Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

mối quan hệ giữa luật tục và luật pháp trong chế độ tự quản cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.9 KB, 16 trang )




 !"#$%&
M s: 62 31 30 01
'()*+,-*+./.
012(34
5$&6789:;<=>77?&@78@ABC 7DEBF*GFH

%I 7!J89KA$L
 K$&M7N&!OB9<PQR89:S
 9:$9TUVFOB%&!.JJ8WX(B
 KYB&M7N&!$Z<N778$[CLIXI\BQ]#
-R^_`_
`J*aUO&%@L7 $
Giải quyết mi quan hệ giữa hình thức tự quản và quản lý (giữa hương ước, luật tục
và luật pháp) là việc làm cần thiết trong bi cảnh x hội Việt Nam hiện nay, đặc biệt là ở
những vùng có đồng bào dân tộc thiểu s sinh sng. Bên cạnh pháp luật, việc vận dụng
luật tục để điều chỉnh các quan hệ cộng đồng tại các vùng dân tộc thiểu s là cần thiết. Cơ
sở khoa học và thực tiễn của vấn đề trên thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, pháp luật luôn mang tính thng nhất và phổ quát trên phạm vi quc gia
trong khi đó mức độ phát triển của x hội trong phạm vi từng vùng, từng địa phương, từng
dân tộc lại không đồng đều về nhiều mặt. Do vậy, không phải lúc nào pháp luật cũng có
hiệu lực như nhau ở các phạm vi lnh thổ khác nhau, với những điều kiện x hội khác
nhau.[10]
Thứ hai, trong mức độ nhất định, luật tục cũng có vai trò không kém phần quan trọng
như pháp luật là điều chỉnh các mi quan hệ x hội, duy trì và ổn định trật tự x hội của
cộng đồng, đảm bảo cho cộng đồng tồn tại và phát triển.
Thứ ba, trong chừng mực nhất định, tính cộng đồng của luật tục cao hơn pháp luật.
Luật tục phản ánh ý chí, nguyện vọng của cộng đồng vì vậy nó là công cụ điều chỉnh các
mi quan hệ x hội giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với gia đình, dòng họ, giữa cá


nhân với buôn làng, với x hội , với tự nhiên và cả với các lực lượng siêu nhiên… nhằm ổn
định một trật tự có lợi cho toàn thể cộng đồng. Trên cơ sở đó, luật tục được thực hiện do
tính tự giác và sự cưỡng chế của cộng đồng.
Thứ tư, trong giai đoạn hiện nay, sự tồn tại của luật tục mang tính khách quan và hiệu
lực của luật tục cũng được đảm bảo bởi các điều kiện khách quan của sự phát triển kinh tế
- x hội. Nói cách khác, chính thực tế tồn tại của luật tục hiện nay đ chứng tỏ rằng trong
x hội đang tồn tại những điều kiện kinh tế - x hội khách quan và các quan hệ x hội phù
hợp với sự điều chỉnh của luật tục.
Thứ năm, hiện nay, công tác tự quản trong cộng đồng có nhiều hạn chế, tệ nạn x
hội phát triển nhanh và nhiều hơn, an ninh trật tự ngày càng phức tạp, đoàn kết cộng đồng
không còn được như trước nữa, tài nguyên môi trường bị xâm hại Đứng trước những
thách thức về những ảnh hưởng không tt của nền kinh tế thị trường đi với thuần phong
mỹ tục của các dân tộc, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đ chỉ rõ: "Bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chư viết và thuần
phong mỹ tục của các dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa. Tiếp thu tinh hoa và góp
phần làm phong phú thêm văn hóa của nhân loại" [14]. Đến Đại hội X một lần nữa Đảng ta
lại khẳng định: "Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế-x
hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sng x hội" [15]. Vấn đề vận
dụng luật tục của các dân tộc thiểu s vào quản lý cộng đồng là yêu cầu khách quan, phù
hợp với định hướng lnh đạo của Đảng.
Dak Lăk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên – nơi sinh sng của nhiều dân tộc
thiểu s. Trong những năm qua, với những chính sách ưu đi của Chính phủ, nỗ lực của
chính quyền địa phương, kinh tế - x hội của tỉnh đ có những chuyển biến tích cực. Hiện
nay, nước ta đ đ có hệ thng pháp luật thng nhất sử dụng và cũng có những văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành cho phù hợp với từng vùng dân tộc thiểu s. Điều này giúp
cho nông thôn vùng dân tộc thiểu s phát triển nhanh, vươn tới sự bình đẳng dân tộc như
chính sách của Đảng và Nhà nước ta đ đề ra. Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu đầy đủ hơn,
chọn lọc nhiều hơn những tình tiết của luật tục để soạn thảo ra Bộ luật dân sự thng nhất
của quc gia và cách xét xử phù hợp với phong tục thì việc ổn định x hội vùng dân tộc

