BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
" Tình hình vay và sử dụng vốn vay của các hộ nông
dân xã quảng phước , quảng điền , TT huế "
MỤC LỤC
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP 1
ĐỀ TÀI 1
" Tình hình vay và sử dụng vốn vay của các hộ nông dân xã quảng phước , quảng
điền , TT huế " 1
MỤC LỤC 2
4.2. Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu 4
4.3. Phân tích và xử lý số liệu 5
2.4. Một số đặc điểm 13
3.1. Đối với chính quyền địa phương: 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
Phần I: Đặt vấn đề
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta đã và đang bước vào giai đoạn hội nhập với nền kinh tế quốc
tế, sự chuyển biến về kinh tế-xã hội đang phát huy và có nhiều thành tựu to lớn, đưa đất
nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, tạo điều kiện cho giai đoạn phát triển mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Hội nghị Trung Ương thứ VI đã khẳng định: “Sự phát triển nông nghiệp và kinh
tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai trò cực kỳ quan trọng cả
trước mắt và lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Sự phát triển của
kinh tế nông thôn đóng góp một vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân, và quá trình
phát triển này đã và đang có sự hỗ trợ không nhỏ từ phía các tổ chức tín dụng.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã có nhiều thành tựu, tuy nhiên đời sống của
người dân vẫn chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt là người dân ở vùng nông thôn.
Nhiều vùng nông thôn vẫn còn nghèo về vật chất - kỹ thuật, hạn chế về nhiều mặt trong
nền kinh tế-xã hội chung của đất nước. Nhiều hoạt động cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn
đang tập trung vào quá trình xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho bà con nông dân
đã phần nào phát huy hiệu quả, nhưng cái mà bà con quan tâm nhất là nguồn vốn tín dụng
thì vẫn còn nhiều hạn chế. Nhu cầu tín dụng của người dân xuất phát từ nhiều hoạt động
khác nhau, và việc đáp ứng được nhu cầu đó cũng là một bước phát triển của các tổ chức
tín dụng. Hiện nay, mạng lưới tín dụng đã có mặt ở khắp các vùng nông thôn, miền núi.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng này đã và đang phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều
người dân ở khu vực nông thôn vẫn ít hoặc chưa thể tiếp cận được các hoạt động của các
tổ chức tín dụng này. Mạng lưới tài chính còn chưa thực sự có hiệu quả ở vùng sâu vùng
xa. Đa số người nghèo ở đây chưa được cán bộ tín dụng tiếp cận. Những quy định mới về
thế chấp tài sản đã tháo gỡ một phần khó khăn khi người dân vay vốn, nhưng vẫn bất cập
đối với một bộ phận nông dân kinh doanh trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ và cả
người nghèo.
Quảng Phước là một xã vùng trũng của huyện Quảng Điền, phần lớn thu nhập của
người dân chủ yếu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.Nhu cầu về vay vốn của người dân
để mở rộng sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều.Mặc dù hiện nay đã có nhiều tổ chức tín
dụng như NHN
o
& PTNT, NHCSXH… nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn của
người dân, các hoạt động tín dụng đang gặp nhiều bất cập cả từ các tổ chức và từ phía
người dân.
Để hiểu rõ hơn về các tổ chức tín dụng nông thôn cũng như hoạt động vay vốn và
sử dụng vốn của nông dân chúng tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề:
“Tình hình vay vốn và sử dụng vốn vay của các nông hộ ở xã Quảng Phước”
2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về tín dụng nông nghiệp nông thôn.
- Đánh giá tình hình vay và sử dụng vốn vay, những nguyên tắc tác động đến việc
vay vốn của các hộ nông dân xã Quảng Phước huyện Quảng Điền.
- Đề xuất những kiến nghị về tình hình cho vay vốn và sử dụng vốn vay của các hộ
nông dân trên địa nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Các tổ chức tín dụng nông thôn trên địa bàn xã Quảng Phước và các tổ chức tín
dụng nông thôn trên địa bàn huyện Quảng Điền như: NHN
0
& PTNT Quảng Điền,
NHCSXH huyện Quảng Điền, các tổ chức xã hôi, các nhà cho vay tư nhân và các nguồn
vốn nhàn rỗi khác trong dân cư trên địa bàn xã.
- Các hộ nông dân vay vốn ở xã Quảng Phước huyện Quảng Điền – tỉnh TT-Huế
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Chọn điểm và mẫu khảo sát
- Chọn điểm nghiên cứu: dựa trên các tiêu chí sau:
+ Điểm nghiên cứu ở mỗi vùng sinh thái phải thể hiện được tính đại diện cho vùng
sinh thái đó về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
+ Điểm nghiên cứu phải có các hoạt động tín dụng diễn ra trong các năm 2007-2009.
Theo tiêu chuẩn trên tôi đã chọn xã nghiên cứu là xã Quảng Phước, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
- Mẫu khảo sát: 46 hộ trên địa bàn xã theo tiêu chí hộ nghèo, hộ không nghèo.
Phỏng vấn người am hiểu: Ban quản lý của các tổ chức tín dụng trên địa bàn xã.
- Yêu cầu mẫu khảo sát:
+ Các hộ gia đình đang sinh sống tại xã Quảng Phước.
+ Các hộ phân bố đều trên khu vực khảo sát.
4.2. Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu
4.2.1. Đối với thông tin cấp cộng đồng
- Loại thông tin thu thập:
+ Thu thập các số liệu về điều kiện tự nhiên: Thời tiết, khí hậu, tài nguyên thiên
nhiên, đất đai.
+ Thu thập các số liệu về điều kiện kinh tế xã hội: Tình hình kinh tế của huyện, các
chính sách quy định, cơ sở hạ tầng trong Báo cáo Tổng kết các năm 2007-2009 và Định
hướng phát triển kinh tế của xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh TT-Huế đến năm
2010.
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Nguồn số liệu được thu thập thông qua các tài liệu, các báo cáo, các số liệu từ
UBND xã có liên quan.
+ Phỏng vấn người am hiểu.
4.2.2. Đối với thông tin cấp cá nhân
- Loại thông tin thu thập:
+ Nhu cầu vay vốn của hộ
+ Thực trạng vay vốn của hộ
+ Mức vay, hình thức vay…
+ Thực trạng về mức sống và thu nhập của hộ.
