Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO (Kỳ 4) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.08 KB, 5 trang )

ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA
TRUNG GIAN TẾ BÀO
(Kỳ 4)
Pha thực hiện
Pha thực hiện là pha làm tan tế bào đích bởi các tế bào lympho T gây độc
thực hiện. Một loạt sự kiện được tổ chức một cách chặt chẽ đưa đến phá vỡ tế bào
đích bởi tế bào lympho T gây độc gồm: tạo thành liên hợp tế bào, tấn công màng,
tách tế bào lympho T gây độc ra khỏi liên hợp, và phá huỷ tế bào đích.
Tan tế bào lympho bởi tế bào: Sự phát triển thử nghiệm tan tế bào lympho
bởi tế bào là một bước tiến quan trọng trên thực nghiệm góp phần vào việc hiểu
biết cơ chế các tế bào lympho T gây độc giết chết các tế bào đích. Trong thử
nghiệm này các tế bào đích thích hợp được đánh dấu bằng chất đồng vị phóng xạ
[51Cr] ở trong nội bào. Việc đánh dấu này được thực hiện bằng cách ủ các tế bào
đích trong dung dịch Na2[51Cr]O4. Chất đồng vị phóng xạ [51Cr] sẽ khuyếch tán
vào bên trong tế bào. Khi đã vào bên trong tế bào thì [51Cr] gắn vào các protein
của bào tương và điều này làm giảm khả năng khuyếch tán thụ động của nó trở ra
ngoài tế bào đích đã đánh dấu. Khi ủ các tế bào lympho T gây độc hoạt hoá đặc
hiệu với các tế bào đích này 1 đến 4 giờ thì các tế bào đích bị tan và [51Cr] được
giải phóng ra. Lượng [51Cr] tăng lên có liên quan trực tiếp với số lượng tế bào
đích bị phá vỡ bởi các tế bào lympho T gây độc. Sử dụng thử nghiệm này người ta
đã chứng minh được tính đặc hiệu của các tế bào lympho T gây độc đối với các tế
bào khác gien cùng loài, các tế bào ung thư, các tế bào nhiễm virut và các tế bào
đã bị thay đổi về phương diện hoá học.
Các clôn tế bào T gây độc: Các tiến bộ trong khoa học công nghệ gần đây
cho phép chúng ta có thể nuôi trường diễn các clôn tế bào lympho T gây độc. Các
lympho bào của chuột nhắt đã được gây miễn dịch trước đó được nuôi cấy cùng
với các tế bào đích dùng gây miễn dịch ban đầu và các tế bào lympho T gây độc
đã biệt hoá được clôn hoá trong các giếng nuôi cấy nhỏ bằng phương pháp pha
loãng giới hạn với sự có mặt của các nồng độ cao IL-2. Các dòng tế bào lympho T
gây độc đã được clôn hoá này cung cấp cho các nhà miễn dịch học một số lượng
lớn các tế bào giống nhau về phương diện di truyền có tính đặc hiệu của các thụ


