Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Báo cáo "Bàn tay hữu hình” ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.55 KB, 26 trang )


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ - PHÁT TRIỂN
oo0oo
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài:
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM CÓ CẦN “BÀN TAY HỮU HÌNH”
HAY KHÔNG? TẠI SAO?
Giáo viên hướng dẫn: Nhóm sinh viên thực hiện:
NGUYỄN HỮU XUÂN NHÓM 5
Lớp: K41A KTNN
Huế, 03/2010
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
2
Mục lục
Mục lục 3
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 4
B. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN 5
I. Kinh tế thị trường: 5
1. Khái niệm kinh tế thị trường: 5
2.Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 6
II. Một số nhận định về thuyết “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình”: 8
1. Bàn tay hữu hình là gì? 8
2. Nghĩ về “bàn tay vô hình”: 10
C. KINH TẾ VIỆT NAM VÀ “BÀN TAY HỮU HÌNH” 14
1.Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam hiện nay: 14
2. Những thách thức mà nền kinh tế việt Nam phải đối mặt hiện nay: 16
3. Sự can thiệp cần thiết của chính phủ(“bàn tay hữu hình”) vào nền kinh tế: 19
4.Kết quả đạt được của nền kinh tế Việt Nam. 24


Kinh tế công cộng - Nhóm 5
3
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh
trình độ phát triển cao của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát
triển chủ yếu ở các nước chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh
tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi
nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển
mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát
triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.Từ đại hội IV của Đảng
( năm 1986 ) đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới ,chuyển từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện kinh tế thị
trường hơn 10 năm qua, đất nước đã vượt qua bao khó khăn, thử thách giành được
nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế.
Tuy nhiên trong các văn kiện của Đảng tại đại hội lần thứ VII,VIII đã đề cập đến 4
nguy cơ thách thức đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong
đó “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” có thể coi là nguy cơ lớn nhất. Vì vậy khả năng
định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta có trở thành hiện thực
hay không trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo kinh tế của Đảng và nhà nước là
nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Ngày nay trong nền kinh
tế thị trường hiện đại, với sư phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, nếu
không có sự can thiệp của nhà nước thì không thể giải quyết được nhiều vấn đề kinh
tế lớn có tầm cỡ quốc gia, quốc tế . Vì thế kết hợp hài hoà giữa sự vận hành của cơ
chế thị trường với sự điều tiết của nhà nước là cần thiết và là giải pháp mang lại
thành công trên con đường phát triển. Trong mối quan hệ đó, nhà nước giữ vai trò
định hướng tạo “hành lang” pháp lý và môi trường đầu tư để các chủ thể có thể có
thể phát huy tính năng động, sáng tạo của mình. Để thấy được sự cần thiết của “

bàn tay hữu hình”,nhóm chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu vấn đề đó trong nền
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
4
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
B. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN
I. Kinh tế thị trường:
1. Khái niệm kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
 Ưu điểm: Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn
lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích
người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả
hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do
đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những
người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả
năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
 Nhược điểm: Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có
thể dẫn tới bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể
dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả
có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều
chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu.
Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng
như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc
Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố
thị trường nhiều hay ít.
Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được
sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai nước.
 Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần

theo cơ chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước .
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
5
2.Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
a. Khái niệm:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức
nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi
vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản
tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố
của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai
trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai
đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những
mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực
của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cung với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật, và băng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích
thích sản suất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động,
của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối theo
kết quả lao đông và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã

hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển. Tăng trương kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và
giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bả sắc dân tộc, nâng
cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
6
lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu
tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
còn ở trình độ thấp sang nề kinh tế ở trình độ cao hơn hương tới chế độ xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, được
định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuết tật của tính tự phát thị
trường, nhăm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền
vững của đất nước.
b. Đặc trưng:
Nền kinh tế được xây dựng ở nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.Một mặt, nó vừa có tính chung của kinh tế thị trường: 1)
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh; 2)
Giá cả do thị trương quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có
tác dụng làm cơ sở cho việc phân bổ các nguồn lực cho các ngành kinh tế: 3) Nền
kinh tế tự vận động theo các quy luật vốn có của kinh tế thị trường như:quy luật
giá trị, quy luật cung-cầu, cạnh tranh 4) Có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, mặt
khác nó được phát triển trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc của
chủ nghĩa xã hội. Đó là sự kết hợp giữa cái chung là kinh tế thị trường với cái
riêng là chủ nhĩa xã hội, có các đặc trưng bản chất như sau:
Về mục tiêu phát triển: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh. Phương tiện để đạt mục tiêu là giải phóng sức sản xuất, động viên tối
đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nâng cao hiệu quả

kinh tế xã hội.
Về quan hệ kinh tế: Nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều thành phần, với
nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế tồn
tại khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chúng hoạt động trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất. Phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là tất yếu đối với nước ta
nhằm phát huy mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy tăng
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
7
trưởng và phát triển kinh tế.
Về phân phối thu nhập: Nền kinh tế kết hợp nhiều hình thức phân phối thu
nhập:Phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, tài sản và các đóng góp, phân
phối theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quỷ phúc lợi tập thể và xã
hội. Trong các hình thức phân phối đó, phân phối theo lao động là đặc trưng bản
chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực
hiện vè mặt kinh tế của chế độ công hữu. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Về cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, đây là cơ chế kinh tế chung ở nhiều nước. Cơ chế đó ở
nước ta có sự khác biệt vè bản chất so với ở các nước tư bản chủ nghĩa: Nhà
nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản mà là nhà nước xã hội
chủ nghĩa của dân do dân và vì dân. Đây là nhân tố đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường.
Về chiến lược phát triển: Nền kinh tế thị trường lấy cơ cấu kinh tế mở, hội
nhập để tồn tại và phát triển. Thích ứng với cơ cấu kinh tế này là chiến lược thị
trường hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt
hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
II. Một số nhận định về thuyết “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô
hình”:
1. Bàn tay hữu hình là gì?

