấn đề, đan xen tạo
nên mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn này là động lực để xã hội loài người đấu
tranh, khắc phục sự yếu kém để tiến bộ hơn.
Văn hóa phong kiến đã đưa con người vào vòng luân lý, ràng buộc
con người trong tính chặt chẽ của thể lệ, của giáo lý tôn giáo. Với sự thống
trị của tầng lớp quý tộc (ở Phương Tây), địa chủ (ở Phương Đông), hình
thái kinh tế xã hội thứ ba này không khác hơn hình thái trước về tính chất
bóc lột vì nó dựa trên cơ sở quân chủ chuyên chế, độc quyền. Vì vậy văn
hóa vẫn là ý thứ của giai cấp thống trị, chi phối đời sống tinh thần của đại
thể cần lao. Song nhìn nhận một cách khách quan rằng, văn hóa phong kiến
nếu loại trừ tính chất bạo ngược của giai cấp thống trị thì có nhiều giá trị
quý báu cần phải được ghi nhận. Chính những chân giá trị về đạo đức, lối
sống được xây dựng từ chế độ phong kiến đã làm nên nhân cách con người,
và góp phần không nhỏ vào chuẩn giá trị xã hội. Từ những khuôn tắc trong
quan hệ ứng xử mà chế độ phong kiến tạo ra đã giúp cho con người phần
nào nhìn nhận được chính mình, ý thức được chính mình, và vì vậy, lương
tâm giàu tính trắc ẩn hơn, sống có hậu hơn. Tuy nhiên trên tinh thần phát
triển cũng phải thấy rằng, luân lý phong kiến không thể trở thành giá trị bất
biến, cho nên đằng sau ánh sáng là khoảng tối, khoảng tối này là bức tranh
ảm đạm về quyền dân chủ và bình đẳng của con người. Đây là khiếm
khuyết không chỉ của riêng đối với hình thái kinh tế - xã hội Phong kiến mà
8
là khuyết tật chung của cơ chế có giai cấp bóc lột. Vậy nên, nó phải được
thay thế một phát triển mới tiến bộ hơn.
Chủ nghĩa tư bản xuất hiện được xem là ánh sáng xua tan đi đêm
trường trung cổ. Sức mạnh khoa học đã đẩy những mặc khải của Kinh
Thánh chìm sâu vào tâm khảm của con người. Ở thế tục thần học phải
nhường ngôi vinh quang cho khoa học. Những giá trị nhân văn của thời kỳ
cổ đại được khôi phục một cách kỷ càng và những chân giá trị mới ngày
càng được bổ sung, đặc biệt là cái đẹp. Con người đã tự ý thức được giá trị
đích thực của mình.
Đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là dựa trên
quan hệ người bóc lột người. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã cướp của
nông dân, biến thành đồn điền nhà máy, xí nghiệp, biến họ thành công nhân
để dễ bề bóc lột, thu nhập của công nhân được tính bằng những đồng lương
rẻ mạt. Được coi là chế độ ‘‘cừu ăn thịt người”. Với những đặc trưng như
vậy, văn hóa chủ nghĩa tư bản, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản là một
nền văn hóa phản nhân văn, chà đạp lên nhân phẩm của con người… trong
xã hội tư bản, sự bất công, sự bất bình đẳng, mất dân chủ luôn diễn ra, đời
sống vật chất phân bố không đều, đời song tinh thần luôn căng thẳng, con
người phải sống trong nổi lo sợ. Một xã hội văn minh không có nghĩa là
quên đi vấn đề văn hóa, một góc độ nào đó xã hội tư bản chủ nghĩa có phần
văn minh về đời sông vật chất nhưng nhũng chuẩn mực giá tri văn hóa còn
kém nhân văn, trong khi đó xã hội phát triển phải là một xã hội đảm bảo
được cả hai yếu tố: vật chất đầy đủ và tinh thần thoải mái.
Ra đời đã khắc phục những hạn chế của các chế độ trước đó. Với tư
cách là hình thức phát triển cao nhất của nhân loại, văn hóa cộng sản chủ
nghĩa đã kế thừa một cách có chon lọc những giá trị văn hóa tích cực trong
truyền thống, đồng thời vượt qua những giới hạn của thời đại trước đó,
nhân lên, phát triển ở tầm cao nhưng tri thức mới đầy tính nhân văn, cao cả
V. I. Lênin viết: ‘‘văn hóa giai cấp vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó
không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản
phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hóa phải là sự phát triển
hợp quy luật của tổng số kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách
thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ của bọn quan liêu”
9
Ở chế độ xã hội chủ nghĩa không còn quan hệ người bóc lột người,
mọi người sống với nhau bình đẳng, tương trợ lẫn nhau, cùng nhau xây
dựng một xã hội đầy tình nhân ái. Vì vậy, văn hóa xã hội chủ nghĩa mang
tính hiện thực, nẩy sinh từ hoạt động thực tiễn và trường tồn cùng với sự
phát triển của lịch sử nhân loại.
Nhìn chung nhân loại đã bước qua những bước dài về văn hóa.
