Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

nghệ thuật sống 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.2 KB, 71 trang )

Nghệ thuật sống
Nguồn:
Bí quyết
Tôi lấy chồng đã gần 40 năm. Tuổi tác làm cho Scott đẫy đà hơn. Từng là
vận động viên marathon, giờ anh ấy chỉ có thể chậm rãi đi trong hành lang
bệnh viện. Mái tóc anh thưa dần, lưng đã hơi còng xuống vì những năm
tháng lao động vất vả. Thế nhưng ánh mắt vừa dịu dàng vừa sôi nổi của
Scott vẫn khiến tôi muốn kéo anh chạy ùa ra đồng cỏ, hệt như thủa chúng
tôi còn trẻ.
Khi người xung quanh hỏi tôi: "Điều gì khiến cho tình yêu của bạn kéo dài
mãi mãi?", tôi thầm điểm qua trong óc những lý do như sự ràng buộc,
cùng chia sẻ những mối quan tâm, không ích kỷ Còn gì nữa nhỉ? Vui
nhộn, ngạc nhiên. Thỉnh thoảng chúng tôi quay lại cái thời trẻ trung nghịch
ngợm. Mới hôm qua, trong siêu thị, khách mua hàng tròn mắt khi thấy hai
ông bà già (chúng tôi tự cho mình là như vậy) hùng hổ mua hàng như ăn
cướp. Chẳng là chúng tôi chia đôi danh sách những món cần mua và cá
độ xem ai mua xong trước. Scott giành được giải thưởng là một cây kem.
Nhưng mới ăn được mấy miếng thì bị bể mánh: "Ông già" láu cá đã đẩy xe
tới chỗ khuất và nhờ mấy cô bán hàng trong siêu thị lựa hàng giùm.
Tôi yêu Scott vì lúc nào anh cũng tặng tôi những điều ngạc nhiên. Ngày
sinh nhật tôi năm nọ, vừa bước chân về nhà tôi nhìn thấy mẩu giấy dán trên
cửa ra vào. "Có tin nhắn quan trọng trong ngăn kéo bàn trang điểm của
em. Hôn em". Mảnh giấy trong ngăn kéo viết: "Anh vội đi. Em nhớ mở tủ
quần áo ngay kẻo hư hết đồ. Chìa khóa giấu dưới thảm chùi chân trong
bếp". Lo lắng không hiểu đã xảy ra chuyện gì, tôi hớt hãi tra khóa mở tủ.
Scott! Diện một bộ đồ mới cứng, mồ hôi đầm đìa như tắm, chồng tôi đứng
trong tủ, một tay cầm bó hoa tay kia cầm một cái ấm đun nước điện làm
quà!
Giữa chúng tôi có sự hiểu biết. Tôi chẳng phàn nàn nếu thỉnh thoảng sau
những trận bóng rổ, đám đàn ông rủ nhau làm vài vại bia. Anh cũng hiểu


tại sao mỗi năm một lần, tôi giao con cái nhà cửa cho anh cai quản vài
ngày để vượt vài trăm cây số tới chỗ mấy bà chị gái tán gẫu cho sướng
miệng.
Ngoài việc cùng gánh vác những công việc gia đình, Scott cố chia sẻ với tôi
cuộc sống tinh thần. Biết tôi thích tiểu thuyết tình cảm, Scott chịu khó tranh
thủ những lúc ngồi trên máy bay giữa các chuyến công tác để đọc chúng.
Tôi biết anh chỉ thích truyện trinh thám và rùng rợn thôi, nhưng anh đã ép
mình đọc tiểu thuyết tình cảm để tôi có người giãi bày, để tôi không cảm
thấy đơn độc.
Chúng tôi sẵn sàng tha thứ cho nhau. Anh không bao giờ cằn nhằn nếu tôi
vì bực bội ở sở làm mà lỡ to tiếng ở nhà. Và khi anh thú thật là đã để thua
lỗ trong khi dùng tiền tiết kiệm của chúng tôi để đầu tư chứng khoán, tôi
ôm hôn anh và nói: "Kệ nó. Dù sao cũng chỉ là tiền thôi mà, anh yêu".
Làm nghề bác sĩ, cảnh chết chóc hàng ngày có thể làm cho con tim người
ta chai đi, nhưng điều này không xảy ra với Scott. Tuần trước, anh đi làm về
với ánh mắt buồn rầu. Sau bữa cơm tối, để anh chơi với các con một lát rồi
tôi mới kéo anh xuống bếp. Sau một thoáng im lặng, Scott giải thích lý do.
Hôm nay, anh đã chứng kiến một người chồng đứng cạnh vợ đang hấp hối
trên giường bệnh. Nhìn người chồng đau khổ vì bất lực, không thể cứu
được vợ sau 40 năm chung sống, Scott cảm thấy bị dằn vặt. Nghe anh kể,
tôi không cầm được nước mắt. Tôi khóc vì thương người đàn ông bất hạnh
kia, tôi cũng khóc vì mừng rằng trái tim của người mà tôi yêu chưa hề
nguội lạnh.
Truyện Hải Âu và Dương Mai
Louise Dickínon Rich
Bà tôi có một kẻ thù tên là Wilcox. Cả bà tôi và bà Wilcox đều về làm dâu
của hai nhà cách nhau một hàng giậu trên con đường tỉnh nhỏ, nơi mà
nhà cửa lợp mái bằng cây du. Hai bà đã về làm dâu và sống suốt đời ở đó.
nhà cửa lợp mái bằng cây du. Hai bà đã về làm dâu và sống suốt đời ở đó.
Tôi không biết điều gì đã khiến hai bà trở thành kẻ thù địch của nhau từ

thủa tôi chưa ra đời - và tôi nghĩ rằng khi tôi có mặt và lớn lên - 30 năm sau
- chính hai bà cũng không còn nhớ được điều gì đã gây nên cuộc chiến,
nhưng hai bà vẫn khiêu chiến gay gắt!
Tôi không nói sai sự thực. Ðây không phải là cuộc đấu khẩu tầm thường,
mà đây là cuộc chiến toàn diện giữa các bà. Không có nơi nào trong tỉnh
nhỏ này mà không bị ảnh hưởng của cuộc chiến đấu: ngôi nhà thờ ba trăm
năm, vững chãi qua cuộc cách mạng nội chiến, và rồi cuộc chiến tranh
giữa nước Mỹ với Tây Ban Nha, hầu như phải lung lay khi hai bà tiến hành
cuộc chiến trong tổ chức tương trợ phụ nữ trong giáo hội. Bà tôi thắng cuộc
chiến ấy, nhưng chiến thắng đó là một chiến thắng chỉ mang tiếng bên
ngoài mà thôi. Bà Wilcox phải từ chức khỏi tổ chức này vì không làm chủ
tịch được.
Bà Wilcox lại chiến thắng trong cuộc chiến ở thư viện tỉnh, khi vận động để
cháu gái bà tên Gertrude được bổ nhiệm thủ thư thay vì cô tôi là Phyllis.
Ngày mà cô Gertrude nhậm chức là ngày mà bà tôi ngưng đọc sách thư
viện. Qua một đêm, sách của thư viện đã trở thành những thứ "ố bẩn" đối
với bà. Bà tôi bắt đầu bỏ tiền mua lấy sách để đọc.
Trận chiến ở trường học là trận hòa không phân thắng bại. Hiệu trưởng
trường xin được một công việc tốt hơn trước khi bà Wilcox vận động để
tống khứ ông đi, hay trước khi bà tôi vận động giữ ông lại làm việc suốt đời
ở đó.
Ngoài những trận chiến chính này, hai bà còn có những cuộc đột kích và trả
đũa ngang qua biên giới. Khi còn nhỏ, chúng tôi thăm bà, và một phần
sinh hoạt vui chơi hồi đó là khiêu khích lũ cháu hỗn láo của bà Wilcox -
(hỗn láo giống như chúng tôi!) - hái trộm nho của bà, những chùm nho
mọc giữa hàng rào của hai người. Chúng tôi cũng đuổi gà của bà Wilcox,
và đặt thuốc súng ở đường ray xe điện, ngay trước nhà bà Wilcox, hy vọng
khi xe chạy ngang thuốc sẽ nổ làm bà Wilcox hoảng hồn cho vui.
Vào một ngày cao trào, chúng tôi thả rắn vào thùng đựng nước mưa của bà
Wilcox. Bà tôi phản đối tượng trưng, nhưng chúng tôi cảm nhận được sự