thiểu s sẽ tt hơn nữa.[4]
Luật tục gắn liền với vấn đề tự quản ở cộng đồng dân cư và xa hơn là vấn đề dân
chủ của các thành viên trong cộng đồng. Đi với buôn làng truyền thng, tự quản là một
đặc trưng và cũng là hình thức của dân chủ với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Tính chất tự quản này cần được phát huy để làm tăng hiệu lực của công tác
quản lý hành chính.
Tuy nhiên, tự quản vấn đề gì, tự quản đến mức độ nào và nói rộng ra là được phép
vận dụng luật tục đến đâu, đó là vấn đề cần làm rõ.
Do đó, chúng tôi cho rằng cần trả lời các câu hỏi sau:
Thứ nhất, luật tục được hình thành dựa trên những giá trị x hội nào? Tồn tại trong
những điều kiện x hội như thế nào?
Thứ hai, mức độ cần thiết phải vận dụng luật tục bên cạnh luật pháp trong quản lý
cộng đồng tại các buôn làng dân tộc thiểu s như thế nào?
Thứ ba, trong quá trình áp dụng luật tục, mi quan hệ giữa luật tục và luật pháp diễn
ra như thế nào? Có mâu thuẫn không? Và nếu có mâu thuẫn thì phải giải quyết như thế
nào?
Để trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giữa luật tục và luật
pháp trong chế độ tự quản cộng đồng (Nghiên cứu trường hợp Luật tục Êđê trên địa
bàn tỉnh Dak Lăk)” làm luận án của mình.
Dưới cách tiếp cận x hội học, luật tục sẽ được tiếp cận là một hệ thng chuẩn mực
x hội. Sự cưỡng chế hay điều tiết của x hội đi với các cá nhân chủ yếu thông qua các
giá trị và các chuẩn mực. Chuẩn mực x hội là những quy tắc sng và ứng xử, cụ thể hoá
các giá trị mà x hội đ đề cao. X hội điều khiển các thành viên của mình bằng cách làm
cho mỗi người phải tiếp thu và nhập tâm những giá trị nhất định. Từ đó mọi người chấp
nhận một nền đạo lý chung, tôn trong những chuẩn mực chung. Nhờ vậy mà x hội được
cấu kết, thng nhất và duy trì sự tồn tại của mình.
^J*A&bc$&6
Công việc ghi chép, sưu tầm luật tục của các dân tộc Tây Nguyên được bắt đầu bởi
công trình của Léopold Sabatier – công sứ tỉnh Dak Lăk từ năm 1915 đến năm 1929. Sách
Luật tục Êđê được xuất bản bởi nhà xuất bản Hà nội Ideo năm 1927