+ Những hiểu biết về các tổ chức tín dụng, các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định vay
vốn, cách tiếp cận nguồn vốn tín dụng của hộ
+ Kết quả hoạt động sản xuất của hộ khi sử dụng vốn vay
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Phỏng vấn hộ
4.3. Phân tích và xử lý số liệu
+ Nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp phân tích: Phân tích định tính và phân
tích định lượng nhằm đánh giá khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của người dân xã Quảng
Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh TT-Huế.
+ Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.
5. Giới hạn:
- Do thời gian thực tập có hạn trong khi đó số hộ nông dân vay vốn lại rất nhiều nên
chúng tôi chỉ điều tra trong phạm vi 46 hộ vay vốn trên địa bàn xã Quảng Phước.
- Do hộ nông dân có thể vay từ nhiều nguồn khác nhau như: từ ngân hàng, bạn bè,
người thân, vay nặng lãi…nhưng đưa vào cùng một hoạt động sản xuất nên không thể
lượng hóa được đâu là hiệu quả từ nguồn vốn nào mang lại. Do đó trong phạm vi đề tài
này chúng tôi xin dừng lại ở chổ phân tích tình hình sử dụng vốn chứ không đánh giá hiệu
quả của việc sử dụng vốn.
+ Địa bàn điều tra: xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
+ Nội dung:
• Đánh giá tình hình vay vốn và sử dụng vốn của các nông hộ ở xã Quảng Phước
• Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Phần II: Nội dung nghiên cứu
Chương I: Cơ sở khoa học của vấn đề cần nghiên cứu
1. Một số vấn đề cơ bản về hộ nông dân
1.1. Khái niệm hộ nông dân
Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm
cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn.
Trong các hoạt động phi nông nghiệp, khó phân biệt các hoạt động liên quan với nông
nghiệp và không liên quan với nông nghiệp.Gần đây có một số khái niệm rộng hơn là hộ
nông thôn, tuy vậy giới hạn giữa nông thôn và thành thị cũng đang là vấn đề còn tranh
luận.
Khái niệm hộ nông dân: “Nông dân là các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ
ruộng đất, sử dụng chủ yếu là lao động gia đình trong trang trại, nằm trong một hệ thống
kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị
trường hoạt động với trình độ hoàn cảnh không cao”.
1.2.Đặc điểm cơ bản của hộ nông dân
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn
vị tiêu dùng
- Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ tự cung
tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hoàn toàn.Trình độ này quyết định quan hệ giữa hộ nông
dân và thị trường.
- Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào các hoạt động phi
nông nghiệp với các mức độ khác nhau, khiến cho khó giới hạn thế nào là một nông hộ.
-Khả năng của hộ nông dân chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu tái sản xuất giản đơn nhờ sự
kiểm soát tư liệu sản xuất là ruộng đất và lao động.
- Sản xuất kinh doanh chịu nhiều rủi ro, nhất là rủi ro khác quan, trong khi đó khả
năng khắc phục lại hạn chế.
- Hộ nghèo và hộ trung bình chiếm tỷ trọng cao, khó khăn của hộ là thiếu vốn.
Từ những đặc điểm cơ bản trên, ta có thể nhận xét: Đối tượng cho vay mang tính tổng
hợp, bao gồm nhiều lĩnh vực, mức độ và hiệu quả sử dụng vốn từng loại hộ cũng khác
nhau.Chính vì vậy, việc xem xét, thẩm định cho vay đóng một vai trò hết sức quan trọng
và là khâu quyết định đến sự an toàn vốn cũng như sự phát triển bền vững của tổ chức
tính dụng.
1.3. Tiềm năng nội tại của hộ nông dân
Như chúng ta đã biết, nước ta có tới 80% dân số là nông dân. Đây là lực lượng lao
động rất hùng hậu, mặc dù lao động trong nông thôn trình độ không cao nhưng họ là
những người cần cù, chăm chỉ, chịu khó và đặc biệt họ có một kinh nghiệm thực tế rất
đáng khâm phục.Hiện nay, vấn đề thiếu việc làm đã dẫn đến tình trạng dư thừa lao động ở
nông thôn ngày càng tăng, phong trào lên thành phố kiếm việc làm ngày càng lớn.Do đó,
để tận dụng nguồn lao động này, Đảng và Nhà nước cần phải có những chính sách đầu tư
thích đáng vào nông thôn nhằm tạo điều kiện cho người dân mở rộng sản xuất và phát
triển ngành nghề phụ để thu hút lao động.
Người nông dân là những người có kinh nghiệm thực tế, chỉ qua thực tế trong sản
xuất họ đã rút ra được những kinh nghiệm rất quý báu, mặt khác họ là những người thật
thà, chăm chỉ và rất ham học hỏi.
Nguồn vốn trong dân còn rất lớn nhưng hầu hết bà con chưa giám mạnh dạn đầu tư vì
sợ thua lổ.Hiện nay, nhờ có chính sách cho vay vốn để sản xuất nên bà con đã mạnh dạn
góp phần vốn của mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên còn chưa đáng kể.
2. Một số vấn đề chung về tín dụng
Vốn là một trong những nguồn lực có vai trò quan trọng không chỉ đối với các ngành
kinh tế nói chung mà cả trong nông nghiệp nói riêng .Hiện nay , nhu cầu về vốn là rất lớn
nhưng khả năng đáp ứng lại rất hạn chế .Để giải quyết những khó khăn đó , Nhà nước đã
mở rộng và hoàn thiện dần hệ thống tín dụng từ trung ương đến địa phương.
2.1. Khái niệm tín dụng.
Khái niệm tín dụng: “tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa )giữa
bên cho vay(ngân hàng và các định chế khác )và bên đi vay (cá nhân ,doanh nghiệp và
các chủ thể khác),trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thỏa thuận,bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
2.1.1 Tín dụng chính thức và tín dụng không chính thức
Thị trường tín dụng nông thôn Việt Nam bao gồm hai bộ phận là tín dụng chính thức
và tín dụng không chính thức,hai bộ phận này cùng tồn tại và có sự phân cấp rõ ràng
trong việc cung cấp vốn cho hộ nông dân.