Bàn tay hữu hình” là sự can thiệp và điều tiết thị trường của nhà nước thông
qua các cơ chế, chính sách và công cụ điều hành kinh tế vĩ mô. “Bàn tay vô hình”
là các quy luật vận động tự nhiên của kinh tế thị trường.
Các chịnh trị gia và các chuyên gia bình luận truyền hình thường xuyên
cảnh báo xã hội rằng cơn khủng hoảng hiện nay-khởi đầu chỉ là vụ vỡ nợ nhỏ các
khoản vay dưới chuẩn ở Mỹ vào năm 2007 đang gây ra một thảm họa kinh tế
nghiêm trọng nhất kể từ khi cuộc đại khủng hoảng hồi thập niên 1930.Tuy
nhiên ,mọi người gần như không nhận thấy một điểm đáng quan trọng trong cuộc
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
8
khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện tại -đó là nguyên nhân của nó nằm trong
hoạt động của thị trường tài chính tự do(không có sự can thiệp của nhà
nước ).vậy mà hơn ba mươi năm nay , các nhà kinh tế học chính thống , các nhà
hoạch định chính sách thuộc chính phủ , các vị thống đốc ngân hàng trung ương
cũng như các cố vấn kinh tế của họ đều khẳng định :
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
9
1) Can thiệp của chính phủ vào thị trường bằng quy định và chính sách chi
tiêu của chính phủ quy mô lớn là nguyên nhân gây ra mọi vấn đề kinh tế,
2) Sự chấm dứt tồn tại của chính phủ quy mô lớn, giải phóng thị trương
khỏi các quy định của chính phủ chính là giải pháp đối với các vấn đè đó.
Đén mùa thu năm 2008 thì có thể rthấy rõ thị trường tài chính tự do của thế
kỷ 21 không thể tự cầm máu được vết thương mà nó đã gây ra.Tháng 10 năm
2008,Henry Paulson_bộ trưởng tài chính mỹ cự giám đóc một ngân hàng đầu tư
lớn -đã phải đứng trước quốc hội đẻ xin một số tiền viện trợ lớn chưa từng có la
700 tỷ dollar để cứu trợ cho các tổ chức tài chính tư nhân . các tổ chức tài chính tư
nhân này trước đó đã kiếm được lợi nhuận khổng lồ nhờ thị trường tài chính tự do.
Suốt mùa thu năm 2008 , khi tình thế mỗi ngày một tồi tệ hơn , người ta
sớm thấy rằng gói cứu trợ tài chính này không đủ để phục hồi sự thịnh vượng cho
nền kinh tế. Chính phủ các nước trên thế giới bắt đầu nhận thấy cần có chính

sách chi tiêu công lớn, vì đây là hy vọng để giúp nề kinh tế phục hồi , hoặc ít
nhất cũng để ngăn chặn tình trạng thất nghiệp gia tăng và hoạt động kinh doanh
ngày càng tồi tệ.
Chính vì vậy,trong nền kinh tế thì vai trò của chính phủ hay “bàn tay hữu
hình”là cần thiết.“Quá trình điều tiết nền kinh tế của mọi quốc gia đều được vận
hành bằng cả hai bàn tay “hữu hình” và “vô hình”.
2. Nghĩ về “bàn tay vô hình”:
Theo Adam Smith, nhà kinh tế học thế kỷ XVIII thì có một "bàn tay vô
hình" thúc đẩy sự vận hành của nền kinh tế thị trường theo quy luật cung cầu và
quy luật giá trị, biến những tính toán riêng về lợi ích của từng người thành những
lợi ích chung cho xã hội.
Cuộc sống con người tùy mức sống văn minh sẽ có nhưng nhu cầu vật chất
khác nhau. Mức sống càng cao, yêu cầu vật chất từ ăn no mặc ấm đã nâng lên ăn
ngon mặc đẹp. Nhu cầu về cuộc sống tinh thần, tâm lý, được tôn trọng, được
phục vụ cũng đòi hỏi những sản phẩm tinh thần mới, do đó mà sản phẩm hàng
hỏa và dịch vụ phát triển không ngừng. Khi số lượng yêu cầu của một loại sản
phẩm (vật chất hay tinh thần) lớn đến một mức độ nào đó thì sẽ tạo ra thị trường
của sản phẩm ấy, nghĩa là có người mua, người bán, và bàn tay vô hình của nền
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
10
kinh tế thị trường sẽ làm nhiệm vụ điều hòa. Số lượng, chất lượng, giá cả sản
phẩm sẽ được đưa từ chỗ thừa đến chỗ thiếu, thúc đẩy một sản phẩm mới có ưu
thế, có ích lợi hơn ra đời và loại bỏ sản phẩm lạc hậu, kém giá trị ra khỏi thương
trường. Hoạt động của bàn tay vô hình thật là vô tư.
Tuy nhiên, vì vô tư nên bàn tay vô hình cũng dễ bị lợi dụng. Người ta đã
tạo ra những trạng thái giả tạo, bằng nhưng hiện tượng thiếu hụt hàng hóa tại một
thời điểm, một địa phương nào đó, làm cho giá cả gia tăng đề trục lợi hoặc dùng
những biện pháp hành chính ngăn cản những dòng hàng hóa vận hành theo quy
luật cung cầu, làm cho giá cả biến động, thị trường bị méo dạng, hay đặt ra chính
sách đối xử bất bình đẳng đối với mặt hàng, nguồn gốc xuất xử, đối tượng tham

