Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO (Kỳ 1) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.1 KB, 6 trang )

ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA
TRUNG GIAN TẾ BÀO
(Kỳ 1)
Nói đến đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào là nói đến miễn dịch
thông qua sự chuyển đổi của các tế bào miễn dịch. Mặc dù vậy kháng thể cũng có
liên quan đến đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào và có vai trò thứ yếu.
Cả các tế bào đặc hiệu kháng nguyên và không đặc hiệu kháng nguyên đều
tham gia vào sự phát triển của đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Các tế bào
đặc hiệu gồm có các tế bào Th/TDTH và các tế bào Tc; các tế bào không đặc hiệu
đó là các đại thực bào, bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan và các tế bào NK.
Cả các thành phần đặc hiệu và không đặc hiệu đều cần phải có sự tập trung
tại chỗ của các cytokine được tạo ra bởi các tế bào T đặc hiệu với kháng nguyên
hoặc bởi tính đặc hiệu có được nhờ sự kết hợp của kháng thể vào các thụ thể dành
cho Fc trên các tế bào không đặc hiệu khác.
Khác với đáp ứng miễn dịch thể dịch có vai trò chủ yếu trong việc loại bỏ
các vi khuẩn ký sinh ở ngoại bào và các sản phẩm của vi khuẩn thì đáp ứng miễn
dịch qua trung gian tế bào có tác dụng thanh lọc các tác nhân gây bệnh nội bào,
các tế bào nhiễm virut, các tế bào ung thư và các mảnh ghép lạ.
Hệ thống này đã được chuyển đổi để nhận diện các tế bào của chính bản
thân túc chủ đã bị biến đổi và loại bỏ chúng ra khỏi cơ thể.
Tầm quan trọng của đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào sẽ được nhận
ra ngay khi mà hệ thống này bị khiếm khuyết. Trẻ bị hội chứng DiGeorge khi đẻ
ra không có tuyến ức và do vậy không có các tế bào T của hệ thống đáp ứng miễn
dịch qua trung gian tế bào.
Thường thì các trẻ này vẫn có khả năng chống lại các trường hợp nhiễm
khuẩn ngoại bào nhưng không thể loại bỏ một cách có hiệu quả được các tác nhân
gây bệnh nội bào.
Ðáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào của chúng bị thiếu chức năng và
tự chúng sẽ có các biểu hiện nhiễm trùng lặp đi lặp lại với các virut, các vi khuẩn
ký sinh nội bào và nhiễm nấm.
Mức độ suy giảm đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào ở những đứa trẻ


này nghiêm trọng đến mức mà ngay cả các vacxin giảm độc lực, là các chủng vi
trùng chỉ còn có thể mọc rất hạn chế ở các cơ thể bình thường, cũng gây nên
những nhiễm trùng nặng có thể đe doạ đến tính mạng của chúng.
Có thể chia đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào thành hai loại chính
tuỳ theo các quần thể tế bào thực hiện khác nhau. Một loại có liên quan đến các tế
bào thực hiện có hoạt tính gây độc trực tiếp, loại thứ hai liên quan đến các tiểu
quần thể tế bào Th thực hiện tham gia vào các phản ứng quá mẫn týp muộn.
Trong chương này chúng ta sẽ đề cập đến các tế bào và các cơ chế thực
hiện liên quan đến mỗi loại đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào.

1. Ðáp ứng gây độc tế bào trực tiếp

Có một cách mà hệ thống miễn dịch dùng để loại bỏ các tế bào lạ hoặc các
tế bào của bản thân đã biến đổi đó là tạo ra một phản ứng gây độc tế bào trực tiếp
làm tan các tế bào đích.
Người ta đã xác định được một số điểm khác nhau trong các cơ chế thực
hiện gây độc tế bào bởi tế bào và cũng có thể chia các cơ chế thực hiện này thành
hai loại: loại 1 là gây độc tế bào bởi các lympho T gây độc đặc hiệu với kháng
nguyên; loại 2 là gây độc tế bào bởi các tế bào không đặc hiệu như các tế bào NK
và các đại thực bào.
Các tế bào đích mà các cơ chế thực hiện này nhằm vào đó là các tế bào
khác gien cùng loài, các tế bào nhiễm virut và các tế bào nhiễm hoá chất.

1.1. Gây độc tế bào bởi các lympho T gây độc
Các tế bào T gây độc (Tc) khi được hoạt hoá sẽ tạo ra một quần thể tế bào
thực hiện có khả năng làm tan các tế bào khác được gọi là các tế bào lympho T
gây độc.
Các tế bào thực hiện này có vai trò quan trọng trong việc nhận diện và loại
bỏ các tế bào của bản thân cơ thể đã biến đổi bao gồm các tế bào bị nhiễm virut và
các tế bào ác tính, và trong các phản ứng thải bỏ mảnh ghép.

Thường thì các tế bào lympho T gây độc là các tế bào có CD8+ và bị giới
hạn bởi các phân tử hoà hợp mô chủ yếu lớp I. Tuy nhiên một vài tế bào TCD4+
bị giới hạn bởi các phân tử hoà hợp mô chủ yếu lớp II cũng có chức năng giống
như các lympho T gây độc.
Vì trên thực tế thì tất cả các tế bào có nhân trong cơ thể đều bộc lộc các
phân tử hoà hợp mô chủ yếu lớp I, do đó các lympho T gây độc có thể nhận diện
được gần như bất kỳ tế bào nào của cơ thể mà đã bị biến đổi.
Ðáp ứng miễn dịch bởi các lympho T gây độc có thể chia ra làm hai pha
phản ánh các khía cạnh khác nhau của đáp ứng gây độc tế bào bởi tế bào T.
Pha đầu là pha mẫn cảm (sensitization phase) có liên quan đến sự hoạt hoá
và tăng sinh một cách mạnh mẽ của các tế bào Th đáp ứng lại các kháng nguyên
do các đại thực bào hoặc các tế bào trình diện kháng nguyên khác trình diện ra
(hình 13.1).
Ngoài ra còn có sự tăng sinh của một số tế bào Tc đáp ứng lại các phức hợp
kháng nguyên-phân tử hoà hợp mô chủ yếu lớp I được nhận diện ra trên các tế bào
đích đặc hiệu.
Tuy nhiên sự tăng sinh này chỉ là thứ yếu so với sự tăng sinh của các tế bào
Th. Kết quả cuối cùng của quá trình tăng sinh mạnh mẽ này là sự mở rộng các
clôn tế bào Th dẫn đến tăng sinh một sản phẩm do các tế bào này tiết ra đó là IL-2.
Ðáp ứng lại tương tác với phức hợp kháng nguyên-phân tử hoà hợp mô chủ
yếu lớp I và đáp ứng lại IL-2, các tế bào Tc sẽ tăng sinh và biệt hoá thành các
lympho T gây độc chức năng thể hiện hoạt tính làm tan tế bào.
Pha thứ hai hay pha thực hiện (effector phase) của đáp ứng gây độc tế bào
bởi tế bào T, các lympho T gây độc nhận diện các phức hợp kháng nguyên-phân tử
hoà hợp mô chủ yếu lớp I trên các tế bào đích đặc hiệu, bắt đầu một chuỗi các sự
kiện mà kết quả cuối cùng là phá huỷ tế bào đích (hình 13.2).

×