1
. Cun sách này có
vai trò mở đầu cho các sách về luật tục ở Tây Nguyên.
Năm 1940, L. Sabatier cho xuất bản cun Sưu tầm luật tục người Êđê ở Dak Lăk.
So với cun sách xuất bản năm 1927, cun sách này có bổ sung hoàn chỉnh hơn. Từ năm
1951 đến năm 1963, có một s tác phẩm về luật tục Tây Nguyên của người Pháp được
công b. Nhìn chung, trong một khoảng thời gian ngắn, nhiều tài liệu về luật tục Êđê do
người Pháp sưu tầm đ được công b. Việc làm này nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi
hơn trong quá trình cai trị, vì lợi ích của chính quyền đô hộ Pháp.
Năm 1986, trong đợt sưu tầm nghiên cứu văn hoá dân gian Dak Lăk của Viện
nghiên cứu văn hoá dân gian phi hợp với Sở Văn hoá thông tin tỉnh Dak Lăk, vấn đề luật
tục được đề cập. Trong cun sách Văn hoá dân gian Êđê và Văn hoá dân gian M’nông có
một chương viết về luật tục của các dân tộc này.
Từ năm 1996 đến năm 1999, có một s sách về luật tục đ được xuất bản:
1
Phan Đăng Nhật (2000), Nguồn gốc và bản chất luật tục Tây Nguyên, Luật tục và phát triển nông thôn
hiện nay ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr 65
- Ngô Đức Thịnh – Chu Thái Sơn biên soạn: Luật tục Êđê ( Tập quán pháp), NXb
Chính trị quc gia, Hà nội, 1996.
- Ngô Đức Thịnh chủ biên: Luật tục M’nông, Nxb Chính trị quc gia, Hà nội, 1996.
- Ngô Đức Thịnh – Cầm Trọng: Luật tục Thái, Nxb Chính trị quc gia, Hà nội,
1996.
- Phan Đăng Nhật chủ biên: Luật tục Jrai, Sở Văn hoá thông tin Gia lai xuất bản,
Pleiku, 1999.
Đây là những cun sách được biên soạn công phu, tập hợp tương đi đầy đủ luật tục
của ba dân tộc Êđê, M’nông và Jrai. Điều quan trọng là các tác giả đ ghi tiếng dân tộc,
bên cạnh bản dịch tiếng phổ thông. Các tài liệu trên có ý nghĩa rất quan trọng cho những
người quan tâm nghiên cứu luật tục.
Năm 2000, Trung tâm khoa học x hội và nhân văn quc gia và Ủy ban nhân dân
tỉnh Dak Lăk phi hợp tổ chức Hội thảo khoa học với tiêu đề *>77?&I <N778$[M

7M$ZBd$Z7BQ với sự tài trợ của quỹ Ford. Hội thảo nhận được hơn 60 báo
cáo khoa học, tập trung vào 4 chủ đề lớn:
- Luật tục với việc khai thác và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Luật tục với các quan hệ sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Luật tục với việc xây dựng và củng c các quan hệ x hội và xây dựng đời sng
văn hóa ở cơ sở.
Năm 2004, Nxb Chính trị quc gia đ xuất bản cun sách Văn hoá các dân tộc Tây
Nguyên – Thực trạng và những vấn đề đặt ra. Đây là kết quả nghiên cứu của tập thể tác giả
nhóm đề tài khoa học cấp nhà nước KX.04-05 giai đoạn 2001- 2005 do GS.TS Trần Văn
Bính chủ biên. Công trình nghiên cứu đ đánh giá, phân tích tương đi toàn diện, khách
quan về thực trạng đời sng văn hóa của một s dân tộc thiểu s vùng Tây Nguyên trong
đó có Dak Lăk. Luật tục trong việc bảo vệ bản sác văn hoá dân tộc và xây dựng nông thôn
trong điều kiện hiện nay là một trong những nội dung quan trọng được nghiên cứu và công
b trong cun sách này.
Như vậy, có thể thấy, luật tục của các dân tộc Tây Nguyên đ được nghiên cứu từ rất
sớm. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề vai trò của luật tục trong
quản lý x hội là cần thiết. Đ có nhiều công trình nghiên cứu về luật tục dưới nhn quan
Luật học, Văn hóa học, Dân tộc học Nhiều kết luận khoa học do các nhà nghiên cứu văn
hóa dân gian, các nhà dân tộc học đ được áp dụng vào thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; thực thi pháp luật ở cộng đồng các dân tộc
thiểu s. Tuy nhiên, nghiên cứu mi quan hệ giữa luật tục và luật pháp trong chế độ tự
quản cộng đồng dưới tiếp cận x hội học vẫn là hướng nghiên cứu mới.
eJ?&@f&gQ?&7$$&6
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc vận dụng luật tục Êđê trong chế
độ tự quản cộng đồng trên địa bàn tỉnh Dak Lăk.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
RNhận diện sự tồn tại của luật tục Êđê.
- Tìm ra mi quan hệ giữa luật tục Êđê và luật pháp trong chế độ tự quản cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Dak Lăk.

- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng luật tục Êđê trong chế
độ tự quản cộng đồng trên địa bàn tỉnh Dak Lăk.
hJi$79;I <PQI$$&6
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Mi quan hệ giữa luật tục Êđê và luật pháp trong chế độ tự quản cộng đồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luật tục Êđê, tỉnh Dak Lăk.
jJk@L$&6
R*uật tục Êđê được hình thành dựa trên những giá trị x hội nào? Tồn tại trong
những điều kiện x hội như thế nào? Vì sao sự tồn tại của luật tục Êđê hiện nay mang tính
khách quan?
- Vì sao cần phải vận dụng luật tục Êđê bên cạnh luật pháp nhà nước trong quá trình
quản lý x hội tại các cộng đồng Êđê hiện nay?
- Trong quá trình áp dụng luật tục Êđê , mi quan hệ giữa luật tục và luật pháp diễn
ra như thế nào? Có mâu thuẫn không? Và nếu có mâu thuẫn thì phải giải quyết như thế
nào?
lJ$m7n7$&6
Giả thuyết 1
Điều kiện kinh tế x hội của cộng đồng người Êđê hiện nay vẫn phù hợp cho sự tồn
tại của luật tục Êđê: Nền sản xuất có dáng dấp kinh tế nguyên thuỷ, mang tính chất khép
kín, tự cung, tự cấp với trình độ phân công lao động thấp và li sng cộng đồng.
Giả thuyết 2
Hiện nay, ở cộng đồng người Êđê, việc áp dụng luật tục trong việc quản lý cộng
đồng tương đi phổ biến.
Giả thuyết 3
Những năm qua, cùng với những chuyển biến trong cơ cấu kinh tế - x hội, luật tục
Êđê có những biến đổi cả về nội dung và hiệu lực. Một s quy định của luật tục đ tự tiêu
vong, một s quy định khác bị biến đổi về nội dung hay bị giảm hiệu lực ở mức độ nhất
định.
Giả thuyết 4

Hiện nay, luật tục vẫn tồn tại nhiều quy định lạc hậu, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích
của công dân và cộng đồng, mâu thuẫn với pháp luật nhà nước.
Giả thuyết 5
Trong mi quan hệ với pháp luật, giá trị của luật tục được thể hiện ở ba phương
diện: trong phạm vi nhất định và ở một s lĩnh vực nhất định có khả năng thay thế pháp
luật; bổ sung cho pháp luật trong những điều kiện nhất định; hỗ trợ cho pháp luật trong
nhiều lĩnh vực.
oJ.9K<N<$&6
7.1. Sưu tầm và phân tích tài liệu
Phân tích các nguồn tư liệu về luật tục Êđê, các tài liệu về luật tục, tài liệu do địa
phương cung cấp.
7.2. Phỏng vấn sâu
Dự kiến tiến hành phỏng vấn sâu đi với một s đi tượng:
+ Già làng, trưởng buôn, những người am hiểu sâu về luật tục Êđê.
+ Cán bộ Sở Tư pháp (tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật).
+ Cán bộ chính quyền cơ sở (cán bộ quản lý, tư pháp, hộ tịch, công an).
7.3. Ankét
Dự kiến sẽ tiến hành nghiên cứu định lượng với s lượng 400 phiếu điều tra dành
cho một s đi tượng:
+ Người dân Êđê: 300 phiếu
+ Cán bộ chính quyền cơ sở, trưởng buôn: 200 phiếu
pJKbd=a=>
8.1. Các khái niệm cơ sở
8.1.1. Giá trị xã hội
Giá trị x hội là các nguyên tắc cơ bản định hướng hành động. Giá trị x hội được
hiểu là những quan điểm. thái độ về những điều được mong mun, về những quan niệm
dẫn dắt trong văn hóa, tôn giáo, đạo lý và x hội. Những định hướng giá trị thng trị trong
một x hội là khung cơ bản của văn hóa. Giá trị là những "chỉ dẫn đạo lý" dẫn dắt hành
động con người. Chúng biểu hiện các ý nghĩa và mục tiêu mà các cá nhân và nhóm gắn với
hành động của họ.[5]