gia… Như vậy bàn tay vô hình sẽ bị lừa, sẽ vận hành một cách khập khễnh, từ đó
một yêu cầu vô cùng chính đáng đặt ra là Nhà nước phải tham gia vào thị trường
với mục tiêu là: gỡ bỏ rào cản, loại bỏ những yếu tố làm biến dạng thị trường,
hướng dẫn sản xuất.
Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã từng bước phục hồi
nền kinh tề thị trường. Nhà nước đã từ đổi mới về mục đích cơ cấu và phương
pháp vận hành dễ phù hợp với nền kinh tế thị trường ấy. Do đó mà đời sống xã
hội đã có một bước tiến khá dài, đại bộ phận nhân dân từ chỗ thiếu ăn, thiếu mặc
đang bước vào ngưỡng cửa ăn ngon măck đẹp. Tuy nhiên, nếu so sánh với các
nước chung quanh, thì khoảng cách tụt hậu chưa thể rút ngắn, điều này khiến
chúng ta phải có những bước cải cách mới để tạo động lực mới, gia tăng tốc độ
tăng trưởng cho nền kinh tế của chúng ta.
Theo ý kiến một số nhà đầu tư có mặt tại Việt Nam nhiều năm nay, thì tiền
lương lao động thấp không hẳn là một ưu thế của nền kinh tế Việt Nam bởi lương
thấp đi đôi với năng suất lao động thấp, điều ấy không còn ý nghĩa gì nữa về mặt
kinh tế, trong khi có thể còn làm hại về mặt xã hội. Người lao động thu nhập thấp
thì sẽ không đủ sống, như vậy họ sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ được giao theo
pháp luật hay hợp đồng tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của họ.
Điều này xưa nay các nhà đầu tư không dám có ý kiến với Nhà nước chúng
ta nhưng rõ ràng chế độ tiền lương cán bộ nhà nước quá thấp đã ảnh hưởng đến
nhiệm vụ, chức năng, thái độ làm việc của họ, nhất là trong xử lý các hoạt động
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
11
kinh doanh của doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước. Biểu hiện cụ thể của
tình hình này là thủ tục nhiêu khê, rườm rà, một số văn bản pháp lý không rõ
ràng, cách áp dụng và giải thích luật lệ mỗi nơi mỗi khác, làm cho doanh nghiệp
phải đương đầu với các yếu tố:
- Rủi ro cao trong mọi tình huống
- Thời gian quay vòng vốn chậm
- Chi phí vô hình tăng

- Giá thành trên một đơn vị sản phẩm năm sau cao hơn năm trước, đưa đến
tình trạng không thể cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài.
Chế độ tiền lương của cán bộ Nhà nước thấp tưởng chừng như không liên
can gì với giá thành sản phẩm hàng hoá, nhưng suy cho cùng thì sẽ thấy khi “sản
phẩm công” mà Nhà nước cung ứng cho doanh nghiệp có chất lượng kém thì sẽ
tạo ra biết bao gánh nặng như đã nêu trên.
Liệu có ai tin rằng cán bộ chúng ta thật sống với đồng lương “hình thức" đó
không? Rõ ràng là không, vì người ta thừa biết cuộc sống của cán bộ Nhà nước
luôn luôn trên mức trung bình của người dân trong tất cả mã vùng của đất nước.
Như vậy tất nhiên họ phải nhờ vào nguồn thu nhập khác ngoài lương để giữ được
mức sống đang có. Thế thì nguồn thu nhập đó từ đâu đến, trong khi về hình thức
họ không tham gia hoạt động dịch vụ SXKD. Rõ ràng là đã có một "bàn tay vô
hình" làm nhiệm vụ điều phối, cung ứng một nguồn thu nhập khác ngoài lương
của công chức nên họ mới có thể sống được, sống khỏe, sống không phải lo chén
cơm manh áo như đại bộ phận người dân đang phải đối mặt.
Khổ nỗi "bàn tay vô hình" này lại biến cái lợi ích chung thành cái riêng.
Đương nhiên, nguồn thu nhập do "bàn tay vô hình" này đưa đến vô cùng phức
tạp, đa dạng, có chất lượng, số lượng và đạo lý khác nhau. Chỉ riêng xét ớ góc độ
đạo lý thôi thì chúng ta cũng có thấy những mức nhận thức khác nhau:
- Bị xúc phạm, nhưng bất khả kháng.
- Quyền biến nhất thời để sống và làm việc.
- Xem như một sự cân đối bù trừ với những điều mà đáng lý ra một chế độ
tiền lương phải thực hiện đầy đủ, nhưng Nhà nước chưa làm được.
- Cũng là một sự trả công của xã hội cho công sức của mình đã bỏ ra.
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
12
- Cũng là một thu nhập do công sức của mình tạo ra.
- Là một cơ hội làm ăn mà nếu mình không làm thì người khác cũng làm.
- Xem đây là con đường ngắn nhất để đầu tư cho cuộc đời nên phải nắm
thời cơ khai thác triệt để.

