Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Báo mạng điện tử với chiến dịch truyền thông phòng chống bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 51 trang )

1. MỞ ĐẦU.
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề.
Như chúng ta đã biết, Báo chí là một hoạt động tinh thần gắn bó và tham gia hiệu
quả vào nhiệm vụ phát triển xã hội. Báo chí xuất hiện do nhu cầu xã hội. Công
chúng cần có những thông tin về chính trị, kinh tế, những hiểu biết về văn hóa, đời
sống và thế giới xung quanh. Những thông tin ấy chỉ được chuyển tải đầy đủ và
chân thực trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng thì Báo mạng điện tử
(BMĐT) là loại hình ra đời muộn nhất và hiện đang chiếm ưu thế vượt trội trong
việc chuyển tải thông tin nhanh nhất đến với công chúng. Đó không những là
những thông tin thời sự hàng ngày mà còn là những hiện tượng xã hội gây bức xúc
trong dư luận. Tất nhiên, nói như vậy không phải là phủ nhận vai trò của các loại
hình báo chí khác và cũng không phải vì quá đề cao vị trí của BMĐT trong việc
chuyển tải thông tin. Mà bởi do những thành công và cải tiến về mặt kĩ thuật và
phương tiện chuyển tải mà có thể thấy rằng Internet nói chung và BMĐT nói riêng
là công cụ tiện lợi nhất để chuyển tải một số lượng thông tin lớn với tốc độ nhanh
nhất đến không chỉ một vài chục người, vài trăm người mà là hàng triệu người
trong thế giới rộng mở không còn cách biệt địa lý.
Chức năng cũng như vai trò, nhiệm vụ của Báo chí nói chung và BMĐT nói riêng
không chỉ là chuyển tải những thông tin thời sự đến cho công chúng mà còn phải
bám sát những vấn đề xã hội nóng bỏng, bức xúc, tạo ra dư luận và định hướng dư
luận theo hướng tích cực. Khi xã hội ngày càng phát triển, xu hướng hội nhập cùng
với nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Báo
chí Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản, là nơi chuyển tải đường lối
1
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân.
Trong xã hội ta hiện nay đang xuất hiện nhiều vấn đề được tất cả moi người đặc
biệt quan tâm, đó là tệ nạn xã hội, thất nghiệp, thiếu việc làm, chênh lệch giàu
nghèo, suy thoái đạo đức, tham nhũng, tai nạn giao thông, bệnh tật, chất lượng
sống…. Và một trong rất nhiều vấn đề bức xúc đó, không thể không nhắc đến Bạo


lực gia đình.
Bạo lực gia đình đang là một vấn đề được dư luận quan tâm sâu sắc. Đây là một
dạng tệ nạn xã hội gây hậu quả ở nhiều mức độ lên đời sống gia đình và xã hội,
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân. Không những thế, bạo lực gia
đình còn là tác nhân gây hậu quả tai hại về cuộc đời, nhân cách của con người, gián
tiếp tạo nên những mầm mống các tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác trong xã hội.
Bạo lực gia định thực ra đó là một hiện trạng vốn tồn tại từ lâu trong xã hội, tuy
nhiên do những quan niệm phong kiến đè nặng cùng tâm lý e ngại của mọi người
nên ít khi được nhắc tới một cách công khai, thậm chí người ta còn muốn che dấu.
Nhưng, trong nhiều năm trở lại đây, vấn đề này cũng như nhiều vấn đề xã hội khác
đang trở nên nhức nhối. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện
truyền thông đại chúng, bạo lực gia đình càng được nhắc nhiều hơn và được quan
tâm nhiều hơn bởi người dân cũng như giới báo chí.
Trong việc cung cấp những thông tin và kiến thức về Bạo lực gia đình đến với
mọi người thì hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng giữ một vai trò
quan trọng. Từ năm 2008, Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số bắt đầu kết
hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng với các tổ chức khác triển khai
chiến dịch truyền thông “phòng chống bạo lực gia đình” nhằm nâng cao nhận thức
của mọi người, đặc biệt là nam giới trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình. Chiến
dịch truyền thông này được thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng: Truyền hình, phát thanh, internet…
2
Riêng đối với các trang BMĐT, kể từ sau khi chiến dịch này được nhen nhóm từ
năm 2008 và khởi xướng cuối năm 2009 thì hầu hết các trang báo đều đăng tải một
cách thường xuyên những thông tin liên quan đến chiến dịch cũng như Bạo lực gia
đình. Tuy nhiên, khi bắt tay thực hiện chiến dịch này thì ban tổ chức chỉ chủ yếu
nhấn vào phương tiện truyền hình mà không biết rằng BMĐT có một sức mạnh
ghê gớm trong việc chuyển tải thông tin đến người đọc. Với ưu thế nhanh chóng và
tính tương tác cao, cùng với lợi thế sự dụng các yếu tố đa phương tiện của mình,
BMĐT đã và đang tạo ra những thay đổi lớn trong suy nghĩ, nhận thức, hành động

của công chúng báo chí đối với Bạo lực gia đình. Đồng thời, đến thời điểm hiện tại
cũng chưa có tài liệu chính thức nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề này.
Chính vì lẽ đó, tiểu luận này dành thời lượng để bàn về chủ đề: Báo mạng điện tử
với chiến dịch truyền thông “Phòng chống bạo lực gia đình”. Từ đó mà rút ra
những vai trò của BMĐT với chiến dịch này cũng như rút ra những điều làm được
và chưa làm được của các bài báo mạng điện tử viết về chủ đề Bạo lực gia đình.
Tuy chiến dịch này đã được phát động được 2 năm, và cho đến nay đã tạo ra
nhiều thay đổi. Tuy nhiên, tiểu luận không lấy tính thời sự của vấn đề làm căn cứ
nghiên cứu mà chính là lấy hiệu quả tạo ra từ các bài viết trên báo mạng trong 2
năm qua với chiến dịch phòng chống bạo lực làm cơ sở đánh giá. Tiểu luận tiến
hành khảo sát một cách khái quát các bài báo đăng trên 2 tờ báo điện tử là báo
Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ Online viết về Bạo lực gia đình từ ngày 25/11/2009
(ngày phát động chiến dịch) đến ngày 25/11/2011 (2 năm sau khi chiến dịch được
khởi xướng).
1.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Cho đến thời điểm này thì chưa có tài liệu chính thức nào nghiên cứu về vấn đề
này. Chỉ có những bài viết riêng về Bạo lực gia đình hoặc Báo mạng điện tử. Bởi
lẽ, đây là một đề tài mang tính chất xã hội. Nó bàn về vai trò của BMĐT trong
3
việc hình thành dư luận xã hội về vấn đề bạo lực gia đình, và xa hơn nữa đó là mối
quan hệ giữa phương tiện truyền thông này với các vấn đề xã hội của đất nước.
Mặt khác, sở dĩ chủ đề này chưa có tài liệu nào nghiên cứu bởi lẽ, chiến dịch
truyền thông ‘phòng chống bạo lực gia đình” vừa mới được khởi xướng được 2
năm, với thời gian như vậy, chưa đủ để tổng kết, đánh giá và có những nghiên cứu
hoàn chỉnh. Nếu có cũng chỉ là những bài báo viết một cách khái quát. Ví dụ như
trong bài “ Báo chí thông tin về bạo lực gia đình cần có nhạy cảm giới” đăng trên
trang minhladanong.com , ngày 16/3/2011 đã bàn về vấn đề này. Tuy nhiên cũng
chỉ dừng lại ở mức độ một bài bài bình luận và đánh giá một số bài báo viết về bạo
lực gia đình đăng trên các trang BMĐT chứ không đi sâu ngiên cứu về vai trò và
mối quan hệ của BMĐT với chiến dịch truyền thông “Phòng chống bạo lực gia