thể giống hệt nhau dành cho một tế bào đích nhất định. Với các clôn tế bào
lympho T gây độc như vậy người ta đã làm sáng tỏ được rất nhiều hiện tượng hoá
sinh và các phân tử màng có liên quan đến quá trình phá vỡ tế bào đích bởi các tế
bào lympho T gây độc.
Cơ chế gây độc tế bào bởi lympho T gây độc: Hàng loạt sự kiện được diễn
ra theo trình tự chặt chẽ để dẫn tới phá vỡ các tế bào đích bởi các lympho T gây
độc (hình 23-5). Khi các tế bào lympho T gây độc đặc hiệu kháng nguyên được ủ
với các tế bào đích tương ứng thì hai loại tế bào này sẽ tương tác với nhau và xẩy
ra quá trình hình thành sự liên hợp giữa hai tế bào. Sau sự tạo thành liên hợp tế
bào giữa tế bào đích và tế bào lympho T gây độc vài phút là bước tế bào lympho T
gây độc gây tổn thương cho tế bào đích, bước này cần tiêu tốn năng lượng và phụ
thuộc vào ion Ca2+. Tiếp sau đó tế bào lympho T gây độc tách ra khỏi tế bào đích
và tiếp tục đi gắn vào các tế bào đích khác. Sau một khoảng thời gian có thể dao
động từ 15 phút đến 3 giờ kể từ khi tế bào lympho T gây độc tách ra thì tế bào
đích bị tan đi. Mỗi bước của quá trình này đều đã được nghiên cứu chi tiết hơn với
các clôn tế bào lympho T gây độc.
Sự hình thành của liên hợp tế bào đích-tế bào lympho T gây độc có liên
quan đến sự nhận diện phức hợp kháng nguyên-phân tử hoà hợp mô chủ yếu bởi
các thụ thể dành cho kháng nguyên của các tế bào lympho T gây độc (thụ thể của
tế bào T/CD3) cùng với CD8.
Sau khi nhận diện một cách đặc hiệu kháng nguyên, quá trình kết dính tế
bào với tế bào diễn ra giữa tế bào lympho T gây độc và tế bào đích (hình 13-6).
Thụ thể dành cho intergrin LFA-1 trên màng tế bào lympho T gây độc gắn vào các
phân tử kết dính liên tế bào (ICAM) có trên màng của tế bào đích.
Quá trình kết dính này hình như cần phải có sự hoạt hoá trước đó của
lympho T gây độc nhờ tương tác của phức hợp CD3-thụ thể của tế bào T với
kháng nguyên + phân tử hoà hợp mô chủ yếu trên tế bào đích. Một bằng chứng
gần đây cho thấy quá trình hoạt hoá lympho T gây độc bởi kháng nguyên có tác
dụng chuyển đổi LFA-1 từ trạng thái hoạt động thấp sang trạng thái hoạt động cao
(hình 13-7). Nhờ hiện tượng này mà các tế bào lympho T gây độc chỉ kết dính và

tạo liên hợp tế bào với các tế bào đích nào bộc lộ các peptide kháng nguyên kết
hợp với các phân tử hoà hợp mô chủ yếu lớp I. Trạng thái hoạt động cao của LFA-
1 chỉ tồn tại trong vòng từ 5 đến 10 phút sau khi tế bào được hoạt hoá bởi kháng
nguyên rồi sau đó lại trở về trạng thái hoạt động thấp. Người ta cho rằng việc giảm
mức độ hoạt động của LFA-1 thúc đẩy sự phân tách tế bào lympho T gây độc ra
khỏi liên hợp với tế bào đích.
Ngay sau khi liên hợp tế bào lympho T gây độc và tế bào đích được tạo ra
là hàng loạt sự kiện dẫn đến tổn thương màng tế bào đích. Nghiên cứu bằng kính
hiển vi điện tử các clôn lympho T gây độc nuôi cấy cho thấy có các hạt tập trung
mật độ điện tử ở bên trong tế bào (xem hình 13-6). Sau khi hình thành liên hợp tế
bào thì thể Golgi và các hạt tái định hướng bên trong bào tương của tế bào lympho
T gây độc và tập trung về phía xẩy ra sự liên hợp tế bào. Sự tập trung của ion
Ca2+ (một kết quả khác của của sự hoạt hoá lympho T gây độc bởi kháng nguyên)
làm cho các thành phần chứa bên trong các hạt thoát trực tiếp ra ngoài tế bào tại vị
trí liên hợp. Tầm quan trọng của các hạt và các chất chứa trong các hạt đối với sự
phá vỡ tế bào đích đã được chứng minh khi các hạt của lympho T gây độc được
phân lập bằng phương pháp phân đoạn cho thấy là chúng có tác dụng làm cho các
tế bào đích tự gây tổn thương cho mình.

×