- Phải nhanh tay lẹ chân, đánh nhanh đánh bạo kẻo trễ.
Sự xuất hiện của "bàn tay vô hình" thứ hai bên cạnh bàn tay vô hình của
nền kinh tế thị trường dễ làm cho sự vận hành của nền kinh tế, cũng như việc
điều hành bộ máy Nhà nước của chúng ta không còn khách quan, thậm chí trong
nhiều trường hợp thiếu trong sáng. Khi ấy bàn tay vô hình trở thành bàn tay "ma
quái" gây tai họa cho đất nước qua các hành vi tham ô, lãng phí.
Tuy nhiên, cũng có người cho rằng, nền kinh tề chúng ta không có khả năng
cung cấp một mức lương đủ sống cho công chức Nhà nước. Điều này không
đúng, vì nguồn tiền mà bàn tay "ma quái" đó sử dụng thật sự là nằm trong nền
kinh tế của chúng ta đó thôi. Chỉ có điều là ta chưa thật sự quyết tâm thực hiện
cải cách thế chế quản lý Nhà nước, tinh giản bộ máy hành chính và loại bớt
những người ăn lương vô công rồi nghề, để vừa đỡ nhiễu nhương cho dân, đồng
thời tiết kiệm được nguồn tài chính Nhà nước. Có như vậy sẽ thừa khả năng tăng
lương cho những cán bộ có năng lực, cần mẫn, làm như vậy sẽ vô hiệu hóa bàn
tay vô hình thứ hai. Còn nếu ta vấn tiếp tục duy trì tình trạng dửng dưng với
lương "hình thức" như lâu nay thì đó là cơ hội cho bàn tay ma quái vùng vẫy vô
tư giữa bao nhiêu cái khó khăn của đời sống kinh tế xã hội đất nước.
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
13
C. KINH TẾ VIỆT NAM VÀ “BÀN TAY HỮU HÌNH”
1.Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam hiện nay:
 Xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta gắn liền với
các đặc điểm sau - Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền
kinh tế hàng hoá kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc sang thành nền
kinh tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao.
- Do nền kinh tế nước ta có cơ cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội thấp kém.
- Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu,
không có khả năng cạnh tranh.
- Hầu như không có đội ngũ nhà doanh nghiệp có tầm cỡ.
- Thu nhập của người làm công ăn lương và nông dân thấp kém, sức mua

hàng hoá của xã hội và dân cư thấp nên nhu cầu tăng chậm, dung lượng thị
trường trong nước còn hạn chế.
- Các biểu hiện trên một mặt phản ánh trình độ thấp kém về dung lượng
cung cầu hàng hoá và khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
- Mặt khác nó cũng tạo ra áp lực buộc chúng ta phải vượt qua thực trạng đó
và đưa nền kinh tế phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
- Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần:
Tiếp cận đặc điểm này của kinh tế hàng hoá theo các khía cạnh sau :
+ Nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá.
+ Thực trạng kinh tế hàng hoá ở nước ta kém phát triển là do nhiều nhân tố,
nhưng nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng dẫn đến
nôn nóng xoá bỏ nhanh các thành phần kinh tế.
+ Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt, có khả
năng đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém.
+ Nền kinh tế hàng hoá chịu tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành theo
hướng nền kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng.
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
14
* Đặc điểm này gắn liền với hai khía cạnh sau :
+ Nó đảm bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế
nào cũng đều được tự do kinh doanh theo pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền
sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp.
+ Các chủ thể kinh tế đều được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác, cạnh
tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật.
+ Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với
các nước trên thế giới :
Sự ra đời nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã làm cho thị trường dân
tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế giới.
+ Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu “mở” ra đời bắt nguồn từ quy luật phân

bố và phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh
giữa các nước.
+ Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu “mở”, thích ứng với chiến lược thị
trường “hướng ngoại”.
Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước :
Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước :
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước với bản chất vốn
có của nó, lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu nên trở thành
nhân tố kinh tế bảo đảm cho kinh tế hàng hoá của các thành phần kinh tế khác
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tính hiện thực của vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà
nước chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế khác.
Vai trò quản lý của nhà nước, nhân tố đảm bảo cho định hướng xã hội chủ
nghĩa của kinh tế hàng hoá :
Sự phát triển kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực, đem lại sự phát triển lực
lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao của nó, mặt khác nó không tránh khỏi những
khuyết tật nhất định về mặt xã hội như : phá sản, khủng hoảng, tàn phá môi trường
Những khuyết tật này cần phải có sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
15
Nền kinh tế hàng hoá giữa các nước , ngoài sự khác nhau về trình độ phát
triển và sự phân phối lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp dân cư do kinh tế đem lại
nhằm mục đích gì? có lợi cho ai? Còn có sự khác nhau không kém phần quan
trọng là ở trình độ quản lý theo cơ chế thị trường của nhà nước.
Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu ngày cuả cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu , bao cấp Nên vai trò quản lý của nhà nước ta là nhân tố đảm\ bảo cho
định hướng XHCN của kinh tế hàng hoá.Một nền kinh tế hàng hoá kém phát
triển, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, chuyển sang một nền kinh tế hàng hoá