đình”. Trong bài có viết:
“Truyền thông có một vai trò quan trọng trong các chiến lược nhằm thay đổi các
giá trị văn hóa, bởi vì truyền thông thể hiện sự đồng tình hoặc phản đối các giá trị
văn hóa hiện hành. Với sức mạnh này, truyền thông có vai trò quan trọng trong
việc phòng chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, “thông tin tuyên truyền phòng
chống bạo lực gia đình phải đảm bảo các yêu cầu sau: “chính xác, rõ ràng, đơn
giản, thiết thực; “không làm ảh hưởn tới bình đẳng giới” (Điều 9, luật phòng
chống bạo lực gia đình). Quan sát một số bài báo viết về bạo lực gai đình thời
gian gần đây, bên cạnh các bài phản ánh đúng thực trạng, bàn luận về nguyên
nhân, hậu quả nhằm cảnh tỉnh và kêu gọi cộng đồng hợp tác phòng chống bạo lực
gia đình, vẫn còn các bài báo gây ra những ngộ nhận nguy hại trong cộng đồng.
Thiếu sót chủ yếu chính là chỉ dừng lại mô tả hành vi bạo lực tại thời điểm xảy ra,
cung cấp thông tin thiếu chính xác về bản chất của bạo lực gia đình… Sự thiếu
nhạy cảm giới khi nhìn nhận về bạo lực gia đình thể hiện trong một số bài báo đã
không chỉ củng cố thêm những sai lệch trong nhận thức của công chúng mà còn
làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới” Tiếp theo sau đó, tác giả bài viết đã trích
4
dẫn một số bài báo và chỉ ra những lỗi sai về định kiến giới trong những bài báo
đó.
Như vậy, tuy bài báo một phần có nhắc đến vai trò của các bài báo trong việc
phòng chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, chủ đề chính của bài báo là đánh giá
những bài viết về bạo lực có định kiến sai về giới chứ không hẳn là khảo sát hay
nghiên cứu về mối quan hệ của BMĐT với chiến dịch phòng chống bạo lực gia
đình.
Ngoài ra, cũng chưa có một cuốn sách, tiểu luận hay luận văn nào viết về đề tài
này. Đây cũng chính là một trong những lý do quan trọng thể hiện tính cấp thiết
của vấn đề và lý do để tiến hành nghiên cứu đề tài “BMĐT với chiến dịch truyền
thông Phòng chống bạo lực gia đình”.
1.3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu.
1.3.1. Mục đích của việc nghiên cứu nghiên cứu.

Đề tài này được tiến hành nghiên cứu nhằm 2 mục đích chính:
Thứ nhất, việc nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ những thông tin về chiến dịch
truyền thông “phòng chống bạo lực gia đình’ và vài trò của BMĐT trong việc
chuyển tải thông tin liên quan đến chiến dịch này đến công chúng báo chí. Mặt
khác, khẳng định vai trò của BMĐT trong việc thay đổi suy nghĩ, nhân thức, hành
động của công chúng báo chí về Bạo lực gia đình và bình đẳng giới.
Thứ hai, cải thiện, nâng cao chất lượng của các tin, bài đăng trên BMĐT về chiến
dịch “phòng chống bạo lực gia đình” nói riêng và bạo lực gia đình nói chung.
Đồng thời, nâng cao hiệu quả tác động của các bài viết về đề tài xã hội đến công
chúng báo chí.
Mục đích nghiên cứu chính là cơ sở để tiến hành lựa chọn đối tượng và phương
pháp nghiên cứu phù hợp, nhằm đạt hiệu quả cao. Đồng thời, mục đích nghiên cứu
5
cũng tạo ra một sợi chỉ xuyên suốt để tiểu luận đi theo một hướng nghiên cứu
chính, không đi chệch vấn đề.
1.3.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu.
• Cung cấp những kiến thức cơ bản về Bạo lực gia đình, về chiến dịch Truyền
thông “phòng chống bạo lực gia đình”.
• Làm rõ những yêu cầu trong cách viết và trình bày một bài báo mạng điện
tử.
• Khảo sát khái quát những bài báo viết về chiến dịch “ Phòng chống bạo lực
gia đình” cụ thể trên 2 tờ báo Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ Online từ khi chiến
dịch được khởi xướng cho đến nay về cách viết và hiệu ứng tác động từ các bài
viết đó.
• Từ việc khảo sát, rút ra kết luận về ưu và nhược điểm của các bài báo viết về
chiến dịch truyền thông “ phòng chống bạo lực gia đình” và các bài viết liên
quan đến bạo lực gia đình ở Việt Nam cũng như thế giới.
• Đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của các tin, bài viết
về Bạo lực gia đình trên 2 tờ Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ Online. Đồng thời,
mở rộng hơn trong việc nêu ra một số giải pháp trong việc nâng cao hiệu quả