Những bước đó ghi lại dấu ấn tư tưởng của một lớp người, một giai cấp,
một nhóm xã hội nhất định, thích hợp với yêu cầu của thời đại. Hành trình
văn hóa của nhân loại là một sự phát triển khách quan, có tính quy luật, là
những nấc thang từ thấp đến cao. Chính trong hành trình này, văn hóa
không chỉ là kết quả của sự vận động vật chất và tinh thần mà còn trở thành
một khách thể nhận thức. Vì là khách thể nhận thức nên đã có nhiều quan
niệm khác nhau về văn hóa:
Thời cổ đại ở Trung Quốc, chuẩn mực xã hội dựa trên cơ sở Tam
cương, Ngũ thường vói những giá trị đạo đức và trí tuệ như ‘‘nhân”,
‘‘lễ” ,‘‘nghĩa”,‘‘trí”, ‘‘tín”… theo đó, con người phải thực hành ‘‘đức
nhân”, ‘‘đức lễ” và ‘‘chính danh, định phận” trong quan hệ cộng đồng. Ở
góc độ này ‘‘văn” được xem là cái hay, vẻ đẹp và “hóa” được hiểu là sự
cải biến, biến đổi. Vì vậy khái niệm văn hóa thời cổ đại Trung Quốc được
hiểu là sự cải biến, biến đổi, bồi đắp cho đẹp ra. Trong quẻ sơn hóa bí của
sách Chu dịch, khái niệm văn hóa như một qua trình gồm hai giai đoạn đã
được diễn đạt như sau: giai đoạn một xuất phát từ hai nguồn là kinh
nghiệm sống và quy luật tự nhiên để trở thành cái Văn của con người (gọi
là nhân văn). Giai đoạn hai là đem cái nhân văn ấy hóa thành cuộc sống
(nhân văn hóa thành thiên hạ). [6, 23].
Trong xã hội Phương Tây từ thời Phục Hưng và cận đại, khái niệm
văn hóa dung để nói đến lĩnh vực của hiện thực, lĩnh vực hoat động của con
người như một chủ thể tự do và sáng tạo. Các nhà triết học thời kỳ này tiếp
cận văn hóa bằng nhiều cách khác nhau trên quan điểm chủ nghĩa nhân
đạo, chủ nghĩa duy lý, quan điểm lịch sử hoặc chủ nghĩa tự nhiên. Song,
đều nhìn nhận văn hóa như sự tồn tại chân chính của con người phù hợp
với bản chất của chính mình.
10
Các nhà triết học duy tâm Đức đi tìm cơ sở của văn hóa trong lĩnh
vực thẩm mỹ, lĩnh vực tinh thần và trong triết học. Vấn đề văn hóa trong hệ
thống triết học của I. Kant, bước đầu đã được xem như một chỉnh thể :
‘‘ông chỉ gọi những gì đem lại phúc lợi cho con người - một hệ thống các
giá trị nhân đạo - là văn hóa”. Bộ ba phê phán: phê phán năng lực thuần
túy, năng lực thực tiễn và năng lực phán đoán là phản tư, là sự suy ngẫm về
con người theo chiều hướng giá trị của cái chân - thiện - mỹ. Từ đó ông đặt
ra và trả lời câu hỏi: con người hoạt động như thế nào trong lĩnh vực nhận
thức, trong hoạt động đạo đức, trong sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật? với
bộ ba đó, văn hóa được nhìn nhận như một chỉnh thể hưu cơ tạo nên con
người tự do sáng tạo như chủ thể đích thực của sự phát triển xã hội.
Ở Hêghen, những quy luật logic được xem như là quy lật của quá
trình chuyển hóa cái khách quan thành cái chủ quan và ngược lại, của quá
trình mà ở đó một phần của giới tự nhiên được chuyển hóa thành thân thể
văn hóa. Do vậy theo nhận định của Ts. Nguyễn Huy Hoàng, ‘‘Logic biện
chứng của Hêghen chính là logic văn hóa của nhân loại, là cái được gọi là
triết học văn hóa của ngày nay” [6, 73]. Theo Hêghen, con người trong
hoạt động hiện thực đã đối tượng hóa hình thức của tư duy, của hoạt động
vào thế giới các đồ vật; chuyển từ tư duy tự mình sang tư duy cho mình.
Theo đó, khái niệm do tư duy đưa ra ‘‘chính là chân lý, là hình thức của ý
niệm tuyệt đối, của tinh thần, của văn hóa”. Với góc độ này, Hêghen xem
văn hóa là phương thức hay hình thức hoạt động của con người.
Như vậy, văn hóa không chỉ là kết quả của hoạt động vật chất và tinh
thần của con người mà còn là khách thể của quá trình nhận thức. Song do
đứng trên lập trường khác nhau mà cách lý giải về văn hóa cũng khác nhau.
Quan điểm duy tâm cho rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối, của
đấng siêu nhiên nào đó sinh ra thông qua hoạt động của con người hoặc là
sản phẩm của ý chí của bậc đế vương, của anh hùng dân tộc, của lãnh tụ …
sinh ra. Quan điểm duy vật siêu hình xem văn hóa ở những góc độ khác
nhau thiếu tính toàn diện không đề cập đến tính kế thừa các giai đoạn phát
triển của lịch sử xã hội. Và từ việc tìm hiểu các quan điểm đó, có thể khẳng
định rằng chỉ có quan điểm duy vật biện chứng mới vạch rõ nguồn gốc, bản
chất, cũng như quá trình phát triển của văn hóa.
11
Như vậy, trước khi triết học Mác ra đời, các quan niệm về văn hóa
trước Mác đều thể hiện tính phiến diện. Các quan điểm duy tâm thần bí cho
rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm, ý niệm tuyệt đối. Các quan điểm
sùng bái cá nhân thì cho rằng văn hóa là sản phẩm ý chí của bậc quân
vương, anh hùng kiệt xuất, còn quần chúng nhân dân không phải là chủ thể
sản sinh ra văn hóa cũng không phải đối tượng của văn hóa mà chỉ là lực
lượng thụ động; hoạt đông vật chất không phải là cơ sở cho văn hóa nảy
sinh cũng không phải môi trường cho văn hóa tồn tại. Các quan điểm duy
vật của và duy vật tầm thường cũng nhìn nhân văn hóa một cách phiến
diện, hoặc coi trọng khía cạnh này hoặc đề cao khía cạnh khác của văn hóa
mà không thấy được văn hóa là một phạm trù có nội hàm và ngoại diên rất
rộng, bao gồm nhiều thành tố, có mặt trong tất cả các lĩnh vực kể cả đời
sống vật chất lẫn đời sống tinh thần.