Wilcox. Bà tôi phản đối tượng trưng, nhưng chúng tôi cảm nhận được sự
thông cảm ngầm của bà. Sự phản đối này rất khác biệt với tiếng trả lời
"không" của mẹ tôi, nên chúng tôi vui vẻ tiếp tục với trò nghịch ngợm của
chúng tôi. Nếu con tôi mà Nhưng đó là chuyện khác.
Ðừng vội nghĩ đây là một cuộc chiến tranh khiêu chiến bởi một phía. Bà
Wilcox cũng có một đàn cháu nữa chứ. Bọn chúng khỏe mạnh và tinh khôn
hơn chúng tôi nữa là khác. Bà nội chúng tôi làm sao mà tránh khỏi sự trả
đũa của chúng vào ngày lễ Halloween: Bàn ghế đồ đạc bỏ quên ngoài
vườn, sáng hôm sau được thấy nằm hết trên mái của kho thóc, và bà tôi
phải mất nhiều tiền mướn những người đàn ông khỏe mạnh để đưa
chúng xuống.
Vào những ngày không có gió, ấy thế mà dây phơi quần áo lại bị đứt một
cách bí ẩn, khiến những tấm trải giường bị lấm đất phải mang đi giặt lại.
Một số chuyện bí ẩn đó xảy ra là mọi người nghĩ đến lũ cháu của bà Wilcox.
Tôi không hiểu sao bà tôi lại có thể chịu đựng nổi những nghịch ngợm
quấy quả đó! May là bà có một trang báo "gia đình" trong tờ nhật báo
Boston để đọc cho khuây khỏa.
Trang gia đình là một trang rất hấp dẫn. Ngoài việc đăng tải những bí quyết
về nội trợ, nấu ăn, lau chùi, còn có một cột hộp thư đăng những lá thư của
độc giả viết cho nhau. Mục đích của cột này là khi người ta gặp vấn đề hay
chuyện bức xúc, người ta có thể viết thư đăng báo, ký tên bằng những bút
hiệu riêng, tỷ như bút hiệu của bà tôi là cây Dương Mai. Rồi người khác đã
từng gặp vấn đề giống vậy sẽ viết thư trả lời giải thích kinh nghiệm của
mình ký tên bằng bút hiệu riêng. Thường thường khi vấn đề giải quyết
xong, mọi việc chìm vào dĩ vãng, thì người ta tiếp tục viết thư cho nhau trao
đổi những vấn đề khác như con cái, nhà cửa, nội trợ.
Bà tôi bị lôi cuốn vào sinh hoạt này. Bà và một bà khác bút hiệu là Hải Âu
đã thư từ trao đổi với nhau hơn hai chục năm, và bà tôi đã trao đổi với Hải
Âu những chuyện mà bà không bao giờ hé răng với một người khác. Tỷ
như có lần bà muốn sanh thêm một người con nữa, nhưng đã không

sanh; một lần khác chú tôi, chú Steve đã bị lây chí ở trường, và bà tôi rất
mắc cỡ, dù là bà đã cố gắng chữa trị cho chú tôi để mọi người không biết
mắc cỡ, dù là bà đã cố gắng chữa trị cho chú tôi để mọi người không biết
đến. Hải Âu đích thực là người bạn tri kỷ của bà tôi.
Khi tôi được 16 tuổi, bà Wilcox qua đời. Ở một tỉnh nhỏ như tỉnh này, bất kể
người ta có ghét người hàng xóm đến mức nào đi chăng nữa, cách xử thế
đúng đắn thông thường là phải chạy qua để xem người ta có thể giúp gì
được cho gia đình có người chết.
Bà tôi, gọn ghẽ trong cái tạp dề dường như có ý chứng tỏ là bà chuẩn bị
nấu ăn, bước băng qua hai bồn bông để qua nhà bà Wilcox. Lúc ấy con gái
của bà Wilcox đành nhờ bà tôi sắp xếp hộ gian ngoài tiếp khách. Và ở đó,
trên bàn của phòng tiếp khách là một tập sách lớn dùng để dán sưu tập
báo, trong sách sưu tập này, được dán gọn gàng theo cột, là thư từ của bà
tôi gửi cho Hải Âu và thư của Hải Âu gửi lại cho bà. Kẻ thù ghê gớm nhất
của bà tôi lại chính là người bạn tốt nhất của bà tôi bấy lâu nay.
Ðó cũng là dịp duy nhất mà tôi thấy bà tôi khóc, lúc ấy tôi không nhớ chính
xác là bà khóc lóc điều gì, nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Bà đã khóc cho
những năm dài phung phí trôi qua không bao giờ có thể vớt vát được. Lúc
đó tôi đã bị ấn tượng mạnh mẽ bởi nước mắt của bà, mà đã làm cho tôi
không thể quên được ngày ấy. Ðó là ngày mà tôi bắt đầu ý thức được rằng:
Có những người chúng ta có thể không chấp nhận họ được. Họ có thể là
bần tiện và nhỏ mọn, nhưng nếu bạn bước sang bên trái mười bước và
nhìn lại, với ánh sáng chiếu ở một góc độ khác, có thể bạn sẽ thấy người
đó rộng rãi, hào phóng và tử tế. Còn tùy thuộc vào góc cạnh chúng ta đứng
nhìn họ.

Truyện này do bạn Khắc Trọng (Email: ) gởi đến
Xitrum.net
Ga cuối
Rober J.Hastings