tác động của các bài viết về chính trị- xã hội đăng trên các trang BMĐT.
Nhiệm vụ và mục đích của việc nghiên cứu đề tài có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Mục đích chính là cơ sở để vạch ra những nhiệm vụ cần thực hiện. Và ngược
lại, nhiệm vụ chính là việc hiện thực hóa các công việc cần làm để hướng tới mục
tiêu đã đặt ra.
Việc khảo sát những bài viết về Bạo lực gia đình đăng trên Nhân dân điện tử và
Tuổi trẻ Online trong 2 năm thực hiện chiến dịch truyền thông “Phòng chống bạo
lực gia đình” là một công việc cần đầu tư nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên,
tiểu luận này chỉ tiến hành nghiên cứu một cách khái quát, vậy nên việc xác định
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu hết sức quan trọng. Bới lẽ, xác định đúng mục
6
đích và nhiệm vụ nghiên cứu sẽ giúp việc khảo sát và nghiên cứu diễn ra đơn giản
hơn, tránh việc nhầm lẫn và đi xa đề tài.
1.4. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các tác phẩm báo chí viết về chiến
dịch truyền thông “phòng chống bạo lực gia đình” và các bài viết liên quan đến
bạo lực gia đình đăng trên 2 tờ BMĐT là Nhân dân điện tử và tuổi trẻ online, từ
25/11/2009 đến ngày 25/11/2011.
Do thời gian khảo sát khá dài, vậy nên tiểu luận này không đi phân tích cụ thể và
kĩ lưỡng từng bài mà chỉ tiến hành khảo sát, sau đó phân tích theo từng vấn đề mà
thôi.
Các bài viết liên quan đến báo mạng điện tử bao gồm tin, phóng sự, phỏng vấn,
các bài bình luận
1.5. Phạm vi nghiên cứu.
Tiểu luận tiến hành khảo sát các bài viết liên quan đến Bạo lực gia đình đăng trên
2 tờ BMĐT, đó là báo Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ Online.
a. Báo Nhân dân điện tử:
Ra đời vào ngày 21/6/1998. Nhiệm vụ của Nhân dân điện tử là trở thành cổng
thông tin đối nội, đối ngoại của Việt Nam, thông tin những chủ trương, đường
lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến với đông đảo quần chũng

nhân dân, tới bạn bè trên khắp năm châu. Từ đó, thúc đẩy các mối quan hệ hữu
nghĩ giữa nước ta với nước bạn.
7
Giao diện trang chủ của báo Nhân dân điện tử. (Ảnh chụp màn hình)
Nhân dân điện tử đăng tải gần như 100% nội dung của báo Nhân dân và cũng có
đầy đủ các mục, các lĩnh vực thông tin, gồm các chuyên trang: chính trị, kinh tế,
đời sống, sức khỏe, pháp luật, khoa học, giáo dục, thể thao, tin học, văn hóa quốc
tế, trang Hà Nội và trang TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra Nhân dân điện tử còn đăng
một số ấn phẩm khác như Nhân dân cuối tuần, Nhân dân hàng ngày, Thời nay.
Sở dĩ tiểu luận chọn nhân dân dân điện tử là một trong hai tờ BMĐT để khảo sát
và nghiên cứu là bởi lẽ, Nhân dân điện tử “tập trung đi đầu trong công tác tuyên
truyền quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước. Ngoài
những tin bài mang tính chất thời sự và kịp thời, nhân dân điện tử còn có những bài
điều tra, phân tích, dự báo tình hình, những bài bình luận sâu sắc về các sự kiên
chính trị, kinh tế chủ yếu trong nước và thế giới, đáp ứng nhu cầu thông tin và định
hướng dư luận xã hội. Bên cạnh đó, Nhân dân điện tử cũng có nhiều bài viết mang
tính chiến đấu cao, kịp thời và sắc bén, có sức thuyết phục trong việc đấu tranh,
phản bác những quan điểm sai trái”
(1)
. Và Nhân dân điện tử cũng là một trong
8
những tờ BMĐT có số lượng các bài viết nhiều nhất về Bạo lực gia đình. Vì Bạo
lực gia đình là một tệ nạn của xã hội, của đất nước, tất nhiên sẽ được các cấp chính
quyền quan tâm. Với một tờ Báo Đẳng chính thống như Nhân dân điện tử thì việc
đăng tả, tuyên truyền về chiến dịch truyền thông “ phòng chống bạo lực gia đình”
là nhiệm vụ, là việc làm tất yếu.
Ngoài ra, Nhân dân điện tử cũng có nhiều chuyên mục mới , tích hợp chức năng
nghe nhìn của BMĐT như: Media, thư viện ảnh…. Điều này làm tăng tính hấp dẫn
cho trang báo và các thông tin được đăng tải.
Nhân dân điện tử đã và đang dành được sự quan tâm chú ý của đông đảo công

chúng (Lượt truy cập từ 800.000 đến 1.000.000 lượt mỗi ngày). Độc giả giờ đây
không chỉ là những người lớn tuổi mà còn là những độc giả trẻ. Với thành phần đa
dạng về công chúng như thế thì ắt hẳn sẽ có nhiều người biết đến những thông tin
về Bạo lực gia đình đăng trên trang BMĐT này.
b. Tuổi trẻ online.
Ra mắt vào ngày 1/12/ 2003, sau đó, nhanh chóng trở thành ấn phẩm có tốc độ
phát triển nhanh mạnh nhất với thứ hạng khoảng 740 trên thế giới và thứ 10 ở Việt
Nam.
Báo Tuổi trẻ điện tử là sản phẩm thứ tư của Báo Tuổi trẻ (cơ quan ngôn luận
của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh TP.HCM) sau ấn phẩm Tuổi trẻ
ngày, Tuổi trẻ Chủ Nhật và Tuổi trẻ Cười.
Hiện Tuổi Trẻ điện tử có 14 trang chính và 30 mục thông tin. Ngoài những
thông tin được cập nhật liên tục từ ba ấn phấm nói trên, Tuổi trẻ điện tử cũng cung
cấp nhiều thông tin riêng để tận dụng lợi thế cập nhật 24/24 của môi trường
Internet. Tuổi trẻ điện tử không chỉ đưa tin dưới dưới dạng văn bản, hình ảnh
truyền thống, mà còn bằng cả các phương tiện nghe nhìn.
9
Trang chủ của Tuổi trẻ online (Ảnh chụp màn hình)
Tuổi trẻ điện tử là một trong những tờ BMĐT được đánh giá có chất lượng tốt
về thông tin, đáp ứng tính thời sự và nhu cầu của người đọc và có lượng truy cập
nhiều nhất. Theo một khảo sát gần đây thì Báo tuổi trẻ online là báo được các tờ
BMĐT khác lấy lại thông tin nhiều nhất, điều này cho thấy tờ báo này có chất
lượng thông tin tốt.
Đối tượng hướng đến của tuổi trẻ online là đa dạng các thành phần, bởi thế mà
các thông tin đưa trên trang BMĐT này sẽ nhanh chóng được chuyển tải tới tất cả
mọi người. Kết quả khảo sát cho thấy rằng, tuổi trẻ online cũng là một trong
những tờ báo viết nhiều cho chiến dịch truyền thông “phòng chống bạo lực gia
đình”. Tác động đến dư luận xã hội từ những bài viết đó cũng không phải là nhỏ.
Tóm lại, việc tiến hành khảo sát Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ online là vì:
• Hai tờ báo đại diện tiếng nói cho 2 cơ quan riêng, có những chuyên mục