C. Mác và Ph. Ăng - ghen, trong một số tác phẩm của mình đã không
trực tiếp bàn đến văn hóa như một lĩnh vực độc lập. Nhưng trong khi phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội, tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, Mác đã gián tiếp thể hiện quan điểm về văn hóa. Theo đó văn
hóa được xem là một dạng hoạt động người và những thành tố văn hóa
thuộc về ý thức xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội. Lao động cùng với
ngôn ngữ và tư duy là cơ sở hình thành văn hóa.
Trong ‘‘Luận cương về Feuerbach”, C. Mác đã chỉ ra tính siêu hình
máy móc và phiến diện của chủ nghĩa duy vật cũ trong việc xem xét mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Đó là mặt hoạt động của con người
không được nhìn nhận đúng đắn. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm lại đề cập
và phát triển mặt hoạt động của con người trong quan hệ với khách thể
nhưng theo hình thức duy tâm, thần bí. Từ sự phê phán đó, C. Mác va Ph.
Ăng - ghen đã chọn cho mình điểm xuất phát để nghiên cứu xã hội là hoạt
động sống của con người. ‘‘Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không
phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền đề
hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng mà thôi. Đó
là những cá thể hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn ũng như những hoạt
động của chính họ tạo ra”
12
Trong tác phẩm hệ tư tưởng Đức, hai ông còn khẳng định rằng,
‘‘người ta phải có kỹ năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng
muốn sống được trước hết phải có thức ăn thức uống, nhà ở, quần áo và
một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất. Hơn nữa đó là một hành vi lịch sử, một điệu kiện cơ
bản của mọi lịch sử mà người ta thực hiện hàng ngày, hàng giờ để duy trì
đời sống của con người”.
Từ sự phân tích mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, hoạt động và
đối tượng, C. Mác đã có cách nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người là “một thực thể song trùng” giữa ‘‘cái tự
nhiên” và “cái xã hội”. Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người,
nhưng yếu tố làm nên bản chất của con người chính là sự tồn tại người với
tư cách là ‘‘thực thể xã hội”.
Trong “Luận cương về Feuerbach”, Mác viết: ‘‘… bản chất con
người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ
xã hội”. Theo đó, C. Mác xem xét đời sống xã hội như một chỉnh thể hữu
cơ bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất con người,
trong đó sản xuất con người giữ vị trí trung tâm. Nếu hiểu văn hóa ở góc độ
sản xuất con người thì logic phát triển văn hóa là quá trình biểu thị mức độ
phát triển tự do và sáng tạo của con người trong lịch sử [11, 267].
Bên cạnh xem văn hóa như là hoạt động của con người trong qua
trình lịch sử, có nhiều quan điểm dựa trên lập trường triết học Mác - Lênin
đã xem văn hóa như sản phẩm chứa đựng giá trị có tác dụng thúc đẩy tiến
bộ xã hội. E. V. Bagaliubốpva trong tác phẩm ‘‘văn hóa và xã hội” đã xem
văn hóa không chi là sự sáng tạo của con người mà là sự tiến bộ xã hội.
Văn hóa là đặc trưng về bản chất của xã hội và sự phát triển của nó theo
con đường tiến bộ nhờ sự tham gia tích cực của mỗi cá thể vào quá trình
này. Sau đó, U. K. Ulêđốp tiếp tục khẳng định: văn hóa phải được nhìn
nhận trong cả hoạt động sáng tạo lẫn vận động tiến bộ của xã hội và con
người. Vì thế, văn hóa - đó không phải chính những hiện tượng vật chất
hay tinh thần mà là những đặc trưng của chúng từ quan điểm biến đổi và
phát triển. Bởi thế có thể xem xét văn hóa như chất lượng vốn sẵn có với
13
mọi hiện tượng xã hội và trước tiên với chính bản thân con người như chủ
thể của quá trình lịch sử…
Từ sự phân tích trên văn hóa được tiếp cận từ hai phương diện. Thứ
nhất, theo phương diện hoạt động: văn hóa biểu hiện phương thức tồn tại
của con người với đầy đủ bản chất của mình thông qua các hoạt động sống.
Do vậy, văn hóa hiện diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: lĩnh
vực kinh tế, chính trị - xã hội và tư duy. Thứ hai, theo phương diện giá trị:
văn hóa được xem như là sản phẩm của hoạt động con người. Văn hóa là
cái sáng tạo bởi con người trong sự khác biệt với cái được tạo nên bởi tự
nhiên.
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rất rộng, liên quan đến đời sống vật
chất tinh thần của con người. Xuất phát từ nhiều cách tiếp cận, có nhưng
quan điểm và lý giải khác nhau về văn hóa.
- Ở góc độ miêu tả, nhà nghiên cứu văn hóa người Anh E. B. Thai -
Lơ cho rằng: ‘‘văn hóa là một phức thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, pháp luật. Tập quán và thói quen của con người, với tư
cách là thành viên xã hội”.
- Ở góc độ giá trị của văn hóa, nhà nghiên cứu A. Vê - bơ đã đặc biệt
đề cao giá trị của tự do. Giá trị của tự do nay không chỉ được đề cao vào
thời kỳ hiện đại mà ngay từ thời cổ đại đã được xem trọng.