Chìm sâu trong tiềm thức của chúng ta là một hình ảnh hoàn hảo về cuộc
sống! Chúng ta hãy tưởng tượng mình đang đi trên một cuộc hành trình
sống! Chúng ta hãy tưởng tượng mình đang đi trên một cuộc hành trình
bằng xe lửa xuyên qua lục địa. Chúng ta băng qua cảnh xe hơi chạy trên xa
lộ, cảnh trẻ em vẫy chào trên đường băng qua phố, cảnh sườn đồi xanh
mướt xa xa có đàn bò gặm cỏ, cảnh khói trắng tuôn ra từ nhà máy, cảnh
bình nguyên, thung lũng hẹp, núi đồi chen nhau, cảnh đường chân trời và
làng mạc.
Nhưng ngự trị cao nhất trong tâm trí chúng ta là cảnh ga cuối cùng. Vào
một ngày nào đó, một giờ nào đó chúng ta sẽ vào sân ga cuối. Cờ được
vẫy chào và nhạc sẽ được cử lên. Khi chúng ta tới đó, ước mơ thành hiện
thực và cuộc sống sẽ hoàn chỉnh giống như hoàn thiện một truyện tranh
lắp ghép hình. Chúng ta vẫn chờ đợi giờ phút tới ga cuối, đi không biết mệt
mỏi và không chút nghỉ ngơi.
"Tới nơi rồi đây" - chúng ta reo lên. "Khi tôi mười tám tuổi", "Khi tôi mua một
chiếc Mercedes Benz 450SL", "Khi con út tôi vào đại học", "Khi tôi trả hết
tiền thế chấp", "Khi tôi được đề bạt thăng chức", "Khi tôi đến tuổi hưu" tôi
sẽ sống thoải mái.
Chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ ý thức được là không có một chỗ đích
nào để chúng ta đến. Vui thú của cuộc sống là trên chuyến đi. "Ga Cuối" chỉ
là một giấc mơ, và thường vượt quá tầm với của chúng ta.
"Vui hưởng với thực tại đi" là một phương châm. "Thực tại không phải là
gánh nặng của hôm nay mà làm cho ta điên dại. Chúng cũng không phải
là sự nuối tiếc quá khứ và sự sợ hãi của tương lai. Nuối tiếc và sợ hãi là
hai nguyên nhân song sinh cướp đi mất vui thú thực tại của chúng ta".
Nên đừng vội rong ruổi đếm mau những dặm đường, mà hãy để thời gian
leo núi, tắm sông, ngắm nhìn hoàng hôn, vui nhiều, buồn nhiều. Cuộc
sống phải được tận hưởng mỗi ngày. Rồi ta sẽ tới đích.

Truyện này do bạn Khắc Trọng (Email: ) gởi đến

Xitrum.net
Nhớ đến tôi
Robert N.Test
Ngày ấy sẽ đến, khi thân xác tôi nằm trên một chiếc giường phủ drap trắng
trong một bệnh viện đầy ắp những người sống và những người đang hấp
hối. Chẳng bao lâu bác sĩ sẽ quyết định rằng bộ não tôi ngưng hoạt động
và rằng thực tế là cuộc sống của tôi đã chấm dứt.
Khi điều đó xảy ra, đừng cố gắng giúp tôi một cuộc sống nhân tạo bằng
việc sử dụng máy móc. Ðừng gọi chiếc giường này là giường chết mà hãy
gọi nó là chiếc giường của cuộc sống, và hãy mang thân xác tôi ra khỏi
giường để giúp đỡ những kẻ khác có cuộc sống vẹn toàn hơn.
Hãy lấy thị giác của tôi cho người đàn ông chưa bao giờ được nhìn thấy
ánh mặt trời lúc bình minh, một gương mặt trẻ thơ hay tình yêu trong ánh
mắt của người phụ nữ. Hãy đưa trái tim của tôi cho người có trái tim tim bị
đau đớn trong những ngày tháng vô tận. Hãy lấy máu của tôi cho một thiếu
niên vừa được kéo ra khỏi đống vụn xe sau tai nạn để cháu có thể sống
mà nhìn thấy hậu sinh của mình. Hãy đưa trái thận của tôi cho một người
phải lệ thuộc vào máy để sinh tồn từ tuần này sang tuần khác. Hãy lấy
xương của tôi, lấy từng bắp thịt, thớ thịt và từng sợi dây thần kinh trong thân
xác tôi và tìm cách giúp một đứa trẻ tàn tật có thể đi được.
Tìm kiếm trong từng góc cạnh của bộ não tôi. Hãy lấy những tế bào nếu
cần thiết hãy để nó phát triển để đến một ngày nào đó, một cậu bé không
biết nói sẽ la lớn và một cô bé bị điếc có thể nghe được tiếng mưa rơi trên
cửa sổ.
Hãy đốt những gì còn lại của tôi và rải tro vào gió để giúp cho những bụi
hoa nở rộ.
Nếu phải chôn một thứ gì đó, hãy chôn đi những lỗi lầm của tôi, sự yếu
đuối của tôi và tất cả những thành kiến nhân loại.
Hãy đưa những tội lỗi của tôi cho quỷ dữ. Hãy gửi linh hồn của tôi cho
thượng đế.

thượng đế.
Nếu tình cờ bạn mong muốn nhớ đến tôi, bạn hãy có những lời nói hoặc
việc làm thật tử tế đối với những người cần bạn. Nếu bạn làm được như
vậy tôi sẽ còn sống mãi mãi.

Cảm ơn bạn Khắc Trọng (Email: ) đã gởi truyện này
đến Xitrum.net
Đánh nhau bằng gậy
Trong một tiết học của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp
xem bức tranh mô tả thân phận con người của Goya, họa sĩ nổi tiếng
người Tây Ban Nha. Bức tranh mang tên Đánh nhau bằng gậy.
Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người
cầm trên tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo
vệ mặt mình. Nền trời trong xanh không để lộ một nét gì sắp xảy đến.
Người ta không đoán được trời sắp dông bão hay sáng rực nữa.
Cả lớp nhốn nháo. Ai nấy đều lao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên
nói đây là bức tranh diễn tả định luật bảo tồn của con người: “Đấu tranh
bảo tồn sinh mạng”. Sinh viên khác: "Bức tranh diễn tả mục đích của con
người là muốn hạnh phúc vì hạnh phúc là đấu tranh". Sinh viên khác nữa
lại phân tích: "Bức tranh muốn diễn tả chân lý con người là động vật có lý
trí, vì chỉ có thú vật mới cắn nhau mà ở đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau
bằng gậy".
Vị giáo sư ra hiệu cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát
thật kỹ một lần nữa. Cả lớp im ăng ắng. Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi
nói: "Thoạt nhìn ai cũng nghĩ đây chỉ là bức tranh tầm thường như những
bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức
tranh: hai người nông dân đang hằm hằm sát khí để loại trừ nhau lại đang
mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi đến, cát bụi đang kéo tới phủ lấp
hai người đến quá đầu gối mà hai người không ai hay biết".
Vị giáo sư ngừng lại hồi lâu rồi nói tiếp: "Goya muốn cho chúng ta thấy

rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú
dùi cui giáng vào nhau mà do cát bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng
thay vì giúp nhau để thoát khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào loài
thú dữ: họ cắn xé nhau. Bức tranh trên đây của danh họa Goya nói lên
phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau
để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, đói khổ, động đất, khủng bố, chiến
tranh… thì con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.
Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của
các bạn, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương
quan của ta với người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại
trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm nơi từng con người.
Một trong những cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ
thù ấy trở thành một người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa
tứ phía, ta hãy liên đới để bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh
này".
Bobsy
Jack Canfield & Mark V. Hansen
Người mẹ trẻ 26 tuổi nhìn xuống đứa con đang bị bệnh bạch cầu đến giai
đoạn chót. Mặc dù trái tim người mẹ tràn ngập đau khổ, cô vẫn có sự quả
quyết mạnh mẽ. Như mọi cha mẹ khác, cô rất muốn con mình lớn lên và
đạt được mọi ước mơ của mình. Bây giờ thì chuyện đó không thể có được
nữa. Bệnh bạch cầu không cho phép con cô thực hiện ước mơ của mình.
Nhưng cô vẫn muốn tạo ra cho con một điều kỳ diệu. Cô nắm lấy tay con và
hỏi "Bobsy, con có bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ trở thành gì khi lớn lên
không? Con có mơ ước về điều mà con sẽ làm trong cuộc đời mình?"
"Mẹ à, con vẫn ước mơ sẽ trở thành lính cứu hỏa khi con lớn lên."
Người mẹ mỉm cười "Hãy chờ xem chúng ta có thể làm cho ước mơ đó trở
thành sự thật hay không." Trong ngày hôm đó, cô đi đến đội cứu hoả khu
thành sự thật hay không." Trong ngày hôm đó, cô đi đến đội cứu hoả khu
vực cua Phoenix, Arizona. Ở đó cô gặp Lính cứu hoả Bob, người có trái tim