Một trong những mục tiêu của luận án là nhận diện sự tồn tại của luật tục Êđê, trong
đó tìm hiểu luật tục Êđê hình thành, tồn tại dựa trên hệ giá trị x hội như thế nào là một nội
dung nghiên cứu.
8.1.2. Chuẩn mực xã hội
Khái niệm chuẩn mực có nguồn gc từ tiếng latinh, có nghĩa là quy tắc, sợi chỉ
xuyên sut. Người ta thấy chuẩn mực có trong đạo đức theo nghĩa các tiêu chuẩn hành vi,
trong mỹ học và logic, trong kỹ thuật và ngôn ngữ hàng ngày.
Khi điều tiết cuộc sng của các cá nhân và các nhóm trọng x hội, các giá trị x hội
được biểu hiện thông qua những chuẩn mực, quy tắc và tập tục x hội. Nói cách khác,
chuẩn mực là những quy tắc sng và ứng xử, cụ thể hoá các giá trị mà x hội đ đề cao.
[10]
Trong luận án, luật tục Êđê được tiếp cận là một dạng chuẩn mực x hội. Ở Việt
Nam hiện nay, trong lĩnh vực quản lý x hội, luật pháp đang được áp dụng với tư cách là
“chuẩn mực chính thức”. Luật tục không được thừa nhận như một nguồn pháp luật. Mặc
dù vậy, luật tục vẫn đang tồn tại và đang được áp dụng trong việc quản lý cộng đồng tại
các buôn, làng.
Vì vậy, trong luận án, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản: Vì
sao cần thiết phải vận dụng luật tục Êđê bên cạnh luật pháp trong quản lý x hội tại các
cộng đồng Êđê hiện nay? Trong quá trình áp dụng luật tục Êđê , mi quan hệ giữa luật tục
và luật pháp diễn ra như thế nào? Có mâu thuẫn hay xung đột gì không? Và nếu có mâu
thuẫn thì phải giải quyết như thế nào?
8.1.3. Luật tục
Luật tục (tập quán pháp, lệ tục ) tương ứng với các thuật ngữ khoa học nước
ngoài: Customary law, traditional law , là một hình thức của tri thức bản địa, tri thức địa
phương (indigenous knowledge, local knowledge).
Khái niệm về luật tục hay tập quán pháp là một hình thức pháp luật cổ xưa nhất, giữ
vai trò thng trị trong các x hội tiền nhà nước. Trên thế giới, từ kiểu nhà nước chủ nô đến
kiểu nhà nước phong kiền, hay ở các nước có chế độ quân chủ trong nhà nước tư sản, luật
tục đ được sử dụng khá nhiều trong hệ thng pháp luật với vai trò là một nguồn luật cơ
bản. Đi với Việt Nam, ngay từ nhà nước đầu tiên thời đại Văn Lang - Âu Lạc, luật chung

của người Lạc Việt căn cứ theo lời tâu của M Viện với vua Hán Quang Vũ ("luật Việt
khác luật Hán mười điều") thì rất có thể đó chính là một thứ luật tục hay tập quán pháp.
Tài liệu dân tộc học cũng cho biết, ở x hội các cư dân Tây Nguyên cũng như ở các x hội
sơ khai khác, mỗi cộng đồng tộc người đều có luật tục (hoặc thành văn, hoặc truyền
miệng). Trong x hội sau này, kể cả dân tộc đa s như dân tộc Kinh cũng có luật tục
(hương ước) và các dân tộc khác đều có luật tục để điều chỉnh quan hệ trong cộng đồng
mình. "Luật tục là những qui tắc xử sự chung mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng
làng x xây dựng nên và được truyền từ đời này sang đời khác".[1] Luật tục phần lớn
mang tinh thần bình đẳng của cả cộng đồng trên các phép tắc tín ngưỡng cổ truyền cho nên
khi có nội dung phù hợp với tiến bộ x hội, trật tự x hội thì được Nhà nước thừa nhận,
còn nếu cổ hủ , lạc hậu, mê tín dị đoan thì sẽ bị Nhà nước cấm đoán. Luật tục có thể tồn tại
bằng truyền miệng hoặc có thể được ghi bằng văn bản. Văn bản luật tục có thể tồn tại dưới
hình thức đơn giản như hương ước, nhưng cũng có thể được xây dựng dưới dạng bộ luật
như bộ luật tục của dân tộc Ê-Đê: 11 chương, 236 điều. Luật tục khác với tập quán thông
thường ở tính bắt buộc thực hiện bởi vì đó chính là pháp luật của các cộng đồng làng x
hoặc của cả một dân tộc thiểu s. Luật tục hay tập quán pháp là một hiện tượng phổ biến
của nhân loại ở thời kì phát triển tiền công nghiệp và còn tồn tại đến ngày nay ở nhiều tộc
người trên thế giới, châu Á và châu Phi. Ở Việt Nam, luật tục của các dân tộc thiểu s và
hương ước của người Việt còn tồn tại khá phổ biến và được nhà nước quan tâm phát triển
những bản sắc truyền thng tt đẹp cùng với việc thừa nhận chúng là một hình thức pháp
luật. Tuy nhiên, luật tục trên thế giới cũng như ở Việt Nam không hoàn toàn ging nhau
mà có nét riêng biệt về tín ngưỡng, tôn giáo, các quan hệ x hội và tục lệ của mỗi cộng
đồng làng x và dân tộc mình.
Chính vì thế, khi thừa nhận luật tục, một trong những việc quan trọng là nghiên cứu
về luật tục để sự quản lí tt hơn về việc tự quản cộng đồng, bảo vệ môi trường, phát triển
kinh tế x hội.
8.1.4. Luật pháp
Pháp luật nảy sinh từ lịch sử và phát triển theo tiến trình riêng. Pháp luật ra đời từ
khi nhà nước xuất hiện. Xét về phương diện khách quan, nhà nước và pháp luật cùng phát
sinh từ một nguồn gc, là kết quả của sự phát triển kinh tế và phân hoá x hội. Xét về