- Ở góc độ di truyền, đề cao năng lực học tập của con người, R. Bê -
nê - đích chỉ ra rằng ‘‘văn hóa là lối sống mà con người học được, chứ
không phải là sự kế thừa sinh học”. Cũng đứng trên quan điểm này, Phôn -
Xôm luận giải ‘‘văn hóa là tất cả những gì do con người sản xuất ra: công
cụ, biểu trưng, thiết chế, hoạt động, các quan niệm, tín ngưỡng. Đó là
những sản phẩm nhân tạo, được truyền đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác”.
- Ở phương diện ứng xữ xã hội, F. Merill hiểu: ‘‘văn hóa là cách ứng
xử mà các thành viên trong xã hội học được”. Cũng tương tự như vậy, To -
mát - xơ coi ‘‘văn hóa là toan bộ giá trị vật chất và xã hội của nhóm người,
các thiết chế, phong tục và phản ứng trong cách ứng xử của họ”.
- Nhấn mạnh tính lịch sử, nhà nghiên cứu người Nga Malinốpxki
quan niệm “văn hóa là một phức thể hiện tượng của kế thừa xã hội, thực
14
tiễn và các tín ngưỡng. Phức thể này xác định cuộc sống của chúng ta. Văn
hóa bao gồm các kế thừa về kỹ thuật, tư tưởng, tập quán và giá trị”.
- Nhấn mạnh vào khía cạnh tư tưởng của văn hóa, nhà nghiên cứu
Pho - rơ - đơ đưa ra một định nghĩa mang tính chất kết dính và cho rằng:
“văn hóa là dòng thác tư tưởng xuyên từ cá nhân này sang cá nhân khác,
thông qua những ứng xử biểu trưng, nhưng từ ngữ và qua sự bắt chước”.
- Dựa vào sự thích ứng của con người với môi trường, Bờ - lin - men
- tan định nghĩa: “văn hóa bao gồm toàn bộ tạo phẩm do con người làm ra
trong quá trình thích ứng với môi trường”.
- Theo từ điển triết học: “văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất tinh thần,
được nhân loại sáng tạo ra trong qua trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã
hội; các giá trị ấy nói lên trình độ phát triển của lịch sử loài người”.
- Theo từ điển triết học giản yếu, văn hóa theo nghĩa rộng là trình độ
phát triển lịch sử nhất định của một xã hội, sức sáng tạo và năng lực của
con người được thể hiện trong xã hội, biểu hiện các kiểu và hình thức tổ
chức đời sống và hoạt động, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần
do con người tạo ra… văn hóa bao gồm những kết quả khách quan của hoạt
động con người (sản xuất, máy móc, thiết bị, kết quả nhận thức, tác phẩm
nghệ thuật, chuẩn tắc đạo đức và pháp luật) cũng như qua sức sáng tạo và
năng lực con người thể hiện trong hoạt động (tri thức, kỹ năng, thói quen,
trình độ trí tuệ, sự phát triển đạo đức và thẩm mỹ, thế giới quan, phương
thức và hình thức giao tiếp giữa con người với nhau) theo nghĩa hẹp, văn
hóa là lĩnh vực đời sống tinh thần của con người [17, 17].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ nhưng sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người
sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[13, 143].
Tổ chức văn hóa thế giới (UNESCO), đã đưa ra khái niệm về văn
hóa như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng
15
biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc, quyết định tính cách của một
xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và
văn chương, nhưng lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho
con người những suy xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta
trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và
dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự
ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thiện được
đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt
những ý nghĩ mới mẻ, sáng tạo them nhưng công trình mới mẻ và tạo nên
nhưng công trình vượt trội lên bản thân” [21,17].
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “văn
hóa nên được đề cập đến như một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn
vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã
hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương
thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Văn hóa theo cách hiểu giản dị, là những gì còn lại sau những chu
trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các đan tộc
với nhau, cái còn lại này được gọi là bản sắc. Định nghĩa văn hóa của cựu
Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor có thể giúp ta vận dụng vào lý
giải những đặc trưng về bản sắc văn hóa của các dân tộc khác nhau và hành
vi của mỗi cá nhân: “văn hóa phản ánh, thể hiện một cách tổng quát và
sống động mọi mặt cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn
ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ,
nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống
mà dựa trên đó từng đân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [18, 66].
Văn hóa hiện tượng khách quan, tổng hòa các khía cạnh đời sống.
Ngay cả nhưng khía cạnh nhỏ bé nhất của cuộc sống cũng mang những dấu
hiệu văn hóa. Nên khi có sự hội nhập của các khía cạnh khác (chẳng hạn
như hội nhập kinh tế) thì cũng có khía cạnh khác nữa tồn tại bên cạnh,
thậm chí có thể đi trước hoặc đi sau - đó là sự hội nhập về mặt văn hóa. Sự
hội nhập về văn hóa chính là quá trình con người đi tìm ngôn ngữ chung
16
cho cuộc sống chung. Văn hóa không phải là ý thức của riêng ai mà thuộc
về con người một cách tự nhiên.
Theo PGS.TS. Lương Việt Hải: “văn hóa là hệ thống các nguyên tắc,
cách thức, chương trình, phương thức hoạt động sống thuộc tầng trên sinh
học của con người. Hệ thống ấy được hình thành và phát triển qua quá trình
lịch sử và giúp cho việc duy trì và cải biến đời sống xã hội. Văn hóa là đời
sống tinh thần của con người được duy trì và phát triển trong tiến trình lịch
sử, là sự tiến hóa của ý thức đạo đức, luân lý, tôn giáo triết học, khoa học
pháp luật và ý thức chính trị, thức đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Mặt khác
người ta cũng xem văn hóa như những điểm đặc thù của một xã hội. Văn
hóa là hệ thống các giá trị và tư tưởng quy định kiểu tổ chức xã hội ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau. Các hệ thống đó là khác nhau và tương
đối độc lập với nhau, trong chúng bao gồm toàn bộ tài sản văn hóa vật chất,
tập quán chủng tộc, các dạng ngôn ngữ và các hệ thống biểu trưng khác”
[http: //www. Vientriethoc. Com. Vn/tapchitriethoc10/2008].