lớn hơn cả thành phố Phoenix. Cô giải thích ước mơ của con mình và xin
cho con cô được đi một vòng trên xe cứu hỏa.
Người lính cứu hỏa Bob nói "Xem này, chúng tôi có thể làm hơn thế nữa.
Nếu cô có thể chuẩn bị cho con vào 7 giờ sáng thứ Tư, chúng tôi sẽ cho
cậu bé trở thành lính cứu hỏa danh dự của cả ngày. Cậu bé có thể tới trạm
cứu hỏa, ăn cùng chúng tôi, chạy cùng chúng tôi tới tất cả các vụ cứu hoả
trong ngày. Và nếu cô cho chúng tôi kích cỡ của con cô, chúng tôi sẽ làm
cho cậu bé một bộ đồng phục lính cứu hỏa dành riêng cho cậu, với một cái
mũ cứu hỏa - không phải là đồ chơi - với phù hiệu lính cứu hoả Phoenix
trên đó, một bộ áo nhựa màu vàng như của chúng tôi và ủng cao su. Tất cả
đều được làm tại Phoenix nên chúng ta sẽ có rất nhanh thôi." Ba ngày sau
người lính cứu hỏa Bob đến đón Bobsy, mặc cho cậu bộ đồng phục của
lính cứu hỏa và đưa cậu từ giường bệnh đến chiếc xe cứu hỏa đang chờ.
Bobsy ngồi ở ghế sau và giúp lái chiếc xe về đến trạm. Cậu bé cảm thấy
như đang ở trên thiên đường. Hôm đó có ba cú điện thoại gọi cứu hỏa và
Bobsy tham dự cả ba cuộc xuất quân. Cậu đi trên một chiếc xe cứu hoả
khác, một chiếc xe y tế, và cả trên chiếc xe của Chỉ huy lính cứu hỏa. Cậu
còn được đài truyền hình địa phương quay phim.
Với giấc mơ trở thành sự thật, với tất cả tình yêu và sự quan tâm săn sóc
mà mọi người dành cho, Bobsy vô cùng xúc động và hạnh phúc đến mức
mà cậu đã sống thêm được ba tháng – một thời gian dài hơn mức tất cả
các bác sĩ tiên đoán.
Một đêm nọ, tất cả các dấu hiệu sự sống của cậu bé tụt xuống một cách
đột ngột. Người y tá trưởng nhớ đến ngày mà Bobsy sống như một lính
cứu hỏa, cô gọi cho chỉ huy lính cứu hỏa và hỏi có thể gửi một người lính
cứu hỏa trong đồng phục đến với cậu trong lúc này hay không. Người chỉ
huy trả lời, "Chúng tôi sẽ có mặt ở đó trong vòng 5 phút nữa. Cô có thể giúp
chúng tôi một việc được không? Khi cô nghe tiếng và ánh chớp phát ra từ
xe cứu hỏa chạy đến thì xin cô hãy thông báo qua radio cho toàn bệnh viện
nghe rằng đó không phải là có báo động cháy. Đó chỉ là đội cứu hỏa đến

để chia tay với một trong trong những thành viên tuyệt vời nhất của mình.
Và xin cô hãy mở cửa sổ của phòng cậu bé. Xin cám ơn."
Và xin cô hãy mở cửa sổ của phòng cậu bé. Xin cám ơn."
Khoảng 5 phút sau, chiếc xe cứu hỏa với cả móc và thang chạy đến bệnh
viện. dựng cái thang lên cho đến cửa sổ phòng Bobsy ở lầu 3, 14 lính cứu
hỏa nam và 2 lính cứu hỏa nữ trèo qua thang vào phòng của Bobsy. Được
mẹ cậu bé cho phép, họ ôm cậu và nói với cậu bé rằng họ rất yêu cậu.
Với hơi thở cuối cùng trong cuộc đời mình, Bobsy nhìn lên người chỉ huy và
nói "Thưa chỉ huy, vậy cháu là lính cứu hỏa thật sự phải không?"
"Phải, cháu là lính cứu hỏa thật sự." người chỉ huy nói.
Với những lời nói đó, Bobsy mỉm cười và nhắm mắt lại mãi mãi.
Sắc màu của tình bạn
Có một ngày sắc màu của thế giới này bắt đầu tranh luận với nhau xem ai
có gam màu đẹp nhất, quan trọng nhất, hữu dụng nhất và được yêu thích
nhất.
Xanh lá cây nói: "Tôi quan trọng nhất. Tôi là dấu hiệu của sự sống và hy
vọng. Tôi được chọn màu cho cỏ cây, hoa lá. Không có tôi, tất cả mọi loài
trên thế gian này sẽ không thể tồn tại. Cứ hãy nhìn về cánh đồng kia, bạn
sẽ thấy một màu xanh bạt ngàn của tôi".
Xanh dương chen vào: "Bạn có nghĩ về trái đất. Vậy bạn hãy nghĩ về bầu trời
và đại dương xem sao. Nước chính là nguồn sống cơ bản nhất, được tạo
ra bởi những đám mây hình thành bởi những vùng biển rộng lớn này. Hơn
nữa, bầu trời sẽ cho khoảng không rộng lớn, hòa bình và sự êm ả".
Màu vàng cười lớn: "Ôi các bạn cứ quan trọng hóa. Tôi thì thực tế hơn, tôi
đem lạ tiếng cười, hạnh phúc và sự ấm áp cho thế giới này. Này nhé, mặt
trời màu vàng, mặt trăng màu vàng và các vì sao cũng màu vàng. Mỗi khi
bạn nhìn vào một đóa hướng dương, bạn sẽ cảm thấy cả thế giới này đang
mỉm cười. Không có tôi cả thế giới này sẽ không có niềm vui".
Màu cam lên tiếng: "Tôi là gam màu của sự mạnh khoẻ và sức mạnh. Mặc
dù lượng màu của tôi không nhiều bằng các bạn, nhưng tôi mới đáng giá