khác nhau và cách thể hiện khác nhau , vì vậy việc khảo sát là để so sánh cách
viết, phong cách của các bài báo về bạo lực gia đình đăng trên 2 tờ BMĐT này
10
• Mặc dù có nhiều bài viết hay, độc đáo, nhưng trên 2 tờ báo này vẫn có nhiều
bài mắc lỗi. Việc khảo sát nhằm chỉ ra lỗi và cách điều chỉnh để tạo hiệu quả tác
động tốt cho những bài viết về chủ đề Bạo lực gia đình.
1.6. Phương pháp nghiên cứu.
• Thu thập tài liệu.: Đây là phương pháp được thực hiện đầu tiên trước khi bắt
tay vào thực hiện đề tài. Đó là việc tiến hành tìm đọc và lưu trữ các nguồn
thông tin, tài liệu được tìm kiếm trong sách vở và các bài viết trên mạng
Internet liên quan đến Bạo lực gia đình, chiến dịch truyền thông “phòng chống
bạo lực gia đình” và cách viết một bài BMĐT.
Sau khi đọc và phân loại các nguồn tư liệu là đến công việc phân tích để tìm ra
ngững nguồn tư liệu nào thật sự cần thiết đối với việc nghiên cứu đề tài.
Phương pháp nghiên cứu và thu thập tài liệu là phương pháp rất quan trọng, đó
là căn cứ để có thể tìm ra những cơ sở lý luận chung cho đề tài nghiên cứu.
• Khảo sát thực tế: Đây là phương pháp chủ yếu được thực hiện trong quá
trình nghiên cứu đề tài, là cơ sở để thực hiện các phương pháp khác như thống
kê, phân tích, tổng hợp… Đó là việc tiến hành khảo sát hệ thống các bài báo
đăng trên Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ online viết về bạo lực gia đình và chiến
dịch truyền thông “phòng chống bạo lực gia đình” trong 2 năm thực hiện chiến
dịch này (từ 25/11/2009 đến 25/11/2011). Nghĩa là việc tìm kiếm, thống kê, đọc
hiểu những bài báo đó để làm căn cứ tiến hành phân tích, tổng hợp và đưa ra kết
luận.
• Điều tra xã hội học: Điều tra xã hội được thực hiện qua bảng hỏi với 100
mẫu được thực hiện với đối tượng ở nhiều thành phần khác nhau (giới tính, độ
tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa…).
Đây là phương pháp phụ được thực hiện nhằm tìm hiểu sự quan tâm của công
chúng báo chí đối với chiến dịch truyền thông “phòng chống bạo lực gia đình”.
Đồng thời thăm dò quan điểm, sự đánh giá của họ đối với vai trò của BMĐT

11
nói chung , Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ điện tử nói riêng trong việc tuyên
truyền những chính sách pháp luật của đảng và nhà nước về Bạo lực gia đình,
cũng như trong việc thay đổi suy nghĩ, nhận thức, hành động của xã hội về tệ
nạn này. Ngoài ra, phương pháp điều tra xã hội còn thu thập những ý kiến đóng
góp của độc giả, những kiến nghị của họ trong việc nâng cao chất lượng và hiệu
quả tác động của những bài báo viết về bạo lực gia đình cũng như các vấn đề
chính trị, thời sự, xã hội của đất nước.
• Phân tích, tổng hợp: Sau khi tiến hành tìm hiểu, thu thập các nguồn thông
tin, tài liệu và khảo sát thực tế thì phương pháp không thể thiếu tiếp theo là
phân tích và tổng hợp. Từ những bài báo được khảo sát và số liệu thu thập được
mà tiến hành phân tích, đánh giá tổng hợp nhằm tìm ra những ưu, nhược điểm
của các bài viết đó. Đồng thời có thể đưa ra những kiến nghị, giải pháp cho việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả của các bài báo viết về Bạo lực gia đình đăng
trên Nhân dân điện tử và Tuổi trẻ Online.
Tất cả các phương pháp trên là không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu đề
tài. Mỗi phương pháp thực hiện một nhiệm vụ riêng, tuy nhiên, hiệu quả đạt
được chỉ khi kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt tất cả các phương pháp đó.
12
2. NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Khái niệm chiến dịch truyền thông.
Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một
kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ
các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi
tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và
người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để một
người hiểu những giừ người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các
thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ.
Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và mục tiêu. Nội

dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm, hiểu biết,
đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này được thể
hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay bản tin
truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm chí là
chính người/tổ chức gửi đi thông tin
(8)

Chiến dịch truyền thông là một kế hoạch dài hạn và tổng lực nhằm chuyển tải một
thông điệp chính, chủ yếu của một vấn đề xã hội cần được quan tâm nào đó tới mọi
người thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình,
Internet…Chiến dịch truyền thông được thực hiện nhằm 3 mục đích chính, đó là:
• Nhằm gây ảnh hưởng lên công luận;
• Để thuyết phục, gây ảnh hưởng đến các nhà lãnh đạo;
• Tạo ra các cuộc tranh luận trong xã hội.
Trong thời đại bùng nổ thông tin và cạnh tranh mạnh mẽ như ngày nay, một sản
phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý nhưng thiếu quảng bá, kênh
13
phân phối thì cũng khó tiêu thụ. Một chính sách của Đảng hay một văn bản pháp
luật của nhà nước rất khó đi vào đời sống nhân dân nếu như không có các phương
tiện truyền thông đại chúng. Và những phong trào lớn, những câu khẩu hiệu hành
động cho những phong trào vì xã hội đó sẽ thực hiện thiếu hiệu quả nếu như không
chuyển tải thông qua các chiến dịch truyền thông. Tất nhiên, tùy vào từng trường
hợp, tính chất của vấn đề mà quyết định có nên thực hiện một chiến dịch truyền
thông hay không.
Chúng ta đã từng biết đến những chiến dịch truyền thông như: “Người Việt dùng
hàng Việt”, “Xoa dịu nỗi đau da cam”, “chống hàng giả”, “biển Đông ra thế
giới”…Sau một thời gian thực hiện, những chiến dịch ấy đã cho thấy sức tác động
mạnh mẽ của mình đến dư luận xã hội thông qua ưu thế của việc sử dụng các
phương tiện truyền thông đại chúng.
2.1.2. Về bạo lực gia đình.