2.1.1.1.Tín dụng chính thức:
Theo Frank_Ellis : Thì tín dụng chính thức là hình thức tín dụng được tổ chức theo
luật định của quốc gia , bao gồm các Ngân hàng của nhà nước và Ngân hàng tư nhân
,Hợp tác xã tín dụng và một số hình thức khác.
Một số tác giả Việt Nam cho rằng :Tín dụng chính thức là hình thức huy động vốn và
cho vay vốn thong qua các tổ chức tài chính tín dụng chính thức có đăng ký và hoạt động
công khai theo theo luật , hoặc chịu sự quản lý và giám sát của chính quyền Nhà nước các
cấp. Hình thức này bao gồm hệ thống Ngân hàng kho bạc nhà nước, hệ thống quỹ tính
dụng nhân dân, các công ty tài chính, một số tổ chức tiết kiệm – cho vay vốn do các đoàn
thể xã hội, các tổ chức quốc tế, các chương trình và dự án của các ngành được thực hiện
bằng nguồn vốn tính dụng của Chính phủ và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như
Ngân hàng Thế giới, ngân hàng phát triển Á Châu, quỹ tiền tệ quốc tế và quỹ quốc tế và
phát triển nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc.
2.1.1.2.Tín dụng không chính thức
Tín dụng không chính thức là tính dụng do các tổ chức, các cá nhân nằm ngoài các tổ
chức chính thức đã kể ở trên thực hiện.
Tín dụng không chính thức là hoạt động tín dụng năm ngoài khuôn khổ luật định của
Nhà nước, hoặc không phụ thuộc, không chịu sự quản lý và giám sát của chính quyền
Nhà nước các cấp.
2.2 Phân loại tín dụng:
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ tín dụng ngày càng đa dạng, theo các
tiêu thức khác nhau người ta phân ra thành các loại tín dụng sau;
Căn cứ vào thời hạn tín dụng: Có 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là tín dụng có thời hạn dưới một năm
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng: có hai loại:
- Tín dụng vốn lưu động: nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của đối tượng đi vay.
- Tín dụng vốn cố định: nhằm đáp ứng nhu cầu để hình thành tài sản cố định.
Căn cứ vào mục đích: Có 2 loại:
- Tín dụng để sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng.
Căn cứ vào chủ thể quan hệ tín dụng:
- Tín dụng thương mại: Phản ánh các quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa những
người sản xuất kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
- Tín dụng Nhà nước: Phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với dân cư và
các chủ thể kinh tế khác. Trong đó Nhà nước đi vay và cũng đồng thời là người cho vay
để đảm bảo thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý KT-XH.
- Tín dụng Ngân hàng: Phản ánh quan hệ vay mượn vốn tiền tệ giữa các Ngân hàng
với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế.
Tín dụng thuê mua: Tín dụng thuê mua phản ánh những quan hệ tín dụng nảy sinh
giữa công ty tài chính (công ty cho thuê tài chính) với những người sản xuất kinh doanh
dưới hình thức cho thuê tài sản
2.3 Vai trò và chức năng của tín dụng đối với phát triển kinh tế
2.3.1 Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế:
Tín dụng là mối quan hệ vay mượn kinh tế nên tín dụng có vai trò nhất định đối với
hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào trình độ quản lý
kinh tế của con người.
Trước hết, tín dụng có vai trò và tác dụng quan trọng đó là công cụ tích tụ và tập
trung vốn. Thông qua tín dụng các đơn vị sản xuất nhận được khối lượng vốn bổ sung rất
lớn từ đó tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật.
Mặt khác, thông qua tín dụng nó tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành khoản vốn lớn
tạo ra khả năng đầu tư vào các công trình có hiệu quả kinh tế cao. Tóm lại, thông qua quá
trình tích tụ và tập trung vốn nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển là công cụ bình
quân hóa tỷ suất lợi nhuận vì tín dụng giúp cho các nhà doanh nghiệp đầu tư vào các
ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, thúc đẩy khả năng cạnh tranh, chuyển hướng sản xuất
kinh doanh. Tín dụng trở thành đòn bẩy của nền kinh tế nói chung và đơn vị sản xuất nói
riêng trở nên năng động, linh hoạt, mềm dẻo và là công cụ quay vong vốn tiết kiệm giảm
lượng tiền mặt trong lưu thông.
Sự điều hòa vốn tín dụng trước hết đòi hỏi đảm bảo quy luật giá trị và lưu thông tiền
tệ trong quá trình sản xuất và tuần hoàn vốn được phát huy liên tục đó chính là sự vận
động bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hàng hóa rồi quay lại hình thái tiền tệ ban đầu của
nó. Chính sự vận động của vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như sự
vận động không ngừng của tài sản trong quá trình sản xuất nhằm đảm bảo cho quá trình
sản xuất được diễn ra một cách liên tục, dẫn đến nảy sinh vấn đề phổ biến là cùng một lúc
có nhiều tổ chức cá nhân, doanh nghiệp có dự trữ vốn nhàn rỗi hoặc đang tạm thời thiếu
hụt vốn. Mâu thuẫn này xảy ra một cách liên tục, thường xuyên xen kẽ nhau trong quá
trình tuần hoàn vốn. Để giải quyết mâu thuẫn này, quan hệ tích tụ và điều hòa ra đời trên
nguyên tắc hoàn trả, ra đời với giá trị cao hơn giá trị ban đầu của nó, quan hệ tích tụ và
điều hòa này nhằm tạo thuận lợi cho việc ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật vào
phát triển sản xuất, đông thời tạo điều kiện thuận lợi cho hạch toán kinh tế được cân đối
trên toàn xã hội, đó chính là vai trò quan trọng của tín dụng trong phát triển kinh tế.
2.3.2 Vai trò của tín dụng nông thôn đối với phát triển kinh tế hộ nông dân.
Xuất phát từ đặc điểm của hộ nông dân, tín dụng nông thôn có các chức năng sau:
- Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của người dân và thực hiện chính sách xã
hôi khác của Nhà nước.