nhất vì tôi là nhu cầu của sự sống. Tôi mang đến hầu hết các vitamin tối
quan trọng như cà rốt, cam, xoài, bí ngô, đu đủ Tôi không ở bên ngoài
nhiều nhưng khi bình minh hay hoàng hôn xuất hiện là màu sắc của tôi. Ở
đây có bạn nào sánh kịp được với vẻ đẹp ấy không ?".
Màu đỏ không thể nhịn được cũng nhảy vào cuộc: "Tôi là máu, cuộc sống
này là máu. Tôi là màu sắc của sự đe dọa nhưng cũng là biểu tượng của
lòng dũng cảm. Tôi mang lửa đến cho con người. Tôi sẵn sàng chiến đấu
vì mục đích cao cả. Không có tôi, trái đất này sẽ trống rỗng như mặt trăng.
Tôi là sắc màu của tình yêu và đam mê, của hoa hồng đỏ, của hoa anh
túc".
Màu tím bắt đầu vươn lên góp tiếng: "Tôi tượng trưng cho quyền lực và lòng
trung thành. Vua chúa thường chọn tôi vì tôi là dấu hiệu của quyền năng và
sự xuất chúng. Không ai dám chất vấn tôi. Họ chỉ nghe lệnh và thi hành!".
Cuối cùng, màu chàm lên tiếng, không ồn ào nhưng đầy quyết đoán: "Hãy
nghĩ đến tôi. Tôi là sắc màu im lặng và hầu như không ai chú ý đến tôi.
Nhưng nếu không có tôi thì các bạn cũng chỉ là vẻ đẹp bên ngoài. Tôi
tượng trưng cho suy nghĩ và sự tương phản, bình minh và đáy sâu cả biển
cả. Các bạn phải cần đến tôi để cân bằng cho bề ngoài của các bạn. Tôi
chính là vẻ đẹp bên trong".
Và cứ thế các sắc màu cứ tiếp tục tranh luận, thuyết phục màu khác về sự
trội hơn của mình. Bỗng một ánh chớp sáng lóe trên nền trời, âm thanh dữ
dội của sấm sét và mưa bắt đầu nặng hạt. Các sắc màu sợ hãi đứng nép
sát vào nhau để tìm sự ấm áp.
Mưa nghiêm nghị nói: "Các bạn thật là ngớ ngẩn khi chỉ cố gắng vật lộn với
chính các bạn. Các bạn không biết các bạn được tạo ra từ một mục đính
thật đặc biệt, đồng nhất nhưng cũng khác nhau? Các bạn là những màu
sắc thật tuyệt vời. Thế giới này sẽ trở nên nhàm chán nếu thiếu một trong
các bạn. Nào, bây giờ hãy nắm lấy tay nhau và bước nhanh đến tôi".
Các màu sắc cùng nắm lấy tay nhau và tạo thành những màu sắc đa dạng.
Mưa tiếp tục: "Và từ bây giờ, mỗi khi trời mưa tất cả các bạn sẽ vươn ra bầu

trời bằng chính màu sắc của mình và phải hợp lại thành vòng để nhắc nhở
rằng các bạn phải luôn sống trong hòa thuận, và ta gọi đó là cầu vồng. Cầu
vồng tượng trưng cho niềm hy vọng của ngày mai".
Và cứ như thế mỗi khi trời mưa, để gội rửa thế giới này, trên nền trời sẽ
ánh lên những sắc cầu vồng làm đẹp thêm cho cuộc sống, để nhắc nhở
chúng ta phải luôn luôn tôn trọng lẫn nhau.
Cậu bé chờ thư
Louise Baker
Hồi đó tôi làm giáo sư một trường trung học con trai. Một học sinh tên là
Bob, trái hẳn với các bạn, không bao giờ nhận được một bức thư nào cả.
Vậy mà buổi chiều nào em cũng mau chân nhất, chạy lại chỗ đặt các hộc
riêng chăm chú ngó vào hộc của em cho tới khi thư phát hết rồi mới quay
ra.
Không phải là gia đình em quên em đâu. Tiền ăn ở trong trường, tiền tiêu
vặt của em vẫn gởi tới đều đều đúng hạn. Tháng sáu, ông Hiệu trưởng
nhận được thư xin cho em đi nghỉ ở một trại hè. Thì ra viên thư ký của thân
phụ em lãnh nhiệm vụ lo cho em tất cả những chi tiết dó.
Nhưng song thân em không ai viết cho em một bức thư nào cả. Khi em kể
lể với tôi rằng ba má em đã ly thân nhau, tôi mới hiểu tất cả nguyên do. Và
tội nghiệp em, em vẫn tiếp tục trông thư một cách tuyệt vọng. Tôi thường
đem tình cảm sầu thảm của em ra nói với một ông bạn đồng nghiệp, ông
Joe Hargrove. ông ấy bảo:
- Nếu em đó ít lâu nữa mà không nhận được bức thư nào cả thì đáng ngại
cho em lắm, có thể tai hại.
Thế rồi một bạn học thân nhất của em, tên là Laurent nảy ra một sáng kiến.
Thế rồi một bạn học thân nhất của em, tên là Laurent nảy ra một sáng kiến.
Laurent ở trong một gia đình hòa thuận, có hạnh phúc, tuần nào cũng nhận
được nhiều bức thư của cha mẹ, cả của anh chị em nữa. Một hôm Bob rầu
rĩ ngó xấp thư Laurent cấm trong tay. Laurent thấy vậy, bảo ngay:
- Bob, vô trong phòng tôi di, tôi đọc thư của má cho Bob nghe.

Một lát sau tôi thấy hai em ngồi sát nhau cùng bàn tán về bức thư đó.
Chiều hôm sau tôi nhận thấy khi phát thư, Bob chẳng những ngó hộc của
em mà còn ngó hộc của Laurent nữa. Bob hỏi bạn:
- Lại có thư của má anh nữa hả?
- Không, hôm nay là thư của chị tôi.
Rồi Bob hỏi một bạn khác:
- Anh có thư của má anh không?
- Có !
- Anh cho tôi đọc chung với nhé?
- Ừ! Để tôi đọc lớn tiếng lên nhé!
Từ hôm đó, Bob tha hồ đọc thư của bạn. Khắp tứ phía nhao nhao lên:
- Ê, Bob, hôm nay muốn đọc thư của má không?
Tụi con trai đôi khi có vẻ tàn nhẫn, không giữ ý gì cả, nhưng tuyệt nhiên tôi
không thấy một em nào thốt một lời mỉa mai bóng gió hay chế giễu gì em
Bob cả. Một hôm tôi kinh ngạc nghe em Bob tự do hỏi ngay Laurent:
- Hôm nay chúng mình có thư không?
Như vậy có dễ thương không chứ! Nên thưởng cho các em nhiều kẹo,
nhiều bi mới phải ! Laurent mỉm cười đáp liền, không hề do dự:
nhiều bi mới phải ! Laurent mỉm cười đáp liền, không hề do dự:
- Có, hôm nay chúng mình có một bức.
Chuyện đó làm cho ông Joe Hargrove quyết tâm hành động. Tôi thì tôi cho
má em Bob là hạng người ra sao rồi. Nhưng ông Joe đã gặp bà ta nhiều
lần, định làm liều xem sao. Một hôm ông ta lại kiếm tôi, tay cầm sáu bức
thư đánh máy và sáu bao thư đề địa chỉ của Bob, dán cò sẵn sàng. ông ta
bảo:
- Coi này, tôi gởi cho bà Lennoux đây. Bà ta chỉ cần ký tên: "Má của con" rồi
mỗi tuần bỏ một bức vào thùng thư.
Tôi đọc những bức thư đó. Viết được lắm, ít bữa sau, Bob cũng lại ngong
ngóng đợi ở chỗ đặt các hộc riêng, nhưng chú hết ý vào cái hộc của
Laurent. Bỗng học sinh lãnh việc phát thư, la lên:

- Ê, Bob, mày có thư này ! Có thư này!
Bob nhẹ nhàng đưa hai tay lên, cử chỉ y hệt một thiên thần đương cầu
nguyện, để đỡ lấy bức thư. Em nói ,như thể vẫn chưa tin:
- Ờ có tên tôi ngoài bao thư nè!
Rồi em la lên:
- A ! Tôi cũng có thư! Tôi cũng có thư! Anh em ơi, có ai muốn đọc thư của
tôi không?
Những đứa khác cũng vui mừng, đồng thanh la lớn:
- Có ! Có ! Bob, đọc thư của bồ lên, đọc lên?
Cuộc phát thư tức thì tạm ngưng lại. Chúng đun Bob lên cho đứng trên một
cái bàn rồi cả bọn vây chung quanh. Bob ngập ngừng đọc:
- Con cưng của má !
- Con cưng của má !
Rồi ngẩng lên nói:
- Tôi không đọc nhanh được !
Laurent bảo:
- Không sao, Bob! Cứ đọc chầm chậm, càng tốt. Đọc chậm mới hiểu rõ
từng chữ chớ.
Và Bob chậm chạp đọc bức thư đó, lời lẽ âu yếm như bức thư của bất kỳ bà
mẹ nào gởi cho con.
Tháng sáu, buổi phát phần thưởng, tôi thấy má em Bob lại dự. Tôi không
ngạc nhiên về điều đó vì, sau khi gởi hết mấy bức thư ông Joe viết sẵn cho
rồi, bà ta đích thân viết cho con , quả là một phép màu ! Bob đã cho tôi coi
bức thư bà báo trước sẽ tới dự buổi lễ. Phát phần thưởng xong, bà ta kéo
tôi ra một chỗ, hỏi tôi:
- Bà thấy thư tôi viết cho cháu được không?
- Được lắm!
Bà ta nói tiếp giọng hơi ngập ngừng:
- Tôi nhờ bà nói về tôi cho cháu Bob nghe
- Vợ chồng tôi đã hòa thuận với nhau hơn trước, và chúng tôi tính với nhau

nghỉ hè này cho cháu về nhà, và chúng tôi sẽ tìm cách hiểu cháu hơn.
- Xin bà yên tâm, tôi sẽ hết sức giúp bà.
Tôi có cần gì nói thêm rằng không có công việc nào làm cho tôi vui bằng
công việc đó không?
Shmily
Ông bà tôi đã cưới nhau được hơn nửa thế kỷ và họ cứ luôn hay chơi một
trò đặc biệt của họ hằng ngày. Mục tiêu của trò chơi là một người phải viết
từ "shmily" ở một bất ngờ quanh nhà ,còn người kia sẽ đi tìm.
Ông bà bôi từ đó lên gờ cửa sổ. Nó được viết lên hơi nước còn đọng lại
trên gương sau vòi nước nóng. Thậm chí, có lần bà còn lật từng tờ của tập
giấy nháp trên bàn để tìm thấy "shmily" trên tờ cuối cùng. Những mảnh giấy
nhỏ với chữ "shmily" được viết nguệch ngoạc được tìm thấy khắp nơi, có
khi được nhét vào trong giày hoặc dưới gối. Từ "shmily" bí ẩn này gần như
trở thành một phần trong ngôi nhà của ông bà tôi, cũng giống như đồ đạc
vậy.
Thái độ hoài nghi và sự thực dụng ngăn cản tôi tin vào tình yêu nồng nàn
và lâu dài. Cho đến khi tôi khám phá được "trò chơi" của ông bà tôi.
"Trò chơi" đi tìm từ "shmily" cứ tiếp diễn, cho đến khi bà bị bệnh ung thư.
Bà yếu dần và không dậy được khỏi giường nữa. Và một ngày kia, tất cả
chúng tôi đều phải đối diện với một thực tế đau lòng: Bà mất. "Shmily"
được viết nguệch ngoạc bằng màu vàng trên một dải lụa hồng đặt cạnh
giường bà vào hôm bà mất. Khi tất cả họ hàng và những người quen biết
đã đi về, ông tôi lại gần giường bà nằm và bắt đầu hát cho bà nghe. Giọng
ông khàn và nghẹn.
Tôi không bao giờ quên được khoảnh khắc ấy. Vì tôi biết tôi đã được chứng
kiến một tình yêu không bao giờ chết.
Tôi hỏi ông tôi, sau bao nhiêu năm, rằng "shmily" có nghĩa là gì. Và lần đầu
tiên sau bao nhiêu năm, tôi được biết "shmily" đơn giản là "See how much
I love you"
Di chúc

Một lần tình cờ, tôi phát hiện một chiếc hộp sắt tây khóa kín để trên nóc tủ.
Ba nói, nó đựng di chúc của ông nội. Trong đó viết rõ ông để lại cho tôi cái
Ba nói, nó đựng di chúc của ông nội. Trong đó viết rõ ông để lại cho tôi cái
gì khi ông "về với đất". Tôi chợt nghĩ, nếu mình cũng phải đi xa, xa thật xa,
mình sẽ để lại gì cho những người mình thương yêu. Vậy là tôi quyết định
mình cũng sẽ làm "di chúc". Tôi cũng tìm một chiếc hộp có khóa. Trong đó,
tôi cất tờ "di chúc" và tất cả gia tài sản nghiệp của tôi.
Bản di chúc đầu tiên năm tôi 8 tuổi, rất ngắn vì gia tài của tôi chẳng có gì
nhiều, và những người chung quanh tôi chỉ có thế. Tôi để lại cho ba tấm
ảnh ba đang bế tôi trên tay cười toe toét, để lại cho mẹ tấm ảnh mẹ đang
dỗ tôi ngay trước nhà thờ Đức Bà. Để lại cho hai đứa em trai của tôi những
chiếc xe điện mới toanh mà tôi đã phải dọa dẫm để giành với chúng Để
lại cho ông nội cây gậy mà tôi nhặt được ở nhà kho, để lại cho đứa bạn
thân nhất của tôi chiếc nón vải
Rồi tôi lớn lên, dù có ra sao tôi vẫn về nhà vào mỗi đêm giao thừa, ngồi vào
chiếc bàn bên cạnh cửa sổ, nhìn ra bầu trời tối đen, mịn màng của đêm ba
mươi và viết. Mỗi năm, tôi đến nhiều nơi hơn trong những chuyến du lịch
với bạn bè, những chuyến công tác và những thứ tôi nhặt nhạnh về cũng
nhiều hơn: một chiếc lược đồi mồi từ Hà Tiên, những nụ hoa ngọc lan khô
cong vẫn thơm nồng nàn như khi chúng đánh thức tôi dậy trong một đêm
rất trong bên cạnh sông Tiền, một chiếc vỏ ốc tầm thường dạt vào bãi cát ở
Nha Trang. Một mảnh đất xấu xí văng ra khi tôi những người thợ đục đá
Non Nước. Và mỗi lần nhặt lên, tôi đều nghĩ rằng tôi sẽ dành lại chúng cho
một người nào đó mà tôi đã gặp trong đời. Chúng đánh dấu sự hiện hữu
của tôi trên thế gian, đánh dấu những bước chân của tôi đã đặt lên mảnh
đất này, miền đất nọ, và đánh dấu tình yêu thương mà tôi dành cho những
con người đã đến rồi đi trong đời tôi. Mỗi năm, những đồ vật chẳng đáng
giá gì cứ chất đầy chiếc hộp, cả một quả bàng khô, một con ve sầu chưa
kịp lột xác còn giữ nguyên màu xanh óng đến nỗi tôi phải thay một chiếc
hộp lớn hơn.