Trước khi đưa ra khái niệm Bạo lực gia đình, chúng ta tìm hiểu về cụm từ “bạo
hành gia đình”
Theo Viện Khoa học xã hội thì: “Bạo hành gia đình là những hành vi đánh đập,
cưỡng bức tình dục; cưỡng bức tâm lý, nhục mạ, đe dọa, khủng bố tinh thần, cô
lập nạn nhân với xã hội và cưỡng kiểm soát tiền bạc, bao vây kinh tế đối với người
trong gia đình mình”.
Định nghĩa về bạo hành gia đình trên Wikipedia: “Bạo hành gia đình là thuật ngữ
dùng để chỉ các hành vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình.
Hành vi bạo lực thường thấy nhất là giữa vợ và chồng nhưng bạo lực giữa cha mẹ
với con cái hay ông bà, anh em ruột với nhau hoặc giữa mẹ chồng và con dâu
cũng có xảy ra và được xếp vào nhóm các hành vi này.”
14
Ở Việt Nam, khái niệm “bạo lực gia đình” được hiểu với ý nghĩa hơi khác. Khái
niệm này được hiểu là tất cả các loại bạo lực mà một thành viên gia đình gây ra
cho một hay nhiều thành viên khác của gia đình bất kể giới tính của nạn nhân.
Theo Khoản 2 Điều 1 của Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định: “Bạo lực
gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng tổn
hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình”.
Bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận quan tâm sâu sắc. Đây là một dạng
tệ nạn xã hội gây hậu quả ở nhiều mức độ lên đời sống gia đình và xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Trường hợp nhiêm trọng, bạo lực gia
đình là tác nhân gây ra những hậu quả tai hại về cuộc đời, nhân cách của con
người, gián tiếp tạo nên mầm mống các tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác trong
xã hội.
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phương mà là một vấn nạn
toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nước nghèo, đang phát triển cho đến giàu có, phát
triển cao độ. Mọi gia đình thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn
này. Đối tượng của các hành vi bạo lực trong gia đình thường là những thành viên
yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết các trường hợp là phụ nữ, người già và
trẻ em.

Bạo lực trong gia đình tồn tại dưới nhiều hình thức, từ việc sử dụng sức lực, vật
dụng để đánh đập gây thương tích, tổn hại về thể chất cho các thành viên khác;
dùng quyền lực để kiểm soát, khống chế, cấm đoán các thành viên khác về nhiều
mặt; cưỡng bức trong quan hệ tình dục, nhất là ép buộc người phụ nữ làm những
việc liên quan đến tình dục trái với mong muốn của họ; dùng lời nói nhục mạ,
chửi mắng, đe dọa hoặc có hành vi ruồng rẫy, bỏ rơi, không quan tâm lẫn nhau
cho đến cố tình đập phá, làm hư hỏng tài sản chung; tiêu xài hoang phí không
15
nhằm mục đích phục vụ đời sống gia đình, … đều ảnh hưởng lâu dài đến sức
khỏe, tâm lý, tình cảm của mỗi cá nhân. Đặc biệt, đối với trẻ em bạo lực còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sự hình thành nhân cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em
có một cuộc sống bình thường và nhất là tương lai của các em sau này.
2.1.3. Chiến dịch truyền thông “Phòng chống bạo lực gia đình”.
Từ năm 2008, Trung tâm Sáng kiến Sức khoẻ và Dân số (CCIHP) bắt đầu hợp tác
với các tổ chức khác như Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (MoCST), các cơ quan
của Liên Hợp Quốc, các Tổ chức Hợp tác Quốc tế, các Tổ chức Phi chính phủ
trong và ngoài nước và các Tổ chức quần chúng khác ở Việt Nam để triển khai
Chiến dịch truyền thông phòng chống bạo lực gia đình gọi tắt là JCC.
Với niềm tin rằng “Nếu nam giới là một phần của vấn đề thì họ sẽ là một phần
của giải pháp”, chiến dịch hướng đến nâng cao nhận thức của mọi người dân nói
chung và nam giới nói riêng trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình.
(9)
Chiến dịch Truyền thông phòng chống bạo lực gia đình tại Việt Nam với chủ đề “
Mình là đàn ông” ( I am a man) được chính thức phát động vào ngày 25/11/2009
nhân dịp kỉ niệm ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ. Chiến dịch này do
Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - MOCST), Tổ chức Hòa bình và
Phát triển( PyD) - tổ chức phi chính phủ vì sự phát triển của Tây Ban Nha, các tổ
chức quần chúng, Liên hợp quốc, và rất nhiều các tổ chức phi chính phủ trong
nước và quốc tế khác phối hợp thực hiện.
Mục tiêu của chiến dịch là kêu gọi nam giới tham gia một cách tích cực vào các