phương diện chủ quan, pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và trở thành một
phương tiện của nhà nước để bảo vệ địa vị của lực lượng thng trị, điều hành và quản lý x
hội. Trong các tổ chức cộng đồng nguyên thuỷ trước đây, quan hệ giữa các thành viên
được điều chỉnh bằng phong tục tập quán, điều chỉnh các quan hệ bình đẳng giữa các cá
nhân trong x hội, gọi là luật tục. Nhưng đến khi x hội có sự phân hoá về giai cấp, nhà
nước được hình thành, quc gia được xác lập, thì luật tục không còn khả năng điều hành
các quan hệ x hội vn luôn phát triển cả về phạm vi, mức độ, và tính chất. Để đáp ứng
nhu cầu khách quan của x hội đó, một loại quy phạm mới đ ra đời, đó là pháp luật.
8.1.5. Cộng đồng
Khái niệm cộng đồng (community) được sử dụng rộng ri trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, x hội (như cộng đồng kinh tế châu Âu, cộng đồng các quc gia Đông
Nam á, cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên ). Theo nghĩa này, cộng đồng vừa mang
những giá trị chung mà mỗi thành viên thừa nhận và tuân theo, vừa tôn trọng sự phát triển
độc lập của mỗi thành viên trong các quan hệ hợp tác với nhau. Ở Việt Nam, khái niệm
cộng đồng được dùng rộng ri trong các lĩnh vực văn hóa, x hội như cộng đồng dân cư,
cộng đồng làng x, cộng đồng văn hóa Theo nhiều nhà khoa học, cộng đồng được hiểu:
"là tập hợp người có tính chất một x hội, chung sng, có nhiều đặc tính của cải và quyền
lợi chung" [5]; "là một tập thể có nhiều thành viên gắn bó với nhau bằng những giá trị
chung. Cộng đồng có một sự c kết nội tại không phải do những qui tắc rõ ràng, những
luật pháp thành văn, mà do những liên hệ sâu hơn: huyết thng, truyền thng " [2]; "là
khi người cùng chung một tổ chức" [3]; "là toàn thể những người sng thành một x hội,
nói chung có những điểm ging nhau, gắn bó thành một khi " [4] Như vậy, qua phân
tích ở trên có thể rút ra khái niệm cộng đồng một cách khái quát nhất, chung nhất như sau:
Cộng đồng là một tập thể, có những thành viên gắn bó với nhau thành một tổ chức và cơ
bản có chung mục đích. Khái niệm cộng đồng có quan hệ với khái niệm tính cộng đồng.
Tính cộng đồng là một yếu t gần như bẩm sinh của con người bởi vì con người có nguồn
gc bầy, cộng với một quá trình tiến hóa dài từ cuộc sng bầy đàn mới sang giai đoạn cá
nhân. Tính cộng đồng cũng trải qua những thay đổi theo sự phát triển của x hội. Lúc đầu,
trong các x hội cổ xưa, tính cộng đồng lấn át tính cá nhân, không công nhận cá nhân như
một thực thể độc lập. Trong x hội có quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển, các quan hệ sở