Hiện nay, đại bộ phận nông dân điều có mức thu nhập thấp. Họ không có đủ vốn để
đầu tư thâm canh mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, năng suất cây trồng vật nuôi
không cao kéo theo thu nhập không cao. Vòng luẩn quẩn đó sẽ kéo dài mãi nếu không có
“cú huých” từ bên ngoài. Thông qua các chính sách ưu đãi về vốn vay, lãi suất, điều kiện
và thời hạn đối với các hộ nông dân, tín dụng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc
thực hiện các chính sách việc làm, dân số, y tế, giáo dục, các chương trình xóa đói giảm
nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
- Tín dụng góp phần tạo ra và duy trì quy mô sản xuất kinh doanh phù hợp. Trong
hầu hết các cơ sở sản xuất nông nghiệp luôn tồn tại sự lệch pha giữa nhu cầu và khả năng
về vốn. Tín dụng ra đời như một tất yếu khách quan để giải quyết sự lệch pha này. Từ
nguồn vốn tín dụng các cơ sở sản xuất nông nghiệp sẽ có thể đầu tư các yếu tố đầu vào
còn thiếu để thực hiện các hoạt động sản xuất của mình, đồng thời duy trì các hoạt động
đó một cách liên tục.
- Tín dụng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khai thác tốt các nguồn
lực địa phương.Tính chất thời vụ thể hiện rất rõ nét trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp.Nguồn vốn từ các khoản tín dụng sẽ giúp các cơ sở sản xuất nông nghiệp bù đắp
các chi phí ở thời kỳ chưa có thu nhập, làm cho quá trình sản xuất được liên tục,
tự chủ trong các cơ sở sản xuất kinh doanh cũng được mở rộng.Ngoài việc bù đắp các
khoản thiếu hụt, vốn tín dụng còn giúp người sản xuất có thể mua sắm các máy móc,
trang thiết bị, mở rộng quy mô, đầu tư thâm canh để nâng cao chất lượng, khối lượng sản
phẩm đem lại thu nhập cao hơn…
- Tín dụng góp phần thực hiện điều chỉnh kinh doanh.Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, nhu cầu về hàng hóa của khách hàng thường xuyên có sự biến đổi.Chính những
thay đổi của thị trường buộc các nhà sản xuất phải có sự điều chỉnh trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình.Với các nguồn tín dụng, họ có thể đầu tư mua con giống mới
để có sản phẩm chất lượng cao hơn, đầu tư một mô hình sản xuất mới, một dây chuyền
sản xuất mới…nhằm đem lại hiệu quả sản xuất cao hơn.
- Tín dụng góp phần giải quyết các biến động và hạn chế những rủi ro trong sản xuất
kinh doanh.Những biến động về giá cả, yếu tố đầu vào thường có biến động rất mạnh đến
người sản xuất.Lúc này nguồn vốn tín dụng sẽ giúp họ khắc phục những khó khăn về vốn,
đảm bảo được hoạt động sản xuất theo dự định.Ngoài ra, nguồn vốn giúp các hộ nông dân
có thể dự trữ hàng hóa phục vụ vào lúc trái mùa.
Ngoài những ảnh hưởng về giá, sản xuất nông nghiệp còn chịu tác động rất lớn của
điều kiện tự nhiên như thời tiết, thiên tai, dịch bệnh.Tín dụng là yếu tố ngăn ngừa những
bất lợi trong sản xuất kinh doanh, chống lại những hạn chế rủi ro có thể xảy ra.Như vậy,
ta thấy rằng vai trò của tín dụng trong nền kinh tế hiện nay đặc biệt quan trọng.
2.3.2. Chức năng của tín dụng
- Tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
thông qua hai quá trình huy động và cho vay nhằm sử dụng vốn có hiệu quả để giúp cho
sự tăng trưởng kinh tế-xã hội.
- Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông xã hội: Khi sử dụng tín dụng người ta có thể
vay tiền mặt bằng các phương tiện tín dụng. Từ đó làm giảm lượng tiền mặt trong lưu
thông nên tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt.
- Phản ánh và kiểm soát hoạt động kinh tế: Chức năng này phát triển của hai chức
năng trên, cụ thể là: Thông qua kế hoạch huy động và cho vay của ngân hàng, sẽ phản ánh
được mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt, đồng thời qua nghiệp vụ cho vay,
ngân hàng có điều kiện nhìn tổng quát vào cấu trúc tài chính của từng đơn vị cho vay. Từ
đó phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của nhà nước.
2.4. Một số đặc điểm
2.4.1. Hộ gia đình là đối tác vay vốn
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hộ, song có điểm chung cơ bản là các
thành viên trong một hộ cùng nhau quyết định quá trình tổ chức và quản lý sản xuất, cũng
như phân phối sản phẩm làm ra. Vì vậy có thể khẳng định rằng: gia đình chỉ là một loại
hình của hộ, nhưng gia đình là cơ sở hình thành nên mô hình mở rộng.
Ở Việt Nam hiện nay, các quan điểm đều thừa nhận vai trò to lớn của kinh tế hộ trong
quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt vai trò của kinh tế hộ nông dân trong nông nghiệp và
phát triển nông thôn. “Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở
của nông nghiệp, nông thôn. Các thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau chặt chẽ trước
tiên bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, dựa trên cơ sở huyết thống, ngoài ra còn do
truyền thống qua nhiều đời, do phong tục tập quán, tâm lý đạo đức, gia đình, dòng họ. Về
kinh tế, các thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau trên các mặt quan hệ sở hữu, quan
hệ quản lý và quan hệ phân phối, mà cốt lõi của nó là quan hệ lợi ích kinh tế”.
Ở Việt Nam, hộ nông dân được hiểu là một gia đình có tên trong bảng kê khai hộ
khẩu riêng, gồm một người làm chủ hộ và những người cùng sống trong hộ gia đình ấy.
Về mặt kinh tế, hộ gia đình có mối quan hệ gắn bó, không phân biệt về mặt tài sản, những
người sống trong một hộ gia đình có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự phát triển kinh tế.
Nghĩa là mỗi thành viên phải có nghĩa vụ đóng góp công sức vào quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế của hộ và có trách nhiệm đối với kết quả sản xuất thu được. Phần lớn
các thành viên trong gia đình nông dân làm tất cả các công việc (trồng trọt, chăn nuôi,
nghề phụ), dưới sự điều khiển của chủ hộ (cha hoặc mẹ). Có một số hộ nông dân giàu, có
tài sản lớn, có thể thuê thêm lao động thời vụ, nhưng nhìn chung các thành viên trong gia
đình là lực lượng lao động chủ yếu của hộ nông dân.