hoạt động phòng chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ), khiến họ trở thành hình mẫu
người đàn ông không sử dụng bạo lực gia đình, một người đàn ông nhận thức được
vấn đề bình đẳng giới và có thể nói rằng: “I am a man. I am against domestic
violence!”: “Mình là đàn ông, mình chống bạo lực gia đình”
16
Các hoạt động bao gồm: trình chiếu các đoạn phim quảng cáo trên truyền hình và
các tin quảng cáo trên đài phát thanh, các buổi tọa đàm, các tấm áp phích quảng
cáo ngoài trời và trên xe buýt, trang web của chiến dịch, đăng quảng cáo trên các
website lớn, tạp chí, tờ rơi và tranh ảnh. Địa chỉ trang web chính thức của chiến
dịch là: www.minhladanong.com- nơi chia sẻ toàn bộ thông tin tài liệu của chiến
dịch, các phần quảng cáo, các nguồn thông tin quan trọng về vấn đề Bạo lực gia
đình, thông tin thành viên cũng như địa chỉ hỗ trợ các trường hợp bạo lực gia đình.
Bên cạnh đó, chiến dịch cũng sẽ tiến hành thực hiện một số các hoạt động tương
tác với nam giới tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, các đội hướng dẫn viên đã
qua tập huấn sẽ đi đến các điểm công cộng xung quanh thành phố, cung cấp thông
tin và phát tờ rơi cho hàng nghìn nam giới. Hoạt động “nhóm đối thoại’’ được
diễn ra trên 12 tỉnh thành cả nước (Bến Tre, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hòa
Bình, TP. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Nghệ An, Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Ninh
và Thanh Hóa).
2.1.4. Những yêu cầu khi viết một bài báo mạng điện tử.
a. Khái quát chung về BMĐT.
Sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của
BMĐT.
“BMĐT là một loại hình báo chí được xây dựng dưới một hình thức của trang
web và phát hành trên mạng Internet” (BMĐT Trang 53).
Khái niệm “BMĐT” đã khẳng định rằng “loại hình báo chí mới này là con đẻ của
sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, hoạt động được nhờ các phương
tiện công nghệ tiên tiến, số hóa, các máy tính nối mạng…”. Mặt khác, khái niệm
này “cho phép hiểu một cách chính xác về bả chất, đặc trưng của loại hình báo chí
này: tính đa phương tiện, tính tương tác cao, tính tức thời, phi định kì, khả năng

chuyển tải thông tin không hạn chế, với cách lưu trữ thông tin dưới dạng dữ liệu
17
và siêu văn bản, khả năng siêu liên kết- các bài báo được tổ chức thành từng lớp,
có cớ chế “nở” ra với số trang không hạn chế…”
(2)
BMĐT là một tổ chức chính trị xã hội nhất định, được cấp phép hoạt động, phục
vụ công tác tư tưởng, lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, hoạt động theo luật Báo
chí. Nội dung của BMĐT được chọn lọc, đa dạng (mọi vấn đề của đời sống). Tính
thời sự của thông tin cao, có thể đồng thời với sự kiện xảy ra. Mỗi tờ BMĐT được
thiết kế theo chuyên trang, chuyên mục, bắt mắt nhưng đảm bảo tính chính trị của
trật tự thông tin. Chính vì thế mà công chúng của BMĐT rất đa dạng, đại chúng,
có sự quan tâm đến những vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình hoặc đất
nước. Công chúng của BMĐT cũng có sự phản hồi nhanh, hiệu quả, đóng góp
lượng thông tin lớn cho tòa báo, có nhu cầu thông tin cao, coi đó như món ăn tinh
thần hàng ngày.
(1)
Sự ra đời của BMĐT đã làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin trước đây của
một bộ phận công chúng đọc giả. Nếu như trước đây công chúng phải chờ đến một
thời điểm nhất định trong ngày, thường là buổi sáng để cầm một tờ báo in trong tay
và đọc nó, hoặc phải chờ đến một giờ nhất định để xem một chương trình trên ti vi
hay trên đài phát thanh. Thì nay, với sự ra đời và phát triển vượt bậc của công nghệ
internet, BMĐT có thể đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng vào bất cứ thời
điểm nào trong ngày chỉ qua một cái kích chuột.
Cùng với sự phát triển chóng mặt của các công nghệ kết nối, giúp đẩy nhanh tốc
độ truy tải, số lượng các tờ BMĐT cũng nở rộ khắp nơi trên thế giới, truyền tải
thông tin dưới mọi hình thức mà các loại báo truyền thống cung cấp. Có thể coi
BMĐT hiện nay là sự hội tụ của cả báo giấy (text), báo tiếng (audio) và báo hình
(video). Người lướt web không chỉ được cập nhật tin tức dưới dạng chữ viết mà
còn có thể nghe rất nhiều kênh phát thanh và xem truyền hình ngay trên các
website báo chí.

18
Một thế mạnh nữa của BMĐT là khả năng tương tác nhiều chiều. Đơn giản nhất
là khả năng tương tác hai chiều giữa công chúng và toà soạn: người đọc có thể phát
biểu ý kiến, bình phẩm thông tin và đưa lên mạng. Nhờ đó toà soạn có thể nắm bắt
nhanh tâm tư, chính kiến, nguyện vọng, thị hiếu của đọc giả để có những điều
chỉnh cần thiết. Với khả năng tương tác nhiều chiều toà soạn có thể tổ chức nhiều
cuộc giao lưu trực tuyến giữu đọc giả trong, ngoài nước với các vị lãnh đạo hoặc
các nhà hoạt động xã hội, văn hoá, khoa học về những đề tài mà nhiều người
quan tâm. Đây là một lợi thế của báo mạng mà báo in không thể làm được và rất
hạn chế đối với truyền hình và phát thanh.
Báo mạng có sức chứa to lớn cả về không gian và thời gian, tức dung lượng của
thông tin gần như không hạn chế. Mỗi một tờ báo mạng là một cấu trúc rộng về
không gian với nhiều mảng khác nhau, mỗi mảng gần như một tờ báo riêng. Chẳng
hạn như về thời sự quốc tế, thời sự trong nước, giáo dục, khoa học, thể thao, văn
hoá, văn nghệ, âm nhạc, công nghệ thông tin, giải trí Với lợi thế nhanh và mạnh,
sức chứa thông tin khổng lồ và khả năng tương tác nhiều chiều giữa toà soạn và
bạn đọc, báo điện tử đang “chiếm ngôi” của báo giấy.
Ngoài ưu thế có gắn kèm các phương tiện nghe nhìn, báo mạng còn có khả năng
chứa thông tin tư liệu cực lớn. Khi truy cập một bài báo trên mạng, ngay lập tức
độc giả có thể vào xem các bài có liên quan với chỉ một cú nháy chuột vào đường
link gắn kèm. Đây là một khả năng mà báo giấy không thể có.
b. Yêu cầu khi viết một bài BMĐT.
* Cấu trúc của một tin, bài BMĐT:
Khi viết một tin, bài đăng trên BMĐT, cần chú ý đến cấu trúc thông tin của nó.
Cấu trúc thông tin này được tổ chức theo nhiều cửa, bao gồm:
• Tít chính
• Sapô
• Chính văn
• Tít phụ
19