Theo tất cả những góc độ nhìn nhận nói trên, có thể rút ra một kết
luận phổ quát rằng. “văn hóa là toàn bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại
trong quá trình hoạt động thực tiễn - xã hội, được đức kết thành hệ giá trị
và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử
văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm
nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng chi phối đời
sống tâm lý và mọi hoạt động của những con người sống trong cộng đồng
xã hội ấy” [18, 43].
Văn hóa là một phạm trù có nội hàm sâu rộng, bao gồm nhiều thành
tố như: Ngôn ngữ, Nhà cửa - kiến trúc, nghệ thuật, tín ngưỡng, lễ tết, lễ hội,
văn chương, hội họa, phong tục tập quán, … Tất cả những thành tố này là
kết quả hoạt động sáng tạo của con người. Phạm vi của văn hóa không chỉ
đơn nhất, khu biệt ở một vùng, miền nào của thành tố văn hóa mà nó trải
rộng trên tất cả các lĩnh vực. Mỗi lĩnh vực là một cái nôi sản sinh ra văn
hóa nhưng cũng vừa là một môi trường cụ thể để văn hóa tồn tại và phát
triển. Hay nói một cách khác, văn hóa được tắm mát, gọt giũa và trau dồi
trong mỗi hình thức tồn tại cụ thể của tồn tại xã hội thì văn hóa ngày càng
trở nên hoàn thiện và “tinh khiết” hơn.
17
1.2.Quan điểm của triết học Mác-Lênin về văn hóa
1.2.1. Bản chất và đặc trưng của văn hoá
Bản chất của văn hóa là những hoạt động nhằm sản xuất hoặc sáng
tạo ra các giá trị vật chất cũng như tinh thần. Tất cả mọi hoạt động văn hóa
là nhằm hướng đến chân - thiện - mỹ. Do bản chất như vậy nên mục đích
của văn hóa là hướng đến cái cao cả. Cái cao cả nhất chính là sự nghiệp
phát triển, hoàn thiện và giải phóng con người. Văn hóa với tư cách là một
trong ngững hình thái ý thức xã hội có vai trò to lớn trong sự nghiệp “kiến
tạo” bản chất con người. Đi cùng với đạo đức, làm cho đạo đức trở thành
giá trị nhân bản sâu sắc và theo đó một nền văn hóa giàu tính nhân văn phải
là một nền văn hóa có chuẩn mực đạo đức xã hội mang đậm tính nhân đạo,
nhân nghĩa…
Mốc ra đời của văn hóa kể từ khi con người phát hiện ra lửa, biết ăn
chín uống sôi và trang phục sơ khai. Lao động hoạt động sản xuất là nguồn
gốc của văn hóa. Chính trong hoạt động này, con người đã làm nên “thiên
nhiên thứ hai” đầy tính sáng tạo của mình.
Trong hai tác phẩm Gia đình thần thánh và Hệ tư tưởng Đức, C.
Mác và Ph. Ăng - ghen đã đặt đối lập hai quan niệm: “quan niệm lao động
như một phạm trù kinh tế với quan niệm lao động như hoạt động sáng tạo.
Nếu phương diện kinh tế của lao động là sản xuất ra của cải vật chất, thì
phương diện văn hóa của lao động là sáng tạo - biểu hiện của các lực lượng
bản chất người. Đó chính là quá trình sức sáng tạo được vật thể hóa trong
các hoạt động thích ứng và cải tạo thế giới, trong đó có bản chất con
người” [4, 29].
Văn hóa ra đời song hành với quá trình con người hoạt động sản xuất
ra đời sống vật chất và tinh thần của mình. Những yếu tố thích hợp được
chắt lọc lại và phát huy trong suốt quá trình phát triển xã hội. Văn hóa nói
lên mặt tích cực này. Đó là hệ thống nhưng giá trị về đời sống vật chất,
phương tiên sản xuất của xã hội, tri thức, khoa học, công nghệ, chuẩn mực
đạo đức xã hội, tín ngưỡng, tập tục… của con người. Những giá trị vật chất
và tinh thần của con người là kết quả của qua trình tích lũy thông qua quá
trình hoạt động thực tiễn trong suốt chiều dài lịch sử.
18
Văn hóa cũng nói lên quá trình mà con người để lại dấu ấn trong cuộc hành
trình đi tìm và vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ. Do vậy bản chất
của văn hóa là hoạt động sáng tạo ra những giá trị. Thể hiện ở những khía
cạnh sau:
- Văn hóa là sản phẩm của con người, phản ánh năng lực sáng tạo
của con người, mang dấu ấn của một thể cộng đồng lên các sản phẩm vật
chất và hiện tượng tinh thần.
- Văn hóa biểu hiện thái độ, hành vi của con người trước hiện thực.
- Văn hóa là phương thức sống, phương thức hoạt động của con
ngưởi hiện tại trên cơ sở kế thừa những giá trị cũ, đồng thời định hướng
cho hành động trong tương lai.
Từ bản chất của văn hóa có thể thấy văn hóa có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, “văn hóa phản ánh năng lực sáng tạo của con người, văn
hóa phải là sản phẩm của con người có tư duy, trí thông minh, có trái tim
rung động và sự cảm thụ tinh tế… chính các sáng tạo văn hóa làm cho nhân
loại đạt được nhiều điều kỳ diệu, đưa con người lên vị trí chủ thể của sự
phát triển.