2.4.2. Hộ gia đình sản xuất kinh doanh
Về phương diện sản xuất và quan hệ tín dụng đối với các tổ chức tín dụng, hộ sản
xuất có một số đặc điểm cơ bản là:
- Hộ gia đình là đơn vị sản xuất cá thể mang nặng tính tự cấp, tự túc, tỷ trọng hàng
hóa sản xuất ra thường không lớn.
- Trình độ sản xuất, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa cao.
- Sản xuất hộ nông dân thường phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, rủi ro cao, sản xuất
nhỏ lẻ, sản xuất theo thời vụ.
- Hộ sản xuất hầu hết đều là người nông dân hiền lành, chịu khó làm ăn, nhìn chung
có tín nhiệm trong cộng đồng làng xã, đặc biệt là trong việc thực hiện nghĩa vụ với nhà
nước.
- Về quan hệ tín dụng với ngân hàng, các hộ phần lớn đều có ý thức vay, trả tương đối
sòng phẳng.
- Trong trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng, mùa màng thất bát, hộ sản xuất
thường không có khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ý thức hoàn trả nợ để duy trì tín nhiệm trong
cộng đồng làng xã thường rất cao. Nếu vụ sản xuất sau có thu hoạch, họ sẵn sang hoàn trả
nợ cũ cho ngân hàng.
2.4.3. Cơ chế tín dụng
- Lãi suất: Là giá cả của khoản cho vay, được biểu hiện bằng tỷ lệ % giữa giá trị lãi
của khoản vay và khoản vay trong một thời gian nhất định
- Thủ tục cho vay: Là một tập hợp các bước, các công việc cần thiết nhất định phải
tiến hành giữa người đi vay và người cho vay để thực hiện hoàn thành theo một trình tự
một nghiệp vụ tín dụng.
- Thời hạn cho vay: Là một khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Thời hạn cho vay bao gồm:
+ Cho vay ngắn hạn: Đối với khách hàng vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống, được xác định phù hợp với chu kỳ sản
xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng tối đa đến 12 tháng.
+ Cho vay trung, dài hạn: Đối với khách hàng vay vốn trung, dài hạn nhằm thực hiện
các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Thời hạn cho vay
được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của
khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng ( >12 tháng).
- Mức cho vay:
+ Đối với hình thức cho vay có thế chấp, giá trị món vay luôn được xác định trên sơ
sở giá trị tài sản thế chấp.
+ Đối với hình thức cho vay theo tín chấp, mức cho vay là số tiền tối đa mà các tổ
chức tín dụng có thể cho người cần vốn vay.
- Thời gian thu hồi vốn vay: Là thời gian bắt đầu từ khi người vay nhận được khoản
vay đến khi thực hiện trả lần đầu tiên về lãi hoặc nợ gốc.
2.5. Chính sách của nhà nước về tín dụng nông nghiệp:
2.5.1. Các chính sách của Nhà nước:
Theo chính sách tín dụng mới của Nhà nước phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn, kể từ ngày 1/6/2010, cá nhân, hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có thể được
xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tối đa đến 50 triệu đồng.
Cũng với hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, các hộ kinh doanh, sản
xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn được xem xét cho vay
tối đa đến 200 triệu đồng; hợp tác xã, chủ trang trại được xem xét cho vay tối đa đến 500
triệu đồng.
Đây là một trong những nội dung quan trọng của Nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn vừa được Thủ tướng Chính phủ
ký ban hành. Theo đó, Chính phủ có chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc cho vay đối với
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ,
chính sách xử lý rủi ro phát sinh trên diện rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và
các chính sách cụ thể khác trong từng thời kỳ.
Đối tượng áp dụng chính sách này gồm các tổ chức thực hiện cho vay phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn (các tổ chức tín dụng (TCTD), tổ chức tài chính quy mô
nhỏ; các ngân hàng, tổ chức tài chính được Chính phủ thành lập để thực hiện việc cho vay
theo chính sách của Nhà nước) và các tổ chức, cá nhân được vay vốn theo quy định để
phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Cho vay tín chấp
Về cơ chế bảo đảm tiền vay, Nghị định quy định, TCTD được xem xét cho khách
hàng vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định hiện
hành. Đồng thời, TCTD quy định rõ mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, điều
kiện và thủ tục cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với từng đối tượng khách
hàng, phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về cho vay của TCTD đối với
khách hàng.
Ngoài ra, TCTD xem xét cho vay tín chấp đối với các đối tượng khách hàng là cá
nhân, hộ gia đình trên cơ sở có bảo đảm của các tổ chức chính trị - xã hội ở nông thôn
theo quy định hiện hành.
Lãi suất cho vay
Những khoản cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn của các TCTD do Chính phủ
hoặc các tổ chức cá nhân khác ủy thác thì mức lãi suất được thực hiện theo quy định của
Chính phủ hoặc theo thỏa thuận với bên ủy thác.
Còn các tổ chức tài chính quy mô nhỏ cho vay các đối tượng trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn theo lãi suất thỏa thuận với khách hàng, phù hợp với quy định của pháp
luật.
Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay các đối tượng chính sách và các
chương trình kinh tế theo chỉ định của Chính phủ, được Chính phủ bảo đảm các điều kiện
để thực hiện thông qua các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong
từng thời kỳ. Trong trường hợp này, lãi suất cho vay theo mức lãi suất do Chính phủ quy
định.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định, TCTD có chính sách miễn, giảm lãi đối với khách
hàng tham gia mua bảo hiểm trong nông nghiệp để khuyến khích khách hàng vay vốn
tham gia mua bảo hiểm nhằm hạn chế rủi ro đối với TCTD.
Khoanh nợ không tính lãi trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh
Về thời hạn cho vay, căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, khả năng hoàn vốn của
dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, TCTD và khách hàng thỏa thuận
thời hạn vay vốn phù hợp.
Trường hợp khách hàng chưa trả được nợ đúng hạn cho TCTD do nguyên nhân khách
quan (thiên tai, dịch bệnh ), TCTD được xem xét cơ cấu lại thời hạn nợ cho khách hàng
theo quy định hiện hành, đồng thời căn cứ dự án, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, có khả năng trả được nợ của khách hàng để xem xét cho vay mới, mà không phụ
thuộc vào dư nợ cũ của khách hàng chưa trả nợ đúng hạn.