hữu tư nhân phổ biến, tính cộng đồng chỉ là một mặt của đời sng con người, bên cạnh tính
cá nhân phát triển ngày càng cao. Mi quan hệ giữa tính cộng đồng và tính cá nhân luôn
mang những mâu thuẫn, thậm chí xung đột, nhưng bao giờ cũng có tính hữu cơ, không thể
có tính cá nhân thật sự mà không có tính cộng đồng thật sự và ngược lại. Tìm kiếm một sự
kết hợp ti ưu của tính cộng đồng và tính cá nhân là một đòi hỏi không thể thiếu đi với
mọi học thuyết về sự phát triển x hội. Người ta càng thấy rõ rằng không có những cá nhân
phát triển thì không thể có một cộng đồng tự do của con người, cũng như không có tính
cộng đồng (ý thức trách nhiệm với cộng đồng) thì cũng không thể có các cá nhân phát
triển.
8.2. Cơ sở lý thuyết
8.2.1. Lý thuyết cơ cấu xã hội
Quan điểm hệ thng trong nghiên cứu cơ cấu x hội cho phép chúng ta có thể tiếp
cận các sự kiện và hiện tượng x hội, nhận thức được bản chất của chúng ở hai mặt cơ bản:
Thứ nhất, nhìn được toàn diện cơ cấu x hội, các bộ phận cấu thành giữa chúng, các chiều
cạnh của sự tương tác x hội làm hình thành bộ mặt tổng thể của cơ cấu x hội. Thứ hai, có
thể đi sâu vào những chi tiết, nhìn nhận đúng đắn được bộ mặt thực sự của các bộ phận cấu
thành của cơ cấu x hội mà vẫn không tách rời khỏi toàn bộ hệ thng x hội.
Chính từ cách tiếp cận hệ thng về cơ cấu x hội mà chúng ta có thể phát hiện được
những quy luật cơ bản nhất của sự vận hành của x hội, coi đó như là một quá trình phát
triển lịch sử - tự nhiên. Dựa trên quan điểm hệ thng về cơ cấu x hội, chúng ta có thể thấy
rõ x hội không phải chỉ là sự tập hợp ngẫu nhiên và cơ học giữa các cá nhân đơn lẻ mà là
một hệ thng x hội có cơ cấu phức tạp gồm nhiều hệ thng nhỏ thuộc nhiều lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá… các cấu trúc về giai cấp, dân tộc, gia đình. Các bộ
phận này tồn tại bên nhau không phải theo các phép tính cộng trừ đơn giản mà trên cơ sở
của những mi quan hệ thng nhất và biện chứng.
Bất cứ một hệ thng cơ cấu nào, trong đó có cơ cấu x hội cũng bao hàm trong nó
ba khía cạnh cơ bản nhất, hoặc còn gọi là ba chiều của cơ cấu. Thứ nhất là chiều cơ cấu về
không gian, nói theo quan điểm của A. Comte là “chiều tĩnh học xã hội” hoặc theo quan
điểm của Talcott Parsons là “chiều cơ cấu chức năng . Thứ hai là chiều cơ cấu về thời
gian, nói theo quan điểm của A.Comte là “chiều động học xã hội”, hoặc theo quan điểm

của các nhà cơ cấu chức năng luận là “chiều lịch đại của cơ cấu xã hội”. Và thứ ba là
chiều khu vực hoặc trong sách vở còn gọi là chiều phân bố học.
Luận án sẽ áp dụng lý thuyết cơ cấu x hội để lý giải cộng đồng người Êđê đ tồn
tại và phát triển với các dạng hoạt động tổ chức, quản lý x hội và sự vận hành của những
thiết chế x hội khác nhau như thế nào? Chúng tồn tại trong các mi quan hệ tương tác hữu
cơ, nhân quả với nhau, tạo nên những sự chi phi, ràng buộc hành vi của mỗi con người
trong x hội như thế nào?
8 2.2. Lý thuyết về sự điều tiết xã hội
Quan điểm của Durkheim
Durkheim được xem là nhà x hội học đầu tiên đề xuất vấn đề "tính chuẩn mực của
cái x hội". Đi với cách hiểu của Durkheim, cái x hội tồn tại là một hiện thực có thể xác
định mang tính sự vật, mà cơ sở của nó nằm trong tính chuẩn mực của các ứng xử x hội.
ông xem hiện thực này là thế giới của các sự kiện x hội. Các chuẩn mực x hội trở thành
cái bên ngoài, nó giới hạn ý chí của con người trong quan hệ của họ với nhau. Chuẩn mực
hóa có nghĩa là sự thiết chế hóa các quy tắc và tiêu chuẩn liên quan với nhau. Mỗi sự
chuẩn mực hóa gắn với một sự lựa chọn, điều này là một nguyên tắc cơ bản của sự hình
thành cấu trúc x hội. Các chuẩn mực tạo ra một khuôn khổ cho hành động. Chuẩn mực
thể hiện cái chung, "kiểu điển hình" cửa hành động. Định hướng qua lại của hành động của
nhiều cá nhân và việc xây dựng nên các quan hệ x hội chỉ có thể có được khi các cá nhân
hành động trên cơ sở những tiêu chuẩn và quy tắc được biết và được chấp nhận chung. Các
tiêu chuẩn và quy tắc này được gọi là các chuẩn mực x hội. Chuẩn mực x hội được tiếp
nhận trong quá trình x hội hóa, được nội tâm hóa và được kết ni trong các quá trình thiết
chế hoá.
Các chuẩn mực thể hiện rất đa dạng, có thể hệ thng hóa chúng theo nhiều cách
khác nhau. Chẳng hạn, theo mức độ chặt chẽ và gắn với nó là mức thưởng phạt: các chuẩn
mực buộc phải, cần phải, nên làm. Gắn liền với chuẩn mực là sự phán xử (thưởng phạt).
Sự phán xử luôn gắn với tương tác hành động, bởi nếu không thì hành động không thể tiếp
tục diễn ra và chuẩn mực không có cơ sở tồn tại. Sự củng c các chuẩn mực dẫn đến việc
hình thành những vai trò x hội và kiểu hành động.
Quan điểm của Robert Merton