Thứ hai,“văn hóa là thiên nhiên thứ hai” được con người sáng tạo ra
dựa trên cơ sở vận dụng đúng quy luật khách quan và hoàn cảnh sống cụ
thể, bằng cả tư duy sáng tạo, cả ý chí, nghị lực, quyết tâm đã được vật chất
hóa. Chính tính sáng tạo trong văn hóa là yếu tố chủ yếu làm nên động lực
của phát triển.
Thứ ba, văn hóa biểu hiện thái độ của con người trước hiện thực. Thái
độ đó là tổng hợp tư tưởng, ý thức tôn giáo, dân tộc, quan niệm sống của cá
nhân… trong hệ thống thái độ của con người trước hiện thực thì quan trọng
nhất là thái độ đối với lao động. Bởi vì lao động là điều kiện cơ bản đầu
tiên của toàn bộ đời sống loài người, lao động đã sáng tạo ra chính bản thân
con người.
Thứ tư, văn hóa là phương thức sống, phương thức hoạt động của con
người. Đều là tồn tại, là hoạt động làm ra của cải vật chất, tinh thần, song
cách thức của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và của cá nhân là rất khác nhau.
Văn hóa như là phong cách, dáng vẻ, kiểu lựa chọn sáng tạo của con người.
19
Thứ năm, văn hóa là tính nhân đạo trong sáng và sử dụng các sáng
tạo; “văn hóa là trạng thái của con người ngay càng tách khỏi giới động
vật, ngày càng xóa bỏ những đặc tính của động vật để khẳng định những
đặc tính của con người. Các giá trị sáng tạo nếu sử dụng vào mục đích phi
nhân đạo thì đồng thời cũng có nghĩa là không còn ý nghĩa cao đẹp của văn
hóa. Tính nhân đạo trong sự phát triển là bản chất của văn hóa” [15, 18 -
19].
1.2.2. Cấu trúc của văn hoá
Khi nói đến hình thức tồn tại, người ta chia văn hóa thành hai lĩnh
vực: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Trên phương diện giá trị văn
hóa được phân thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Giữa hai mặt
này luôn tác động biện chứng với nhau trong hoạt động sống của con
người. Bên cạnh đó, có những sản phẩm của hoạt động con người mà khó
có thể phân biệt được chúng thuộc văn hóa vật chất hay tinh thần. Trong
hoạt động thực tiễn, bên cạnh việc sản xuất ra điều kiện vật chất, phương
tiện sinh hoạt thì con người còn sản xuất ra ý thức, biểu hiện dưới các hình
thức: ý thức tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, pháp quyền, đạo đức…
Văn hóa vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người
được thể hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, kể từ các tư liệu
sản xuất cho đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn phát
triển khác nhau của xã hội thì các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác
nhau phản ánh các giai đoạn phát triển khác nhau của văn hóa.
Trong quá trình hoạt động vật chất con người đã tạo ra vật chất xã
hội, bao gồm các phương tiện sản xuất (máy móc, động cơ…) và các
phương tiện tiêu dùng (thức ăn, quần áo, đồ dùng, nhà cửa…). Đây là
những yếu tố vật thể, hiện vật của văn hóa vật chất.
Theo V. I. Lênin thì yếu tố quan trọng nhất của văn hóa vật chất là
phương tiện sản xuất trước hết là công cụ lao động, cái mà con người sử
dụng trong lao động sản xuất của mình. Phát triển vật chất kỹ thuật của xã
hội là cơ sở hiên thực cho những tiến bộ trong lĩnh vực văn hóa, cần phải
phát triển mạnh mẽ các phương tiện sản xuất vật chất, cần phải có cơ sở vật
chất nhất định.
20
Phương tiện tiêu dùng cũng là một bộ phân của văn hóa vật chất. Các
phương tiện tiêu dùng không những xác định con người đã sử dụng cái gì ở
trình độ này mà con nói lên con người đã sử dụng nó như thế nào, nhu cầu
của họ phát triển đến đâu. Điều đó đã góp phần làm nên diện mạo văn hóa.
Không chỉ có sản phẩm vật chất và phương tiện sản xuất, tiêu dùng
mà văn hóa vật chất còn là hoạt động thực tiễn sáng tạo và sử dụng các
phương tiện ấy. Trong quá trình tiến hành các hoạt động ấy thì trí thức,
kinh nghiệm đã được vật thể hóa thành sản phẩm vật chất, hoạt động này
thể hiện mối quan hệ giữa người và người trong quá trình hoạt động xác lập
nên những mối quan hệ sản xuất khách quan và đây cũng là một bộ phận
của văn hóa vật chất.
Văn hóa tinh thần là toàn bộ nhưng giá trị của đời sống tinh thần bao
gồm khoa học và mức độ áp dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất,
sinh hoạt, trình độ học vấn, tình trạng giáo dục, y tế, nghệ thuật, chuẩn mực
đạo đức trong hành vi của các thành viên xã hội, trình độ phát triển nhu cầu
của con người… văn hóa tinh thần được trầm tích trong hinh thức “vật thể”
, tất cả những cái đó song và cộng tác với thế hệ hiện nay, là bảo vật của
toàn bộ sự giàu có của tinh thần con người.Văn hóa tinh thần còn bao gồm
cả những phong tục tập quán, những phương thức giao tiếp và ngôn ngữ.
Trong hoạt động thực tiễn xã hội, con người ngoài việc sản xuất ra
những điều kiện vật chất, phương tiện sinh hoạt thì còn sản xuất ra ý thức -
sáng tạo ra những quan niệm, tư tưởng của mình dưới nhiều hình thức khác
nhau: ý thức tôn giáo, khoa học, nghệ thuât, ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức… tạo thành lĩnh vực văn hóa tinh thần.