Trường hợp thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng, khi có thông báo của cấp có
thẩm quyền, ngoài việc xem xét cơ cấu lại thời hạn nợ cho khách hàng, Chính phủ có
chính sách hỗ trợ cụ thể đối với tổ chức, cá nhân vay vốn bị thiệt hại nặng, không có khả
năng trả nợ. TCTD cho vay được thực hiện khoanh nợ không tính lãi cho người vay đối
với dư nợ hiện còn tại thời điểm xảy ra thiên tai, dịch bệnh được công bố tại địa phương.
Thời gian khoanh nợ tối đa 2 năm và số lãi TCTD đã khoanh cho khách hàng được giảm
trừ vào lợi nhuận trước thuế của TCTD.
2.5.2. Điều kiện vay vốn đối với NHCSXH
Hiện nay NHCSXH đang thực hiện cho vay đối với các đối tượng sau: cho vay giải
quyết việc làm, hộ nghèo, sinh viên - HS (gọi chung là HS) có hoàn cảnh khó khăn, người
diện chính sách đi xuất khẩu lao động.
Các trường hợp này được vay vốn không cần thế chấp (trừ một số ít trường hợp) và
lãi suất vay ưu đãi (phổ biến là 0,5%/tháng). Tùy đối tượng, các thủ tục vay có khác nhau.
Cụ thể như sau:
2.5.2.1. Giải quyết việc làm
Đối tượng gồm các hộ gia đình, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công
nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại và dịch vụ; cơ sở sản xuất kinh doanh dành cho
người tàn tật; tổ hợp sản xuất; hộ kinh doanh cá thể; doanh nghiệp nhỏ và vừa; hộ gia
đình và cá nhân làm kinh tế trang trại. Trong các đối tượng trên, ưu tiên cho các dự án có
đối tượng là người tàn tật, sử dụng nhiều lao động nữ, giải quyết việc làm cho người lao
động ở khu vực đô thị hóa.
Đối tượng vay phải có dự án vay vốn tạo việc làm mới, thu hút thêm lao động vào
làm việc thường xuyên và phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi thực hiện dự
án. Đối với hộ gia đình phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương nơi thực hiện dự án.
Nếu vay dưới 15 triệu đồng thì không cần thế chấp nhưng phải có bảo lãnh bằng tín
chấp của chủ tịch UBND cấp xã, huyện, hoặc người đứng đầu tổ chức đoàn thể, hội quần
chúng tùy trường hợp. Nếu vay trên 15 triệu đồng phải có tài sản thế chấp.
Mục tiêu của chương trình là tạo thêm việc làm, do vậy phải có điều kiện cụ thể, nếu
hộ gia đình vay dưới 15 triệu phải tạo ra ít nhất một chỗ làm mới hoặc tăng thêm thời gian
làm việc tương ứng với một lao động.
Với dự án có nhiều hộ gia đình vay vốn, mức cho vay tùy thuộc số hộ thực hiện dự án
nhưng mỗi hộ vay không quá 15 triệu đồng. Với các hợp tác xã, trường hợp làm kinh tế
trang trại thì mức vay không quá 200 triệu đồng/dự án.
Hiện nay NHCSXH đang cho vay tạo việc làm trong các lĩnh vực: chăn nuôi gia súc,
gia cầm; trồng cây lương thực, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày; sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, chế biến; nuôi thủy hải sản; dịch vụ, kinh doanh nhỏ; mua sắm máy móc,
thiết bị phục vụ sản xuất, phương tiện vận tải thủy bộ loại vừa và nhỏ, ngư cụ nuôi trồng,
đánh bắt thủy hải sản.
Thời gian vay tối đa không quá 12 tháng (ngắn hạn) và 12-60 tháng (trung hạn). Trình
tự làm thủ tục vay vốn, người vay có thể liên hệ phòng lao động - thương binh & xã hội
và NHCSXH TP.HCM. Hiện TP.HCM có khoảng 12.200 hộ đang vay số tiền lên tới
104,2 tỉ đồng.
2.5.2.2. SV-HS có hoàn cảnh khó khăn
Các HS có hoàn cảnh khó khăn đang theo học hệ chính qui tập trung tại các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề công lập, bán công hoặc dân lập
có thời gian đào tạo từ một năm trở lên đều được vay.
Các HS này phải được chính quyền địa phương nơi đăng ký hộ khẩu xác nhận có
hoàn cảnh khó khăn và đang theo học tại các trường đào tạo có thời hạn trên một năm.
Đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu về điểm trung bình chung mở rộng, cụ thể: từ 5
điểm trở lên đối với HS diện chính sách, diện nghèo, hoặc không thuộc diện chính sách
nhưng có hộ khẩu thường trú thuộc khu vực 1; từ 6 điểm trở lên đối với HS có hộ khẩu
thường trú thuộc khu vực 2; từ 7 điểm trở lên đối với HS có hộ khẩu thường trú thuộc khu
vực 3.
Kết quả học tập của năm trước liền kề là điều kiện để HS được tiếp tục vay vốn ở
năm tiếp theo. Riêng năm học thứ nhất, nếu HS có kết quả học kỳ I đạt tiêu chuẩn qui
định thì NHCSXH sẽ giải ngân số tiền vay cả năm.
Vào đầu các năm học hoặc đầu học kỳ II năm học thứ nhất, HS đăng ký để nhà
trường nơi đang theo học lập danh sách vay vốn gửi NHCSXH để làm thủ tục vay. Ngoài
các thủ tục như xác nhận của chính quyền phường xã, của ban giám hiệu còn phải có cam
kết của đại diện gia đình HS, hoặc người đỡ đầu hợp pháp phải cam kết trách nhiệm trả
nợ thay nếu HS không trả đủ nợ.
Thời hạn vay gồm thời gian ân hạn và thời hạn trả nợ. Thời gian ân hạn là từ khi HS
nhận vốn vay đầu tiên đến khi kết thúc khóa học. Trong thời gian này HS chưa phải trả nợ
gốc và lãi vay. Thời gian trả nợ được tính bằng số năm HS được ngân hàng cho vay vốn
khi đang còn học ở trường. Kỳ trả nợ gốc và lãi vay đầu tiên được thực hiện trong thời
hạn sáu tháng kể từ khi kết thúc năm học.