phát triển từ thấp đến cao đòi hỏi nhà nước phải sử dụng có hiệu quả các công cụ
pháp luật, tài chính, tiền tệ, tín dụng Mặt khác phải tạo ra môi trường và điều
kiện cho sản xuất kinh doanh trên cơ sở khai thác tiềm năng của các thành phần
kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội đảm bảo cho sự thống nhất giữa kinh tế
và xã hội.
Trong nền kinh tế của một quốc gia , thì sự can thiệp của bàn tay hữu hình
và bàn tay vô hình cùng tồn tại song song đồng hành với nhau.tuy nhiên tùy vào
từng điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà sử dụng bàn tay vô hình hay
hữu hình cho phù hợp với tình hình thực tiễn kinh tế của quốc gia đó.Thực tiễn
cho thấy hầu hết ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì sự can thiệp của
nhà nước chiếm một phần rất nhỏ,ở đó thị trường tự do cạnh tranh diễn ra mạnh
mẽ,kết quả đem lại rất hiệu quả.Vai trò của chính phủ chỉ là tham giavào cùng
với thị trường thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Còn ở hầu hết những nước có nên
kinh tế đang phát triển hoặc chính phủ nắm vai trò điều hành mọi hoạt động của
quốc gia đó thì vai trò của chính phủ cái mà người ta gọi là bàn tay “hữu hình”
thì lại chiếm ưu thế hơn hẳn.Cụ thể , Việt Nam là một quốc gia mà vai trò cua
chính phủ can thiệp vào nền kinh tế thể hiện rất rõ nét và đem lại hiệu quả cao.
2. Những thách thức mà nền kinh tế việt Nam phải đối mặt hiện nay:
Thách thức lớn nhất với kinh tế Việt Nam là đối mặt với những tình huống
tiềm ẩn khó lường của cơn bão khủng khoảng tài chính thế giới, các dư chấn của
nó tiếp tục gây ra các tác động xấu đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế Việt
Nam : Thương mại, tài chính ngân hàng, đầu tư nước ngoài
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
16
Về thương mại, thị trường xuất khẩu sẽ bị thu hẹp, các thị trường quan
trọng như Mỹ, Nhật bản, Châu Âu sức mua không còn như những năm trước.
Hàng hoá Việt Nam phải cạnh tranh khốc liệt hơn với hàng hoá cùng loại của các
nước châu á. Thuận lợi về giá sẽ không còn, khả năng thanh toán của các đối tác
cũng không thuận lợi như những năm trước Nhiều mặt hàng xuất khẩu truyền
thống, có thế mạnh của ta như: may mặc, giày da, cao su, gạo, cà phê, cá, tôm,

hàng thủ công mỹ nghệ chắc chắn sẽ giảm lượng xuất khẩu.
Thị trường tài chính, ngân hàng sẽ có nhiều biến động khó lường về tỷ giá
và lãi suất ngoại tệ trong đó đáng lưu ý là tỷ giá và lãi suất USD. Thị trường
chứng khoán sẽ còn gặp khó khăn, luồng tiền đầu tư gián tiếp qua thị trường
chứng khoán có khả năng suy giảm
Việc huy động các nguồn vốn cho nền kinh tế không còn thuận lợi như
trước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) và viện trợ phát triển chính thức(ODA)
sẽ chững lại, dòng kiều hối sẽ không dồi dào như những năm trước
- Sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế còn nhiều bất trắc.
Do những tác động trực tiếp và gián tiếp nêu trên, khủng khoảng kinh tế thế
giới đã, đang và sẽ ảnh hưởng tới mục tiêu phát triển bền vững của nền kinh tế
nước ta, trừ ngành thông tin liên lạc có thể trụ vững còn hầu hết các ngành kinh
tế khác ít có khả năng phát triển, tăng trưởng cao hơn các năm trước. Nhiều
doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp, dịch vụ, thương mại và cả khu vực
nông thôn sẽ thu hẹp sản xuất và kinh doanh, thậm chí phá sản, khiến cho người
lao động mất việc làm, đời sống khó khăn. Do các nước gặp khó khăn về kinh tế
nên khả năng tiếp thu lao động xuất khẩu của ta cũng sẽ giảm Do thiếu vốn các
công trình trọng điểm, đặc biệt là các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ các nhu
cầu phát triển trước mắt và lâu dài rất dễ lâm vào tình trạng thi công dang dở,
chậm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Mới bước vào năm 2009 có một
tuần mà thiên tai đã khó lường, mưa lớn ở miền Trung và rét đậm rét hại ở miền
Bắc đã gây tổn thất lớn cho nông nghiệp. Điều này cho thấy nông nghiệp năm
nay sẽ còn điêu đứng. Thị trường hàng hoá nội địa sẽ xuất hiện nhiều yếu tố bất
lợi khi hàng hoá nước ngoài tiếp tục tràn vào nước ta
- Việc huy động các tiềm năng vào phát triển kinh tế những năm qua, không
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
17
có một chiến lược ổn định và thống nhất, mặt khác lại thiếu sự lựa chọn sáng
suốt trong khai thác và quản lý, đến nay khi nền kinh tế gặp khó khăn, nó đã bộc
lộ những khiếm khuyết, bất lợi cho nền kinh tế. Đó là việc thu hồi đất nông

nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, xây sân gôn, làm
đường sá khiến diện tích đất nông nghiệp, trong đó đáng chú ý là diện tích đất
trồng lúa màu mỡ ngày càng bị thu hẹp. Đến tháng 4-2008, theo quyết định rà
soát và kiểm tra của Thủ tướng Chính phủ thì diện tích trồng lúa đã giảm 34.330
ha, trong đó tập trung ở ĐBSCL là 15.00 ha, đồng bằng sông Hồng là 8.000 ha,
Đông Nam Bộ 6.600ha, Bắc Trung Bộ 2.340ha Việc khai thác nước ngầm và
nước bề mặt phục vụ cho sản xuất và đời sống không chặt chẽ, không kết hợp với
nhiệm vụ bảo vệ môi trường khiến cho nhiều dòng sông, nhiều khu vực dân cư bị
ô nhiễm dẫn đến khả năng chúng ta không còn là nơi có nguồn nước sạch phong
phú, vô tận. Rừng nguyên sinh, rừng đặc dụng và nhiều loại gỗ quý hiếm chưa
được bảo vệ tốt, trái lại còn bị khai thác không thương tiếc. Trong khi đó việc
trồng rừng mới lại triển khai chậm chạp. Các nguồn lợi khoáng sản khai thác
không theo một chiến lược dài hạn, nhiều khoáng sản ở nhiều địa phương như
sắt, thiếc, vàng, ti tan, than đá, đá trắng, cát đã bị khai thác không hiệu quả,
thậm chí còn bị khai thác trộm, gây thất thoát lớn cho ngân sách quốc gia .
Nguồn lợi hải sản trên biển cũng đang có nguy cơ cạn kiệt Đặc biệt việc khai
thác tiềm năng con người, tiềm năng lao động nhìn chung vẫn chưa hiệu quả.
Việc sử dụng lao động vẫn còn nhiều bất cập. Lao động trẻ là thế mạnh của nước
ta, nhưng rất tiếc phần đông trong số đó lại không được đào tạo, không có trình
độ tay nghề khiến cho họ không tìm được việc làm, tình trạng này càng nặng nề
thêm khi nền kinh tế suy giảm việc làm trong xã hội đang ít đi. Thách thức này
không chỉ là thách thức của nền kinh tế nói riêng mà còn là thách thức chung của
toàn xã hội, không chỉ là thách thức của năm 2009 mà còn là thách thức lâu dài.
Bài học rút ra ở đây là, Chúng ta có nhiều tiềm năng phục vụ cho phát triển,
nhưng nếu chúng ta không biết giữ gìn, bảo vệ , bồi dưỡng, để giành, sử dụng
đúng, sử dụng có hiệu quả tiềm năng thì cho dù có tiềm năng đến bao nhiêu
chăng nữa, trước sau tiềm năng đó sẽ mai một và héo tàn
- Kinh tế phát triển chậm, tăng trưởng thiếu bền vững, các nguồn lực lại
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
18

chưa được chú ý trong sử dụng khai thác, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội càng khó
khăn thêm. Sản xuất đình trệ, người lao động ở các khu vực nông thôn và thành
thị, công nghiệp, dịch vụ thương maị, du lịch và nông nghiệp đều không đủ việc
làm khiến cho họ không có thu nhập, đời sống hàng ngày đã khó khăn càng khó
khăn thêm. Công cuộc xoá đói giảm nghèo càng trở nên cấp bách. Khả năng ứng
phó với các tình huống do thiên tai của người dân càng khó khăn hơn Tất cả
những khó khăn trong đời sống xã hội đó sẽ gây sức ép với nền kinh tế, đổ dồn
gánh nặng lên ngân sách quốc gia
3. Sự can thiệp cần thiết của chính phủ(“bàn tay hữu hình”) vào nền
kinh tế:
Vấn đề đặt ra là, nếu thị trường và hệ thống thị trường là hiệu quả thì sao
Nhà nước vẫn phải can thiệp vào các hoạt động của nó? Tại sao không thực hiện
một chính sách để tư nhân được hoàn toàn tự do kinh doanh? Trả lời vấn đề này,
có thể khẳng định rằng, Nhà nước không thể thay thế cho thị trường nhưng nó có
thể tác động một cách có hiệu quả đến mọi hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều
không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà
nước. Các nền kinh tế thị trường nguyên thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi
giản đờn có thể hoạt động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của
Nhà nước. Tuy nhiên, vì nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày
một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự
hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Trong các nền kinh tế thị
trường đã Phát triển, Nhà nước có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp, quản
lý và điều hoà phúc lợi. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song sự điều
tiết của Nhà nước vẫn là một trong các hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Theo đó, thị trường tự do với đúng nghĩa của nó không thể tồn tại, ngoại trừ
trong các lý thuyết kinh tế.
Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước
thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng tời cái được - cái mất của sự can thiệp ấy. Cách
giải quyết không phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu quả của sự

can thiệp đó. Nhà nước có một vai .trò chính đáng và thường xuyên trong các nền
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
19
kinh tế hiện đại Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định
"các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể
hiện nhưng khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế
và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi.
Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực như:
ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh
quốc phòng, cung cấp hàng hoá công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển
giáo dục tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội, tạo dựng một bộ khung xã
hội được sự điều hành của luật pháp, định hướng cạnh tranh một cách có hiệu
quả bằng cách giảm độc quyền…
Theo phân tích của nhiều chuyên gia kinh tế trong nước và quốc tế, năm
2009 và những năm tiếp theo, Việt Nam có nhiều cơ hội để nhanh chóng vượt
qua bão tố khủng khoảng kinh tế thế giới. Đó là Việt Nam có môi trường chính
trị và kinh tế khá ổn định, trong khi đó các nhà đầu tư lớn Châu Âu và Nhật
Bản đang chuyển hướng chiến lược đầu tư sang Đông Nam A trong đó rất chú ý
đến Việt Nam. Mặt khác chúng ta đã có ít nhiều kinh nghiệm trong khôi phục
kinh tế trong khủng khoảng những năm 1997,1998,1999. Năm 2008 dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Chính phủ ta đã kịp thời đưa ra 8 giải pháp trọn gói kiềm chế lạm
phát có hiệu quả và bước đầu đã làm chủ được tình hình. Trước diễn biến mới
của nền kinh tế, ngay đàu năm 2009. Chính phủ đã nhanh chóng điều chỉnh
nhiệm vụ với 6 nhóm giải pháp hết sức nhạy bén và linh hoạt Và điều quan
trọng hơn hết là nhân dân ta có truyền thống đoàn kết, tuyệt đối tin tưởng vào sự
lãnh đạo và điều hành của Chính phủ, thống nhất hành động vượt qua khó
khăn Phát huy những lợi thế đó, với niềm tin và quyết tâm hành động, trước
mắt chúng ta cần làm tốt những việc hệ trọng sau đây:
Một là: Các bộ, ngành, các cơ quan, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
từ Trung ương đến địa phương cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả 8 nhóm giải