Ý thức xã hội bao gồm những khái niệm, lý luận, tư tưởng khác nhau
tạo nên tài sản tinh thần của xã hội. Ở đây, văn hóa tinh thần được tồn tại
dưới dạng những sản phẩm của hoạt động tinh thần: trí thức khoa học, nghệ
thuật, chuẩn mực đạo đức… nhờ việc con người biến kết quả hoạt động
tinh thần thành vật thể, vật chất hóa những sản phẩm lao động trí óc của
mình mà kinh nghiệm tinh thần được giữ gìn và truyền lại qua các thế hệ. Ý
thức xã hội bao hàm toàn bộ những khái niệm, tư tưởng, lý luận xuất hiện,
tồn tại của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định, những quan hệ
xã hội nhất định sáng tạo nên. Vì thế, văn hóa tinh thần không chỉ là sự
21
biểu hiện ở các sản phẩm hoạt động tinh thần, mà còn ở nội dung sáng tạo
của hoạt động đó với những quan hệ giữa người với người trong tiến trình
hoạt động.
Sự phân chia văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính tương
đối, bởi vì, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần là những bộ phận của văn
hóa. Mặt khác, sự nhất thể hóa đang diễn ra trong tiến trình cách mạng
khoa học và công nghệ đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, thì lại càng rõ
nét đó là vai trò của yếu tố vật chất trong văn hóa tinh thần ngày càng tăng
lên vì sự phát triển hiện đại của các phương tiện thông tin đại chúng và
phương tiện tiếp thu văn hóa (máy ghi hình, ghi âm, đài…); ngược lại trong
văn hóa vật chất vai trò của khía cạnh tinh thần cũng tăng lên, đó là sự
“khoa học hóa” sản xuất dẫn đến việc biến trí thức khoa học thành lực
lượng sản xuất trực tiếp của xã hội.
1.2.3. Chức năng của văn hoá
Xuất phát từ cơ sở lý luận của Mác về bản chất văn hóa có thể nói
rằng, “chức năng của văn hóa là nhằm tạo ra được những khả năng, những
điều kiện và môi trường tối ưu nhất, phù hợp nhất cho sự bộc lộ và phát
huy (giải phóng) những năng lực bản chất người, làm cho con người trở
thành tốt hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn, trở thành “người trong mỗi giai
đoạn phát triển lịch sử của mình”.
C. Mác và Ph. Ăng - ghen đã nêu ra một luận điểm hết sức quan
trọng rằng, mỗi bước mà con người tiến đến văn hóa là mỗi bước con
người tiến đến tự do. Điều này thể hiện rõ ở những chức năng cơ bản sau
của văn hóa:
* Chức năng giáo dục
Khi văn hóa trở thành một “sản phẩm đặc biệt” đi cùng “sự sống”
của xã hội loài người, nó đã trở thành một nguồn “dinh dưỡng” không thể
thiếu để nuôi sống “cơ thể” mỗi cá nhân, gia đình, tập thể và mỗi cộng
đồng - xã hội. Tuy nhiên điều này không thể hiểu bằng sinh học, phải hiểu
hóa tập là một dạng “vitamin” theo nghĩa bóng, tập trung bồi dưỡng cho lý
tưởng, đạo đức và hành vi nhằm hướng tới một con người, một gia đình,
một cộng đồng - xã hội khỏe về “thể chất” cũng như “tinh thần”. Một xã
hội phát triển phải là một xã hội đảm bảo được các “chỉ số phát triển con
22
người” (HDI) như: thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ và giáo dục.
Theo đó, văn hóa có sứ mệnh bao trùm lên tất cả các lĩnh vực, và điều đó
cũng có nghĩa là không có lĩnh vực riêng biệt nào lại không có sự tham gia
của văn hóa. Văn hóa len lõi vào từng ngõ, ngách của đời sống, tham gia
vào quá trình xã hội hóa giáo dục, nhằm làm cho xã hội phát triển một cách
bền vững. Cũng trong sự nghiệp giáo dục này, văn hóa là nguồn tri thức bồi
bổ cho toàn hệ thống song cũng nhờ vào sự nghiệp này, văn hóa cũng được
“lai quả” nên ngày càng trở nên “giàu có” vì tích lũy được nhiều “tri thức
sống”. Khi thực hiện chức năng giáo dục đối với hệ thống - xã hội, các
thông số văn hóa trở thành các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển xã hội
cũng như là điều kiện để so sánh mức độ văn minh giữa các dân tộc.
Thực hiện chức năng giáo dục cũng là thực hiện nhiệm vụ của mình.
Vì văn hóa là thành quả được hình thành trong quá trình lâu dài, được lưu
truyền qua nhiều thế hệ, tạo thành nhưng chuẩn mực mang giá trị tương đối
ổn định. Cho nên sứ mệnh giáo dục của văn hóa đó chính là truyền đạt
những trí thức, những kinh nghiệm được tích lũy từ trong quá khứ vào cộng
đồng. Tuy nhiên, văn hóa không chỉ mang những giá trị hay chuẩn mực quá
khứ, mà con mang những chuẩn mực giá trị hiện tồn, cho nên, giao dục
cũng là hướng dẫn trao đổi những tri thức đời sống đương thời. Hơn nữa
giáo dục văn hóa còn phải định hướng những chuẩn giá trị trong tương lai,
đó là những giá trị đang hình thành.
Như vậy, bằng chức năng giáo dục đã góp phần duy trì làm cho lịch
sử cá nhân, dân tộc va nhân loại phát triển một cách liên tục, đảm bảo tính
quy luật.