Ngân hàng vẫn thu nợ đối với các trường hợp HS không đủ tư cách thi tốt nghiệp
hoặc ngay sau ngày HS chuyển trường, bỏ học, bị xóa tên khỏi danh sách cho đến khi trả
hết nợ gốc.
Mức cho vay tối đa mỗi HS là 300.000 đồng/tháng, và tổng mức tiền cho vay tối đa
được xác định trên cơ sở nhu cầu vay, khoảng thời gian kể từ khi được vay đến khi kết
thúc khóa học.
Người đi xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngoài
NHCSXH cho vay thông qua hộ gia đình có người là đối tượng chính sách đi lao
động hoặc trực tiếp cho vay đối với người lao động là độc thân.
Diện chính sách gồm: vợ hoặc chồng, con của liệt sĩ; thương binh, vợ hoặc chồng,
con của thương binh; con của anh hùng, con của người tham gia kháng chiến, người có
công được thưởng huân huy chương ; người lao động thuộc hộ nghèo theo tiêu chuẩn
của Bộ LĐ-TB&XH.
Mức cho vay tối đa bằng 80% tổng chi phí cần thiết ghi trong hợp đồng lao động.
Riêng đối với người đi lao động tại Malaysia được vay tối đa 100% chi phí cần thiết.
Hiện mức cho vay chung tối đa của NHCSXH là 10 triệu đồng và thời hạn vay được
căn cứ vào thời hạn lao động, khả năng trả nợ của người vay Vì đây là tín dụng ưu đãi
nên không yêu cầu thế chấp, do vậy thủ tục vay chủ yếu là các giấy tờ để xác nhận người
vay thuộc diện chính sách và đúng là người đi xuất khẩu lao động.
2.5.2.3. Hộ nghèo
Hộ nghèo được vay vốn phải có hộ khẩu thường trú hoặc có tạm trú dài hạn tại địa
phương nơi cho vay, có tên trong danh sách hộ nghèo ở địa phương được xác định theo
tiêu chuẩn hộ nghèo của Bộ LĐ-TB&XH.
Hộ nghèo vay cũng không cần thế chấp, được miễn lệ phí làm thủ tục vay vốn, mức
vay tối đa là 7 triệu đồng. Hộ nghèo vay vốn để dùng vào các mục đích sản xuất - kinh
doanh - dịch vụ; làm mới, sửa chữa nhà ở; gắn điện sinh hoạt; nước sạch; giải quyết một
phần nhu cầu thiết yếu về học tập của con em hộ nghèo
Hộ nghèo tự nguyện tham gia tổ tiết kiệm và vay vốn và được vay khi tổ bình bầu và
lập danh sách đề xuất được vay vốn. Hộ nghèo được vay ngắn hạn, trung hạn, với hộ có
nhu cầu vay vốn cho chu kỳ sản xuất kinh doanh liền kề thì được vay lưu vụ
Chương III: Tình hình vay và sử dụng vốn
3.1. Đặc điểm của hộ điều tra.
3.1.1.Tình hình nhân khẩu và lao động.
Lao động là hoạt động có mục đích nhằm biến đổi các vật chất tự nhiên thành của cải
vật chất cần thiết cho đời sống của cá nhân và xã hội.Đây cũng là yếu tố cơ bản nhất
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.Không một quá trình sản xuất nào diễn ra ma
không có sự tham gia của lao động. Nó là yếu tố kết hợp các yếu tố như: Đất đai, tư liệu
sản xuất, vốn sản xuất để tạo nên sản phẩm, của cải vật chất phục vụ cho toàn xã hội. Giả
định rằng, nếu không có lao động thì dù vốn có lớn bao nhiêu, đất đai có rộng đến đâu, tư
liệu sản xuất đắt tiền như thế nào đi nữa thì tự bản thân chúng không thể tạo ra sản phẩm
được, chỉ khi có lao động kết hợp các yếu tố đó thì mới đem lại kết quả thực sự như mong
muốn của con người. Do đó, lao động là yếu tố đầu vào quan trọng cho quá trình sản xuất.
Bảng 1:Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra.
( Nguồn số liệu điều tra 2010)
((
Chỉ tiêu ĐVT
Nhóm hộ
BQC
Hộ
nghèo
Hộ trung
bình
1. BQ nhân khẩu / hộ Khẩu/hộ 5.00 5.18 5.17
2. BQ LĐ / hộ LĐ/hộ 2.00 2.50 2.48
3. BQ nhân khẩu / LĐ Khẩu/LĐ 2.50 2.07 2.09
4. Trình hộ văn hóa chủ hộ Lớp 5 6.5 6.76
Qua số liệu điều tra 46 hộ sản xuất ở xã Quảng Phước được tổng hợp ở bảng trên cho
thấy, số nhân khẩu bình quân mỗi hộ là 5.17 nhân khẩu, con số này khẳng định qui mô
gia đình ở đây không lớn lắm. Trong đó, nhóm hộ nghèo số khẩu bình quân trên hộ là
5.00. và nhóm hộ trung bình là 5.18 khẩu/hộ. Và lao động bình quân trên hộ là 2.48. Đây
là số lao động tương đối nhiều so với mỗi hộ, tạo điều kiện cho việc khai thác thế mạnh
của địa phương để phát triển kinh tế.