Khi ông nội mất, ba tôi mở hộp ra và đọc cho mọi người nghe tờ di chúc,
thứ duy nhất ông để lại là những khoảnh đất, chia đều cho tất cả mọi
người, đất trồng cây ăn trái, đất trồng khoai sắn và đất trồng lúa Ông để lại
cho tôi tủ sách và một rẻo đất rất nhỏ hình tam giác, nằm cạnh những
mảnh ruộng mà ông đã làm lụng suốt đời trên đó. Một mảnh đất đủ để tôi
trồng những cây cà chua và những luống rau muống, ông viết vậy, với tất cả
trồng những cây cà chua và những luống rau muống, ông viết vậy, với tất cả
tình thương. Trước đây, có lần ông bảo rằng, chỉ với một miếng đất nhỏ xíu
như thế thôi, người ta cũng chẳng thể nào đói được
Tôi đã đứng trước rẻo đất ấy và khóc rất nhiều. Những ngày tháng qua đi,
đến một lúc nào đó rồi chợt nhận ra là cuộc sống thật ngắn ngủi và đầy bất
trắc. Tôi cũng nhận ra là làm cho những người khác biết mình yêu thương
họ ngay lúc này tốt hơn là ấp ủ tình yêu đó trong những đồ vật, để rồi, có
thể, một ngày nào đó, những kỷ vật ấy sẽ làm cho họ hụt hẫng Tôi buồn
bã khi nghĩ rằng đáng lý, tôi phải cho em tôi những chiếc xe điện khi điều
đó còn làm cho chúng vui sướng, hơn là cất giữ hàng năm trời. Từ đó, tôi
không viết di chúc nữa, tôi vẫn nhặt nhạnh những đồ vật xinh xinh mà tôi
nhìn thấy, nhưng không cất đi mà tặng ngay ai đó mỗi khi có dịp.
Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ chiếc hộp đã trống không của tôi, cũng như tờ
di chúc dài hai trang của ông nội, vì tôi biết, có một thứ ông để lại cho tôi
vẫn luôn đầy ắp trong những chiếc hộp ấy, đó là tình yêu thương tôi dành
cho mỗi người tôi gặp, và cho cuộc sống này.
Niềm tin
Ở làng quê nọ, trời đã hạn hán trong khoảng thời gian rất lâu. Các cánh
đồng đều khô hạn, cỏ cây héo úa cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn.
Hàng tháng đã trôi qua và mọi người dường như đã mất hết kiên nhẫn.
Nhiều gia đình đã rời khỏi làng, còn những gia đình khác chỉ còn biết chờ
đợi trong tuyệt vọng. Cuối cùng ông trưởng làng quyết định tổ chức một
buổi cầu nguyện tập thể trên ngọn đồi cao nhất vùng. Ông thuyết phục tất
cả mọi người trong làng đến dự và mỗi người phải mang theo một vật thể

hiện lòng tin của mình.
Chiều thứ bảy, những người dân làng với vẻ mặt mệt mỏi tập trung trên
ngọn đồi và đều không quên mang theo những đồ vật thể hiện lòng tin. Có
người mang theo một cái móng ngựa may mắn, có người mang theo chiếc
mũ bảo vật của gia đình… Mặc dù chẳng ai tin chúng có thể thay đổi điều gì
nhưng họ cũng đã mang theo rất nhiều thứ quý giá. Tất cả những người
tham dự bắt đầu cầu nguyện và giơ cao những vật tượng trưng cho niềm
tham dự bắt đầu cầu nguyện và giơ cao những vật tượng trưng cho niềm
tin. Như thể có phép màu, mây đen kéo tới và trời đổ mưa – những giọt
mưa đầu tiên sau bao tháng trời khô hạn. Mọi người đề hân hoan vui
sướng và ngay lập tức nổ ra một cuộc tranh cãi xem đồ vật nào đã mang lại
may mắn cho ngôi làng. Ai cũng cho rằng đồ vật của mình là linh thiêng
nhất. Bỗng người ta nghe thấy tiếng một em bé gái reo lên:
- Con đã biết thế nào trời cũng đổ mưa mà. Mẹ thấy không, con mang theo
chiếc ô này, bây giờ thì mẹ con mình về nhà mà không bị ướt!
Em bé giơ cao chiếc ô và cùng mẹ đi về nhà trong niềm hân hoan. Những
người còn lại nhìn theo và hiểu rằng chính em bé mới là người có niềm tin
lớn nhất. Niềm tin ấy đã mang mưa đến.
Cách nhìn cuộc sống
John là một ông lão ít nói và thông thái. Ông thường ngồi trên chiếc ghế
bành cũ kỹ trước hiên nhà, nhìn mọi người qua lại. Đôi khi ông vẫy tay chào
họ. Một hôm, cô cháu gái nhỏ của ông John ngồi xuống cạnh ông mình, và
cả hai cùng nhìn những người qua lại trước nhà họ.
Một người đàn ông lạ, cao lớn, anh ta nhìn quanh như tìm một nơi nào đó
để dừng chân, rồi tiến đến gần hỏi ông John:
- Trong ngôi làng này người ta sống kiểu gì hả ông lão?
Ông John chậm rãi hỏi lại:
- Vậy nơi mà anh vừa đi khỏi, người ta sống ra sao?
Người lạ nhăn mặt:
- Nơi ấy hả? Mọi người chỉ toàn chỉ trích nhau. Hàng xóm thì ngồi lê đôi

mách và nói chung là một nơi rất đáng chán!
John nhìn thẳng vào mắt người lạ và nói:
John nhìn thẳng vào mắt người lạ và nói:
- Anh biết không, nơi này cũng như thế, hệt như nơi anh vừa đi khỏi vậy!
Người đàn ông không nói gì, anh ta quay đi. Một lát sau, một chiếc ôtô
dừng lại bên vệ đường. Người đàn ông trên xe đỡ vợ con mình xuống xe.
Người vợ hỏi ông John có thể mua một ít thức ăn cho bọn trẻ ở đâu, còn
người đàn ông ở lại chỗ chiếc xe. Anh ta lại gần ông John và hỏi:
- Thưa ông, nơi này sống có tốt không ạ?
Vẫn như lần trước, ông John hỏi lại:
- Vậy nơi mà anh vừa đi khỏi thì thế nào?
Người đàn ông tươi cười :
- Ở đó, mọi người sống rất thân thiết, luôn sẵn lòng giúp đỡ nhau. Chúng
tôi không muốn ra đi chút nào, nhưng vì điều kiện làm việc nên phải
chuyển tới đây.
Ông John nở một nụ cười ấm áp:
- Đừng lo, nơi này cũng giống như nơi anh vừa đi khỏi đấy mà, cũng tốt
lắm!
Vợ con người đàn ông quay lại, họ cảm ơn và tạm biệt hai ông cháu John
rồi lái xe đi. Khi chiếc xe đã đi xa, cô cháu nhỏ cất tiếng hỏi ông:
- Ông ơi, tại sao ông nói với người thứ nhất là nơi đây không tốt lành còn
với người thứ hai ông lại nói là một nơi tuyệt vời?
Ông John âu yếm nhìn vào đôi mắt xanh băn khoăn của đứa cháu nhỏ và
bảo:
- Cháu ạ, dù có đi đến đâu, mỗi người vẫn mang thái độ của chính mình
đối với cuộc sống đi theo. Chính thái độ của riêng mình, cộng với phản ứng
đối với cuộc sống đi theo. Chính thái độ của riêng mình, cộng với phản ứng
của những người xung quanh với thái độ đó thì nơi mới đến có thể rất tồi
tệ, hoặc rất tuyệt vời theo cảm giác của riêng họ mà thôi.
Nụ hôn