* Chức năng tổ chức
Tổ chức là cách sắp xếp hệ thống theo một trật tự nhất định. Con
người tự đặt mình vào hệ thống, ràng buộc với hệ thống bằng chính năng
lực của mình. Tuy nhiên, để làm được việc này, con người phải có trí thức,
có văn hóa. Nói một cách khác, bằng văn hóa, nhờ có văn hóa mà con
người tổ chức xã hội một cách suôn sẽ hơn. Văn hóa tham gia vào quá trình
tổ chức như một nhân tố góp phần hoàn thiện tổ chức, và ngược lại, tổ chức
phải là một tổ chức có văn hóa. Chỉ có như vậy, tổ chức cộng đồng - xã hội
mới bền vững, văn hóa mới có môi trường phát huy tác dụng. Lẽ đương
23
nhiên mỗi một dân tộc có điều kiện, phong thổ riêng nên có cách thức tổ
chức cộng đồng - xã hội riêng, từ đó mà văn hóa mang tính đặc thù.
* Chức năng giao tiếp
Giao tiếp là mắt xích quan trọng làm cho hệ thống có tính liên kết.
Động vật giao tiếp bằng hệ thống tín hiệu của nó như: âm thanh, màu sắc…
nhưng con người giao tiếp với nhau, trao đổi thông tin không chỉ bằng hệ
thống tín hiệu sinh học, mà quan trọng hơn cả con người giao tiếp với nhau
bằng hệ thống tư duy - ngôn ngữ; trong khi đó, tu duy - ngôn ngữ là bạn
đồng hành với lao động và trở thành cội nguồn của văn hóa. Chính nhờ tư
duy - ngôn ngữ, con người mới có khả năng tập hợp thành cộng đồng. Văn
hóa tham gia vào quá trình giao tiếp cộng đồng như một phương tiện nhằm
biểu đạt tư duy - ngôn ngữ, nhưng đến lượt mình văn hóa lại trở thành môi
trường để con người giao tiếp với nhau. Nói cách khác, bằng văn hóa mà
con người gắn kết với nhau. Nhờ có văn hóa mà hoạt động giao tiếp của
con người trở nên nhân văn, nhân bản hơn.
* Chức năng điều chỉnh
Văn hóa góp phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con người không
chỉ đối với xã hội mà còn đối với cả tự nhiên. Không phải bằng cơ chế di
truyền và chọn lọc tự nhiên để sống cùng tự nhiên, con người biến đổi tự
nhiên theo cách của mình (nhưng vẫn tuân thủ được quy luật) từ đó tạo ra
nhưng sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu. Nhìn từ phạm vi hẹp, văn hóa còn
góp phần điều chỉnh hành vi “tự ứng xử” với chính bản thân mình của con
người. Nói một cách khác văn hóa tác động tích cực vào thái độ của con
người đối với thiên nhiên, với xã hội và với chính mình. Nhờ vào tính giá
trị, văn hóa có sức mạnh điều chỉnh hành vi của con người trên cả ba
phương diện.
* Chức năng nhận thức, cải biến tự nhiên và xã hội
“Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con
người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực
khách quan”. Vì vậy, nếu văn hóa trải mình trong tất cả mọi hoạt động đời
sống thì có nghĩa là phải nhận thức văn hóa ở mọi phương diện, mọi lĩnh
vực. Tuy nhiên, văn hóa không chỉ là sản phẩm có từ hoạt động thực tiễn,
được chủ thể (con người) mang trong sự tồn tại lâu dài qua nhiều thế hệ mà
24
nó còn trở thành khách thể (đối tượng) của nhận thức. Đây là hai mặt của
một vấn đề, tác động biện chứng với nhau. Hoạt động lao động sáng tạo
của con người với tư cách là cái sản sinh ra tri thức giúp con người khám
phá và làm chủ giới tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Việc phát huy
những tiềm năng sáng tạo của con người góp phần nâng cao nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Văn hóa với các hoạt động và sản phẩm của nó (bảo
tàng, công trình kiến trúc, sinh hoạt văn hóa, tác phẩm nghệ thuật… ) là
cách tác động trực tiếp vào con người trong lĩnh vực nhận thức, giúp con
người xác định phương hướng hoạt động trong xã hội, tiến hành các hoạt
động thực tiễn. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, văn hóa ra đời trong
quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Khi những tri thức, giá trị,
chuẩn mực được khẳng định nó trở thành cơ sở lý luận, tư tưởng, tình cảm,
ý chí của con người trong hoạt động nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Như vậy chức năng nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội đã giúp con người
nhận thức và hành động theo đúng quy luật của tự nhiên.
* Chức năng thẩm mỹ
“Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ,
hướng tới cái đẹp. Con người nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái
đẹp… xét đến cùng văn hóa là sự sáng tạo của con người theo quy luật của
cái đẹp. Như vậy, xây dựng, phát triển văn hóa không chỉ hướng đến cái
Chân - cái Thiện mà còn phải hướng đến cái Mỹ, phát triển xã hội không
những chỉ có giàu mà còn phải đẹp. Có như vậy mới lam cho con người trở
nên hạnh phúc theo nghĩa rộng nhất của nó”.
Chính cái đẹp cái hay của văn hóa đã làm cho con người thức tỉnh và
hướng đến đẩy lùi cái bản năng, nẩy nở những cảm xúc thẩm mỹ. Chính sự
rung động trước cái chân - thiện - mỹ đã gầy dựng nên phẩm chất đạo đức
của con người. Đồng thời tính thẩm mỹ của văn hóa đã giúp con người cảm
thụ được cái đẹp trong tự nhiên, nhận diện được cái văn hóa và cái phản
văn hóa trong đời sống xã hội, thúc đẩy vươn tới những giá trị, chuẩn mực
của xã hội. Do đó chức năng thẩm mỹ của văn hóa gắn liền với chức năng
nhận thức và hướng tới chức năng giáo dục, tạo nên động lực cho hành
động của con người trong quá trình sáng tạo và hướng đến chuẩn mực của
xã hội.
25