• Tranh ảnh
• Đồ hình (sơ đồ, bản đồ, biểu đồ…)
• Video và hình ảnh động
• Audio
• Các box thông tin, tư liệu
• Các đường link
Cấu trúc này khiến người đọc dễ tiếp nhận, thỏa mãn và phù hợp với mọi ý thích,
thói quen và cách thức tiếp nhận thông tin của công chúng. Tùy vào sự quan tâm
mà độc giả có thể đọc toàn bộ, cũng có thể chỉ lướt qua tit, đọc qua sapô, xem
tranh ảnh, nghe audio…Với cấu trúc nhiều cửa, bài viết sẽ thông thoáng và đẹp
mắt hơn về mặt hình thức. Về mặt nội dung, nhà báo sẽ có cơ hội tổ chức dữ liệu,
sự kiện theo những cách khác nhau. Điều này giúp công chúng có thêm nhiều sự
lựa chọn để dễ dàng tiếp nhạn nhanh và toàn diện thông tin.
* Về mặt ngôn ngữ trên BMĐT:
Ngôn ngữ BMĐT đương nhiên phải mang trong mình những tính chất, đặc trưng
của ngôn ngữ Báo chí nói chung như: Tính chính xác, tính thời sự, tính ngắn gọn,
tính đại chúng. Song bên cạnh đấy, ngôn ngữ BMĐT cũng có một số nét đặc trưng
riêng biệt.
(3)
Ngôn ngữ BMĐT là ngôn ngữ đa phương tiện: Với loại hình báo chí
này thì chữ viết, hình ảnh, âm thanh, tiếng động…đều có thể chuyển hóa thành
ngôn ngữ thông tin. Trên một tác phẩm BMĐT, công chúng có thể tiếp nhận
thông tin bằng cả 3 cách: đọc, nghe và xem Điều này đã tạo ra hiệu quả vượt bậc
khiến công chúng vừa thu nhận được một lượng thông tin phong phú, hấp dẫn,
vừa cảm thấy hài lòng khi khi được quyền chủ động tiếp nhận theo cách riêng của
mình.

Là sự kết hợp nhiều phong cách trong nhiều lớp thông tin: Những văn bản mà
công chúng BMĐT được tiếp nhận là những văn bản đặc biệt- siêu văn bản. Từ
20

văn bản này, công chúng có thể liên kết với các văn bản khác hay những tệp dữ
liệu âm thanh, hình ảnh. Công chúng được tự do đi lại trong nhiều lớp thông
tin.

Ngôn ngữ BMĐT ít mang dấu ấn cá nhân: Mỗi tin bài trên BMĐT có thể sử
dụng nhiều phương tiện truyền tải và có thể được nhiều người thể hiện. Hơn
nữa, nhiều lớp thông tin với nhiều phong cách thể hiện chứa đựng trong một
văn bản. Do đó, người đọc khó nhận biết bản sắc riêng của nhà báo trong từng
tác phẩm.

Ngôn ngữ BMĐT mang bản sắc dân tộc và dấu ấn quốc tế: Đó là ngôn ngữ của
toàn dân, biểu hiện ý thức, truyền thống dân tộc kết hợp với việc thể hiện tính
quốc tế thông quaphamj vi phục vụ, đối tượng khán giả hướng tới.
(1)
* Nguyên tắc viết tin, bài trên báo mạng điện tử:
• Viết ngắn gọn, đúng trọng tâm.
Nên viết ngắn gọn, súc tích, nhằm thẳng đối tượng, chủ thể của bài báo. Viết dễ
hiểu, cụ thể và rõ ràng. Người đọc phải nhận được thông điệp cô đọng, đúng trọng
tâm trong khoảng thời gian nhanh nhất.
(1)
Roy Peter Clark, cây bút chuyên viết cho Viện Poynter, một website nghiên cứu
danh tiếng về báo chí, từng tuyên bố thẳng tuột một câu rằng: "Viết cái gì thì viết
nhưng phải dưới 800 chữ. Bên cạnh những tiện ích hấp dẫn và cách thức sử dụng
tiện lợi, một website chỉ thu hút người đọc khi có nhiều thông tin. Nhưng điều oái
oăm là chúng ta thì muốn viết dài, kể cho chi tiết, nhưng người đọc lại muốn đọc
những bài ngắn. Có thể có người lập luận rằng bài dài thì cắt trang. Cách làm này
không sai, vấn đề chỉ nằm ở chỗ người đọc có lật trang hay không mà thôi. Vậy
nên ta chẳng cần tham chi tiết làm gì, bởi nhiều khi cho vào cũng công cốc.
Jakob Nielsen, một nhà nghiên cứu về vấn đề sử dụng web, đã tiến hành một
nghiên cứu chi tiết trước khi đi đến kết luận rằng độc giả web không hề đọc mà chỉ

"lướt mắt." Một nguyên nhân thường được dẫn ra là người ta đọc báo khi có thể
gác hẳn việc sang một, còn đa phần những người đọc tin trên web là khi đang
làm việc. Thực tế này dẫn đến một thực tế khác là ai cũng muốn xem cho nhanh
21
kẻo sếp đến sau lưng ngó vào thì phiền. Những người đã xem lướt lại có tinh
thần cảnh giác với một ông sếp tò mò thì sẽ chỉ dành cho mỗi tin/bài khoảng vài
giây.
- Chính vì vậy, các tin-bài trên báo điện tử nên lưu ý một số điểm sau:
+ Chớ có lòng vòng, hãy nói thẳng vào câu chuyện chính (Nàng cắt tóc bán lấy tiền
mua đồng hồ cho chàng, còn chàng bán đồng hồ để mua lược cho nàng);
+ Độc giả không chỉ muốn biết ai, cái gì, ở đâu và khi nào mà cả tại sao. (Tại sao
nhà nước tăng thuế. Điều này có ý nghĩa gì với cuộc sống hàng ngày?);
+ Dùng các đoạn ngắn (mỗi đoạn một ý);
+ Dùng câu chủ động, không lạm dụng tính từ và phó từ;
+ Với những bài dài, nên có những tiểu đề mục chứa đựng thông tin (Cách này vừa
tạo ra những điểm nghỉ cho mắt, vừa lôi kéo độc giả đọc tiếp);
+ Có thể dùng font đậm (bold) để nhấn mạnh những điểm quan trọng (nhưng
không nên lạm dụng);
+ Dùng bullet cho các danh mục (Nhìn thoáng là biết từng điểm, rất rõ ràng);
+ Nên có ảnh hoặc hình minh họa, dù nhỏ (Không chỉ có ý nghĩa trang trí đâu, bởi
người ta đã có câu "nhìn con bò chứ không nói con bò");
+ Hãy luôn đặt câu hỏi: "Thông tin này có thể làm thành đồ thị, bảng biểu, hình
minh họa không?" (nếu thấy nên làm biểu, bảng thì còn chần chừ gì nữa.)
+ Dùng các đường link để bổ sung thêm chi tiết mà không cần phải viết thêm
(nhưng nhớ phải kiểm tra chắc chắn rằng đường link dẫn đến tin-bài đó).
(6)
22
• Tăng cường thông tin lý giải và định hướng.
Thực tế là có tờ báo luôn tỏ ra là người đưa tin nhanh, sớm và nhiều nhất nên cứ
khi có diễn biến mới nhất về sự việc, sự kiện nào đó là cập nhật một cách nhanh