Theo R.Merton, bất cứ x hội nào cũng đều có những giá trị được gần như mọi
thành viên chấp nhận và chia sẻ. Những giá trị ấy sẽ được các cá nhân nội tâm hóa ở
những mức độ khác nhau như là những mục tiêu cần phải đạt được trong cuộc sng.
Để đạt được những mục tiêu ấy, x hội cũng đưa ra cho cá nhân những phương tiện
được quy định bởi những chuẩn mực của x hội.
Dựa trên quan điểm x hội học về sự điều tiết của x hội, luận án sẽ tiếp cận luật tục
Êđê là một dạng chuẩn mực x hội, trên cơ sở đó tìm hiểu luật tục Êđê được hình thành
dựa trên hệ giá trị x hội nào và mức độ nội tâm hoá luật tục Êđê của người Êđê hiện nay
như thế nào?
qJk78r&UsF$n&tB=>N
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, cấu trúc dự kiến của luận án như sau:
9K`JKbd=a=>
1.1. Các khái niệm cơ sở
1.1.1. Giá trị x hội
1.1.2. Chuẩn mực x hội
1.1.3. Luật tục
1.1.4. Luật pháp
1.1.5. Cộng đồng
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Lý thuyết cơ cấu x hội
1.2.2. Lý thuyết về sự điều tiết x hội
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về sự áp dụng luật tục
1.4. Luật tục trong sự so sánh với luật pháp
9K^Js7u7P$&tB=>77?&@78@ABC 7DEBF*GF
2.1. Cộng đồng Êđê trên địa bàn Dak Lăk
2.2. Sự tồn tại của luật tục Êđê
2.2.1. Cơ sở x hội của sự hình thành luật tục Êđê
2.2.2. Sự tồn tại của luật tục Êđê hiện nay
2.3. Sự cần thiết vận dụng luật tục Êđê trong chế độ tự quản cộng đồng trên địa
bàn tỉnh Dak Lăk

9KeJi$YBZ$XB=>77?&@I =>7<N<78O&n@#7sYm&#
@u78@ABC 7DEBF*GF
3.1 Quan hệ thay thế
3.2. Quan hệ bổ sung
3.3. Quan hệ hỗ trợ
3.1. Mâu thuẫn
-*3
1.  $=$Z$&6 các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX, (2002), Nxb Chính trị Quc gia, Hà Nội.
2. GF$ZP$#$P$C$[7O Yi&=W76, (2006), Nxb Chính trị Quc
gia, Hà Nội, 2006.
3. 8WX(Bg(1993), “Xã hội học nhập môn”, Trường Đại học Tổng hợp
Tp. Hồ Chí Minh.
4.
^J,-'vwxy

eJ*yEz-v*-
hJ1v20{|}~|-
v
 •&O€7•‚ƒ
‚$U
:$$B
` ^ e h j l
1 3.1.1 X X
2 3.1.2 X X X
3 3.1.3
4 3.1.4
5 3.1.5 X X X
6 Báo cáo tiến độ
7 Viết Luận án

8 Bảo vệ Luận án
jJ„*2
lJE21*-'.
oJ…|†E‡
9:$7s&$Z
TRƯƠNG THỊ HIỀN
NGƯỜI ĐƯỢC ĐỀ XUẤT HƯỚNG DẪN
PGS.TS. TRẦN HỮU QUANG

×