pháp kiềm chế lạm phát và 6 nhóm chống suy giảm kinh tế, quyết tâm duy trì tốc
độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững. 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát
bao gồm:
Nhóm giải pháp đầu tiên: mang tính mấu chốt mà Chính phủ đưa ra là thực
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
20
hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ. Một trong những mục tiêu của nhóm giải pháp
này, theo Nghị quyết, để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính
sách lãi suất thực dương. Các hoạt động của ngân hàng thương mại về huy động,
cho vay, tín dụng cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định.
- Thứ hai, Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm
soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự
toán, giảm chi phí hành chính.
Các hạng mục đầu tư sẽ được rà soát chặt chẽ. Cắt bỏ công trình đầu tư kém
hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành. Bộ Tài chính sẽ
đảm trách việc rà soát, đề xuất biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế trong quý
IV năm 2008.
- Thứ ba, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa. Muốn vậy, Chính phủ yêu cầu
khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai, dịch bệnh, tập trung phát triển trồng rau
màu, chăn nuôi, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ hè thu, tăng nguồn cung thực
phẩm. Từ đó, giá cả lương thực, thực phẩm sẽ sớm được ổn định. Chính phủ
nhấn mạnh việc khắc phục tình trạng thiếu điện, bảo đảm điện cho sản xuất.
- Thứ tư, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập
khẩu, giảm nhập siêu. Theo đó, Bộ Công Thương được giao phối hợp với Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn điều hành và kiểm soát để xuất khẩu gạo
năm 2008 ở mức 3,5 - 4 triệu tấn. Bộ Tài chính cần điều chỉnh tăng thuế nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt hàng tiêu dùng

không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, rượu, bia nhưng vẫn đảm bảo phù hợp
cam kết hội nhập.
- Thứ năm, Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu
dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng. Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các
khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Từ đó, giải pháp triệt để thực
hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng được triển khai thành công.
- Thứ sáu, tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu
và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Các
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
21
hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước về giá sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Các tổng
công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và
chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ, đại lý bán lẻ
của doanh nghiệp.
- Thứ bảy, tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất
của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Điển hình
là từ nay cho đến hết tháng 6/2008, chưa tăng giá điện, than, xăng, dầu, giữ ổn
định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu hỏa, vé
xe buýt, mức thu học phí, viện phí. Các biện pháp thích hợp tiếp theo trên sẽ
được đề ra tùy thuộc vào diễn biến của lạm phát. Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài
chính kiểm tra việc xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho đồng bào
bị thiên tai, thiếu đói.
- Thứ tám, các phương tiện thông tin đại chúng cần đẩy mạnh thông tin và
tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà
nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông tin sai sự thật có tính kích động,
gây tâm lý bất an trong xã hội.
6 nhiệm vụ chống suy giảm kinh tế:
Thứ nhất, khai thác mọi tiềm năng, nhất là nội lực để đầu tư và phát triển
sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất,
chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm.

Thứ 2, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, phấn đấu giảm nhập siêu;
giảm dần bội chi ngân sách và thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ phù hợp để
ngăn ngừa lạm phát cao, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh.
Thứ 3, tập trung sức phát triển nông nghiệp và nông thôn, triển khai chương
trình xây dựng nông thôn mới. Đây cũng là vấn đề đã được đặt ra trong Nghị
quyết Trung ương Đảng khóa X.
Thứ 4, đẩy nhanh việc thực hiện chương trình giảm nghèo vững chắc; tiếp
tục mở rộng và nâng cao chất lượng phúc lợi xã hội và an sinh xã hội; chủ động
phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ 5, tạo một bước tiến mới trong cải cách hành chính; tiếp tục hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
22
hạ tầng kinh tế - xã hội.
Thứ 6, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội; mở rộng quan hệ quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài và tạo môi
trường thuận lợi cho phát triển đất nước.
Hai là: Tập trung tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở, tạo điều kiện đẩy mạnh
các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Các bộ, ngành, các cơ quan của Chính phủ
khẩn trương tham mưu để Chính phủ kịp thời điều chỉnh ban hành các chính
sách, các hướng dẫn sát hợp với sự biến động của sản xuất và kinh doanh ví dụ
như: các chính sách miễn giảm thuế, các chính sách hướng dẫn tìm thêm thị
trường tiêu thụ sản phẩm, chính sách hỗ trợ người lao động khi mất việc, đặc biệt
là chính sách hỗ trợ vốn, trong đó chú trọng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, hỗ trợ vốn cho các dự án có hiệu quả, tạo ra nhiều việc làm. Các cơ sở
sản xuất kinh doanh, không nên trông chờ, ỷ lại, cần nêu cao tinh thần chủ động
sáng tạo, linh hoạt để duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần tích
cực nhất vào ổn định và phát triển kinh tế. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư,
đẩy mạnh xúc tiến đầu tư để giữ chân và thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài

mới một cách lựa chọn, có hiệu quả.
Ba là: Nhanh chóng điều chỉnh định hướng xuất khẩu theo hướng: đa dạng
hoá hàng hoá xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, mở rộng thêm các thị
trường mới, giảm xuất khẩu vào các thị trường chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc
khủng khoảng, có thêm các chính sách kích thích xuất khẩu, đặc biệt là chính
sách tỷ giá linh hoạt, chính sách ưu đãi tín dụng trong xuất khẩu. Phát triển mạnh
mẽ thị trường nội địa, mở cuộc vận động Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam
Bốn là: Tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt chi tiêu công, đầu tư công.
Khắc phục ngay tình trạng ứ đọng vốn của các dự án công, đẩy mạnh giải ngân
vốn cho đầu tư phát triển Tất cả là nhằm thoát khỏi tình trạng thâm hụt ngân
sách và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của Nhà nước. Quản lý tốt các hoạt động
sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, các công ty có vốn Nhà nước. Tiếp tục
thực hiện tốt việc chống lãng phí, thất thoát, tham nhũng trong các hoạt động
kinh tế và xã hội
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
23
Năm là: Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục
rườm rà, cản trở sản xuất kinh doanh. Công chức từ cơ sở đến trung ương cần
nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ phát triển sản xuất
Sáu là: Tăng cường công tác thông tin, theo sát nhịp thở kinh tế quốc tế và
trong nước, dự báo, đánh giá đúng sự phát triển của tình hình, làm chủ thông tin
kinh tế trong xã hội, phát hiện nhanh các thông tin sai sự thật, trừng trị thích đáng
những người phao tin đồn nhảm gây hoang mang trong xã hội
4.Kết quả đạt được của nền kinh tế Việt Nam.
Số liệu báo cáo tháng 1/2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị giao
ban ngày 26/1 cho thấy: Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010 đã có những kết
quả đáng ghi nhận ngay từ những ngày đầu năm.
Cụ thể, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1/2010 ước đạt 62,8 nghìn tỷ
đồng, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước
tăng 23,1%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 31,1% và khu vực có vốn đầu

tư nước ngoài tăng 29,1%.
Theo đó, tình hình sản xuất công nghiệp trong tháng 1/2010 ở nhiều địa
phương cũng duy trì được mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2009 như:
Vĩnh Phúc tăng 92,7%; Phú Thọ tăng 90,1%; Đà Nẵng tăng 66,1%; Bình Dương
tăng 65,9%; Quảng Ninh tăng 46,6%; TP. Hồ Chí Minh tăng 37,4%.
Như phân tích của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giá trị sản lượng công nghiệp
tháng 1/2010 tăng trưởng ở mức cao so với cùng kỳ, chủ yếu do tháng 1/2009 là
tháng chịu ảnh hưởng lớn bởi khủng hoảng kinh tế thế giới và trùng với dịp Tết
Kỷ Sửu. Trong tháng 1/2010, ngành công nghiệp chủ yếu tập trung cho sản xuất
hàng phục vụ Tết và triển khai các đơn hàng đầu năm.
Về sản xuất nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: Tính đến ngày
15/1/2010, cả nước đã gieo cấy được 1.881 nghìn ha lúa đông xuân, tăng 3,2% so
với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, miền Bắc gieo cấy được 73,9 nghìn ha, bằng
72% so với cùng kỳ và miền Nam gieo cấy được 1.807 nghìn ha, tăng 5,1% so
với cùng kỳ.
Cũng trong tháng 1/2010, sản lượng khai thác thuỷ sản ước đạt 201 nghìn
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
24
tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cá 155 nghìn tấn, tôm đạt 9,5
nghìn tấn. Khai thác biển đang vào vụ cá Bắc, thời tiết khá thuận lợi ở khu vực
biển miền Trung và Bắc bộ; thị trường tiêu thụ nhanh, giá bán cao và ổn định,
hơn nữa là tháng giáp Tết nên ngư dân tranh thủ thời gian đi khai thác. Hiện nay,
các địa phương đang cố gắng hoàn tất thủ tục và tập huấn cho doanh nghiệp và
chủ tàu thực hiện các thủ tục xác định nguồn gốc thuỷ sản khai thác khi xuất
khẩu sang EU.
Riêng về nuôi trồng thuỷ sản, sản lượng nuôi trồng tháng 1 ước đạt 150
nghìn tấn, tăng 4,2%; trong đó sản lượng cá đạt 112 nghìn tấn tăng 3,7%, sản
lượng tôm đạt 20 nghìn tấn tăng 5,3%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng khá
do các địa phương phát triển mạnh mô hình nuôi đa canh, đa con, kết hợp với
làm vườn cho năng suất cao.

Hoạt động du lịch trong tháng 1/2010 cũng nổi bật với nhiều sự kiện văn
hóa lễ hội diễn ra tại nhiều địa phương. Đặc biệt, trong thời gian này, rất nhiều
tàu du lịch nước ngoài cũng chọn Việt Nam là điểm đến như tàu Voyages of
Discovery với 900 du khách, tàu Spirit of Discovery với 800 du khách, tàu biển 5
sao Costa Classica chở 2.000 du khách. Những hoạt động này đã giúp lượng
khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 1/2010 ước đạt hơn 416 nghìn lượt, tăng
10,6% so với tháng 12/2009 và tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước.
Đặc biệt sôi động là hoạt động xuất nhập khẩu. Theo báo cáo của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2010 ước đạt 4,9 tỷ USD, tăng
29,1% so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 2,1 tỷ USD, tăng 35,3%. Sự
tăng lên đáng kể của kim ngạch xuất khẩu trong tháng 1/2010 ngoài yếu tố giá cả
tăng (giá sắn tăng gấp đôi, than đá tăng 32%…) còn do tháng 1/2010 là tháng
giáp Tết âm lịch.
Cùng với xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu tháng 1/2010 ước đạt 6,2 tỷ
USD, tăng 86,6% so cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhập khẩu của các doanh
nghiệp FDI đạt hơn 2,3 tỷ USD, tăng 93,4%.
Về đầu tư phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: Khối lượng đầu tư
xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước thực hiện trong tháng 1/2010 ước đạt
Kinh tế công cộng - Nhóm 5
25

×