Chiếc tàu tôi đang đi ghé vào một ga nhỏ. Lúc ấy đã gần sáng và trời vẫn
đầy sao. Không khí lạnh cóng ùa vào toa khi tàu dừng và mở cửa đón
khách. Toa tôi có thêm hai người nữa, một người đàn ông và một cậu bé.
Cậu bé phải mất một lúc mới ngồi được vào chỗ của mình sau khi len qua
nhiều hàng chân người lớn. Trong khi cha cậu bé ngồi cạnh cửa ra vào,
cậu bé lại ngồi cạnh cửa sổ, giữa những người trông ngái ngủ, khó tính và
mệt mỏi sau một đêm không được ngủ đẫy giấc. Khi tàu bắt đầu vào
đường hầm, cậu bé trượt khỏi chỗ và tôi cảm thấy tay cậu chống vào đầu
gối lên một chút. Cậu bé rướn người lên, có lẽ muốn nói gì đó với tôi. Tôi
cúi xuống để nghe nhưng bất ngờ thay, cậu bé hôn vào má tôi một cái!
Lúc đó tàu ra khỏi đường hầm. Rồi cậu bé ngồi lại vào chỗ của mình và
ngắm cảnh bên ngoài cửa sổ. Trông cậu rất hạnh phúc. Tôi thật sự ngạc
nhiên. Sao cậu bé lại hôn một người lớn không hề quen biết trên tàu nhỉ?
Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa khi cứ thỉnh thoảng, cậu bé lại đứng lên, hôn
vào má những người lớn ngồi cạnh cậu, từng người một.
Bối rối, chúng tôi nhìn về phía người đàn ông. Cha cậu giải thích:
- Cháu nó rất hạnh phúc vì khỏe mạnh trở lại và được sống. Cháu đã ốm
nặng rất lâu rồi!
Chuyến tàu dừng ở ga cuối. Người đàn ông và cậu bé hòa mình vào đám
hành khách. Tôi vẫn còn cảm thấy cái hôn của cậu bé trên má, cái hôn làm
tôi hạnh phúc và cả băn khoăn nữa. Liệu có bao nhiêu người trưởng thành
trao cho nhau những cái hôn để chia sẻ niềm vui được sống? Cậu bé đã
không chỉ chia sẻ với tôi một cái hôn ngọt ngào mà còn cả những băn
khoăn muốn nhắn gửi: đừng để bản thân mình "chết" trước khi tim ngừng
đập.
Gai hoa hồng
Ông đúng là ông già khó chịu! – Becky nói với ông già khi cô đi ra khỏi
phòng bệnh của ông ta ở bệnh viện nhân đạo, nơi mà cô đã làm việc hơn
một năm nay. Bệnh nhân mới này ở đây được khoảng hai tuần và ông ta
làm cho cuộc sống của tất cả các y tá trở thành địa ngục. Ông ta chửa rủa,

quát, đá tất cả những ai lại gần ông ta. Đó là còn chưa kể việc ông ta cố
tình đổ thức ăn ra giường để y tá phải đến dọn, và để ông ta có thể nguyền
rủa thêm. Becky không nghĩ là ông ta có người thân vì chẳng có ai đến
thăm ông, ít nhất là trong khoảng thời gian cô phải chăm sóc ông ta.
Một hôm, một tổ chức phụ nữ đến thăm bệnh viện. Họ hát và đem hoa
hồng đến, tặng mỗi bệnh nhân một bông hoa đỏ thắm. Ông già khó tính
nhìn bông hoa được cắm tử tế trong lọ thủy tinh trên bàn, lấy mu bàn tay
gạt cái lọ. Cái lọ rơi xuống, vỡ tan tành. Mọi người chỉ đứng nhìn ông ta vẻ
kỳ lạ. Ông trở mình quay mặt vào tường xoay lưng lại những người từ tổ
chức phụ nữ đến thăm.
Một người bắt đầu dọn những mảnh vụn của cái lọ. Becky nhặt bông hoa
lên, cắm nó vào một cái cốc nhựa và đặt lên tủ đầu giường của bệnh nhân
già kia. Khi người của tổ chức phụ nữ đã đi về, Becky quay lại phòng ông
bệnh nhân khó chịu, cầm bông hoa hồng và ngắt từng cánh một, ném vào
thùng rác bên cạnh. Ông già nhìn thẳng cô y tá, cho đến khi cô ngắt đến
cánh cuối cùng. Còn lại cuống hoa, cô cắm trả lại cốc nhựa. Vừa khi cô
định quay đi thì ông bệnh nhân già làu bàu:
- Sao cô lại làm thế?
- Tôi chỉ muốn ông thấy những gì ông đã làm? – Becky đáp – Ông đã phá
vỡ những mối quan tâm của chúng tôi với ông như là ngắt bỏ từng cánh
hoa một, kể từ khi ông đến đây.
Rồi Becky đi ra.
Sáng hôm sau, khi đến bệnh viện thì các bác sĩ bảo Becky đến dọn phòng
Sáng hôm sau, khi đến bệnh viện thì các bác sĩ bảo Becky đến dọn phòng
ông bệnh nhân già. Ông đã mất vào đêm hôm trước. Khi Becky thu khăn
trải giường đi giặt, cô nhìn thấy bông hoa hồng vẫn còn nguyên vẹn trong
cái cốc nhựa. Những cánh hoa đã được đính vào cuống hoa bằng băng
dính một cách vụng về. Becky cũng thấy ở dưới gối của ông lão có một
quyển Kinh thánh. Khi cô nhấc quyển sách lên, trong đó rơi ra một tờ giấy,
có ghi: "Không phải tôi muốn mọi người ghét tôi. Tôi chỉ không muốn tất cả

mọi người sẽ quên tôi. Tôi đã là một đứa trẻ mồ côi và tôi chẳng bao giờ
có một người thân."
Là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ, Becky hiểu rằng người bệnh nhân già đó
không phải là một ông lão khó chịu. Chỉ vì không có ai trên thế giới này
quan tâm đến ông ấy. Vì ông thấy mọi người đều quên ông ấy, ngay cả khi
ông ấy vẫn còn sống. Và tất cả những gì ông lão muốn chỉ là có ai đó nhớ
tới ông
Cạm bẫy
"Người Eskimo đã săn chó sói như thế nào trong vùng băng giá và lạnh
cóng của Bắc Cực?” là một câu hỏi đã làm nhiều người dày công suy nghĩ
để tìm câu trả lời.
Những người Eskimo lấy các lưỡi dao thật bén đem nhúng vào máu động
vật, sau đó họ mang ra ngoài trời cho đóng băng lại. Họ làm như vậy nhiều
lần để càng lúc lớp băng càng dày thêm, đến một thời điểm mà lớp băng
bằng máu bên ngoài hoàn toàn che dấu lưỡi dao bên trong. Tối đến họ
găm cán dao xuống tuyết. Những con chó sói đánh hơi được mùi máu của
thú rừng từ lưỡi dao và mon men đến. Chúng bắt đầu liếm những lớp
băng bằng máu đó, càng lúc càng hăng say hơn với tất cả những sự thèm
thuồng. Cho đến một lúc những lớp băng bên ngoài lưỡi dao đã tan chảy
hết và chạm đến lưỡi dao. Khi liếm những lưỡi dao, lưỡi của những con
chó sói bị đứt và máu chảy ra, nhưng chúng lại tưởng đó là máu của thú
rừng nên càng liếm hăng say hơn. Càng chảy máu thì nó càng khát, và
càng khát thì nó lại càng liếm … Sáng hôm sau, những ngưởi Eskimo chỉ
việc đi thu lượm xác của những con chó sói nằm chết bên cạnh những lưỡi
dao đó.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×