Nhóm hộ trung bình có quy mô lớn hơn 5.18 khẩu/hộ và 2.5 lao động. Điều này
chứng tỏ số người lao động ít hơn số người ăn theo tron gia đình gây khó khăn trong việc
phát triển kinh tế gia đình và sẽ có nhiều khoản phát sinh mới. Còn đối với hộ nghèo bình
quân nhân khẩu 5.00 số lao động 2.00, cuộc sống đã khó khăn lại khó khăn hơn nữa. Có
thể nói, tình hình dân số và lao động ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập cũng như đời sống
của người dân
Chỉ tiên bình quân khẩu/LĐ có nghĩa là cứ 1 người lao động sẽ nuôi được bao nhiêu
người ăn theo. Nhìn vào bảng trên ta thấy, bình quân chung nhân khẩu trên lao động của
các hộ điều tra là 2.09. Số người ăn theo cao trong khi thu nhập chính của các hộ từ hoạt
động sản xuất nông nghiệp, vì vậy nghèo đói không thể tránh khỏi đối với các hộ khi mùa
màng thất bát. Với chỉ tiêu này thì binh quân khẩu/LĐ của hộ trung bình 2.07 thấp hơn hộ
nghèo là 2.5. Bình quân khẩu/LĐ cao cũng chính là nguyên nhân gây ra đói nghèo. Vì thế
đòi hỏi các cấp chính quyền xã Quảng Phước cần có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
thôn trên cơ sổ khuyên khích sản xuất, đồng thời cần bố trí sắp xếp lao động trong nông
nghiệp hợp lý hơn để sử dụng lao động có hiệu quả hơn góp phần cải thiên cuộc sống gia
đình.
Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta có thể khẳng định rằng: quy mô nhân khẩu
cũng như số lượng lao động có ảnh hưởng lớn đến thu nhập của hộ. Vì thế, cần có các
chính sách nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ nhằm giúp các hộ sản xuất nắm bắt kịp thời
thông tin về tiến bộ kỹ thuật. Trên cơ sở đó để xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù
hợp, từng bước thay đổi phương thức từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hang hóa
nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện bộ mặt kinh tế nông thôn.
3.1.2.Tình hình đất đai
Trong tất cả các ngành sản xuất, đất đai là yếu tố không thể thiếu được.Nó là tiền đề đầu
tiên của các quá trình sản xuất.Nếu trong công nghiệp, thương mại, giao thong đất đai là
cơ sở, là nền móng để trên đó xây dựng nhà xưởng, cửa hang, mạng lưới giao thong thì
ngược lại trong nông nghiệp đất đai vừa là tư liệu sản xuất vừa là đối tượng sản xuất chủ
yếu.Vì vậy trong quá trình sản xuất nông nghiệp, khai thác và sử dụng đất sao cho đất
không những tạo ra dược của cải vật chất mà còn có khả năng sinh lời cao.Để làm dược
điều đó, đòi hỏi người nông dân bên cạnh việc khai thác còn phải đầu tư thâm canh để
tăng độ phì nhiêu cho đất.Để tìm hiểu tình hình đất đai của các hộ vay vốn ở xã Quảng
Phước, huyện Quảng Điền ta tiến hành đi vào xem xét số liệu điều tra ở bảng 2
Bảng 2.Tình hình đất đai của các hộ điều tra
(tính bình quân trên hộ)
Chỉ tiêu ĐVT
Nhóm hộ
BQC
Hộ trung
bình Hộ nghèo
1. Đất trồng lúa sào 4.85 4.25 4.82
2. Đất vườn và nhà ở sào 0.63 0.9 0.64
3. Đất mặt nước NTTS sào 0.68 - 0.65
4. Đất trồng lúa/khẩu sào/khẩu 0.02 0.39 0.02
5. Đất trồng lúa/LĐ sào/LĐ 0.04 1.06 0.04
( Nguồn số liệu điều tra2010)
Từ bản số liệu ta thấy, diên tích đất nông nghiệp của các hộ khá lớn. Là một xã nắm ở
vùng trũng nên Quảng Phước không có diện tích đất lâm nghiệp mà chỉ thích hợp cho
chuyên canh sản xuất lúa, còn các cây ngắn ngày khác có diện tích nhỏ được các hộ trồng
trong đất vườn. Diện tích đất trồng lúa bình quân/hộ là 4.82 sào.Diện tích đất ở và đất
vườn tương đối thấp,bình quân/hộ là 0.64 sào,đất vườn nhà chủ yếu là đất vườn tạp,chưa
được khai thác và sử dụng hợp lý.Diện tích đất nuôi trông thủy sản thấp,phần lớn các hộ
điều tra đều không tham gia nuôi trồng thủy sản.Nhân khẩu lao động cao nhưng diện tích
đất trông lúa thấp nên diện tích đất trồng lúa/khẩu là rất thấp,đây là một vấn đề khó khăn
đối với người dân khi mà thu nhập chính của họ chủ yếu là từ hoạt động sản xuất nông
nghiệp.
3.1.3.Tình hình tư liệu sản xuất
TLSX là điều kiện vất chất cần thiết để tổ chức sản xuất,là nhân tố cơ bản để nâng
cao năng suất cây trồng,vật nuôi năng suất ruộng đất và năng suất lao dộng.Có thể nói
rằng TLSX là tiền đề quan trọng cho tiến trình CNH_HĐH nông nghiệp nông thôn.Tuy
nhiên thực tế vốn đầu tư cho tư liệu sản xuất chưa được các hộ quan tâm do hầu hết các
hộ nông dân xã quảng Phước vẫn còn thiếu vốn sản xuất,mọi hoạt động sản xuất nông
nghiệp đều được tiến hành dựa vào sức người là chủ yếu.
Qua điều tra cho thấy tình hình trang bị TLSX của các nông hộ vẫn còn ở mức
thấp.TLSX chính của các hộ được điều tra chủ yếu là lợn nái sinh sản, bình bơm thuốc trừ
sâu với bình quân 1 con (cái ) mỗi hộ.Các hộ chưa có hoặc rất ít có sự đầu tư vào các tư
liệu sản xuất như máy cày , máy xay xát máy tuốt lúa, máy bơm nước.Bởi vì những tư
liệu sản xuất này khá đắt tiền.
Có một số hộ đầu tư vào các tang thiết bị này là các hộ có quy mô sản xuất lớn ,hoặc
họ mua về để một mặt phục vụ mình ngoài ra còn nhằm tìm thêm việc làm tăng thu nhập
cho gia đình.
Phần lớn các nông hộ nơi đây chủ yếu là chăn nuôi lợn nái sinh sản,trung bình mỗi hộ
có từ 1 con trở lên.Nhưng nhìn chung thì đầu tư vào chăn nuôi lợn không được đầu tư
lớn,chủ yếu là sử dụng những điều kiện tự có của mình nên hiệu quả mang lại thấp.
3.2. Tình hình vay vốn của các hộ nông dân xã Quảng Phước.