chóng. Họ không cần quan tâm xem diễn biến mới đó có quan trọng và cần thiết
với độc giả hay không. Hậu quả là bài báo đó trở thành một mớ thông tin thiếu
chọn lọc. Đối với BMĐT, đôi khi nhanh chưa phải là yếu tố quan trọng nhất. Hầu
hết bạn đọc ít khi quan tâm xem tờ báo nào đưa tin đầu tiên và nhanh chóng nhất.
Họ quan tâm nhiều hơn đến viếc gì đã xảy ra cũng như tầm quan trọng và ý nghĩa
của vấn đề đó. Vì vậy, trong hàng trăm tờ báo, hàng vạn trang Web, tờ báo nào lý
giải thông tin tốt, định hướng được nhu cầu và thẩm mĩ của người đọc thì tờ báo
đó sẽ thành công.
(1)
• Nguyên tắc viết tít.
- Tít( đầu đề) là tên gọi của tác phẩm, là cơ sở để phân biệt bài báo này với bài
báo khác. Tít giúp độc giả dễ dàng xác định mức quan trọng của thông tin và
chọn lọc.
- Tít cho độc giả biết chuyện gì đã xảy ra và vì sao độc giả phải quan tâm tới nó.
Tít là phần độc giả đọc trước tiên. Nếu bạn viết hay độc giả có thể sẽ tiếp tục
đọc bài báo. Nếu bạn viết hỏng, toàn bộ bài báo công phu của bạn sẽ bị bỏ qua.
Vì vậy hãy dành nhiều công sức để viết tít. Đừng coi tít là phần phụ cần hoàn
thành gấp rút sau khi bạn đã viết xong bài báo. Có thể nói tít là câu quan trọng
nhất trong một bài viết trên báo, dù là một tin ngắn hay một phóng sự.
- Giảng viên Fabienne Gérault thuộc Đại học Báo chí Lille, Pháp, nêu lên sáu
chức năng chủ yếu của tít:
+ Thu hút sự chú ý;
+ Cung cấp thông tin chính trong một cái liếc mắt;
23
+ Giúp độc giả lựa chọn bài;
+ Khiến độc giả muốn đọc;
+ Tổ chức trang;
+ Sắp xếp thông tin.
-Tiêu chí giật Tít: Có 4 tiêu chí để rút tít cho một bài BMĐT, đó là: Trung thực,
chính xác, hấp dẫn và trình bày đẹp.

+ Trung thực: Tít phải phản ánh trung thực nội dung và sắc thái của câu chuyện và
phải phù hợp với ảnh hoặc đồ họa kèm theo bài. Bài viết về vấn đề gì và mào đầu
của bài viết như thế nào? Lấy ý tưởng từ mào đầu của bài viết để rút tít nhưng
không đơn thuần sao chép lại mào đầu đó.
+ Chính xác: Chính xác ở đây bao hàm cả về nội dung lẫn hình thức (chính tả, ngữ
pháp). Nếu tít của bài báo sai, độc giả cũng sẽ nghĩ rằng toàn bộ bài báo cũng sai.
Trước hết, phải đảm bảo chắc chắn rằng nội dung của tít là chính xác: Ngày tháng,
số liệu, tên người…phải chính xác tuyệt đối như thông tin nêu trong bài.
+ Hấp dẫn: Tít phải thu hút độc giả, làm họ muốn đọc bài viết, vì vậy cần sử dụng
từ ngữ sắc sảo và hấp dẫn.
+ Hình thức đẹp: Tít phải vừa vặn với khoảng trống dành cho tít ở trên báo. Tít
cũng phải trông đẹp mắt, hợp với các tít khác trên báo cũng như các tít phụ.
- Một tít hay cần phải đáp ứng được những yếu tố sau như sau:
+ Sáng sủa, dễ hiểu: dùng từ đơn giản, cụ thể, không viết tắt.
+ Ngắn, mạnh, trực tiếp: loại bỏ những chi tiết phụ, rườm rà. Đi thẳng vào vấn
24
đề chính, dùng từ mạnh, liên quan đến bài, không dùng tính từ, trạng từ, dùng
câu thể chủ động, khẳng định. Có thể bỏ qua động từ. Tránh dùng chấm than, vì
nó không thay thế được những từ mạnh.
+ Hạn chế dùng dấu chấm câu, trừ dấu hai chấm.
+ Không dùng câu hỏi.
+ Chính xác, trung thực. Không thay thế nội dung bằng hình thức. Không nói quá.
+ Thích hợp, độc đáo: một tít chỉ được dùng cho một bài báo. Tít là riêng biệt.
+ Phù hợp với thể loại: tít phải phù hợp với bài báo, với giọng điệu của nó, với
phong cách, với thể loại báo chí. Dùng trích dẫn đối với thể loại phỏng vấn, điều
mắt thấy tai nghe với thể loại phóng sự hay công thức với xã luận.
• Không bao giờ quên Sapô.
- Sapô (Chapeau) trong tiếng Pháp có nghĩa là “cái mũ”. Qủa thật, sapô có phần
nào đó giống như cái mũ của bài báo. Nó nằm ở trên phần nội dung của bài báo và
dưới tít chính, tạo cho bài báo sự chỉn chu trước khi xuất hiện trước công chúng.

- Sapô phải "đội mũ cho bài báo mà không che khuất nó". Nếu một vài dòng của
sapô đã đủ cho độc giả không có nhiều thời gian thì mục đích của nó không phải là
nói với người đó rằng các phần còn lại của bài báo không có gì đáng quan tâm cả.
Trái lại, nó phải làm người ta muốn đọc và muốn biết thêm chi tiết.
- Chức năng của sapô:
+ Hoàn thiện tít, bằng cách nói rõ chủ đề bài báo và góc độ mà bạn lựa chọn xử lý.
Giúp độc giả hình dung bài báo sẽ nói gì.
+ Tóm tắt thông tin, bằng cách đưa ra thông tin chủ yếu nếu cần phải dừng lại ở đó.
25

×