Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO (Kỳ 6) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.69 KB, 5 trang )

ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA
TRUNG GIAN TẾ BÀO
(Kỳ 6)
1.2. Gây độc tế bào bởi tế bào NK
Các tế bào NK được phát hiện ra một cách khá tình cờ khi các nhà miễn
dịch học định lượng hoạt tính của lympho T gây độc đặc hiệu với ung thư ở chuột
nhắt bị ung thư. Chuột nhắt bình thường không bị gây miễn dịch và chuột nhắt bị
các khối u không liên quan được sử dụng làm chứng âm. Các nhà nghiên cứu rất
sửng sốt khi thấy nhóm chứng có khả năng làm tiêu ung thư rõ rệt trong thử
nghiệm tan tế bào lympho bởi tế bào. Khi phân tích đặc điểm của các tế bào giết
các tế bào ung thư không đặc hiệu này thấy rằng đây là các tế bào lympho to, có
nhân. Các tế bào này được gọi tên là các tế bào giết tự nhiên (natural killer viết tắt
là NK) để biểu thị cho hoạt tính gây độc tế bào không đặc hiệu của chúng. Tế bào
NK chiếm 5% tổng số lympho bào lưu hành trong máu. Nguồn gốc tế bào NK vẫn
còn chưa rõ vì chúng biểu lộ một số dấu ấn màng tế bào của các lympho T và một
số dấu ấn của tế bào mono và bạch cầu hạt. Hơn thế nữa các tế bào NK khác nhau
bộc lộ các tập hợp phân tử màng khác nhau. Người ta vẫn chưa biết rằng liệu tính
không thuần nhất này phản ánh các tiểu quần thể tế bào NK khác nhau hay chỉ là
các giai đoạn khác nhau của quá trình hoạt hoá hoặc chín của chúng. Có một
kháng thể đơn clôn gắn vào thụ thể dành cho Fc của IgG (CD16) trên màng của
trên 90% tế bào NK và cho ta một cách theo dõi hoạt tính của các tế bào NK.
Kháng thể đơn clôn này có thể liên hợp với chất huỳnh quang và ta có thể dùng
phương pháp flow cytometry với máy tuyển tế bào hoạt hoá huỳnh quang (máy
FACS) để tách các tế bào NK ra khỏi các tế bào khác. Khi máu ngoại vi bị loại bỏ
các tế bào có CD16+ ra thì hầu hết các hoạt tính của tế bào NK cũng mất đi.
Hoạt tính chống ung thư của tế bào NK khác với hoạt tính chống ung thư
của các tế bào lympho T gây độc trên một số điểm rõ rệt. Thứ nhất, các tế bào NK
không có các thụ thể của tế bào T đặc hiệu với kháng nguyên hay CD3. Ngoài ra
sự nhận diện kháng nguyên bởi tế bào NK không bị giới hạn bởi phân tử hoà hợp
mô chủ yếu có nghĩa là mức độ hoạt động gây độc tế bào của tế bào NK đối với
các tế bào ung thư nguyên phát và các tế bào ung thư khác gien cùng loài là như


nhau. Cũng như vậy, mặc dù việc gây mẫn cảm trước làm tăng hoạt tính của các tế
bào lympho T gây độc nhưng không làm tăng hoạt tính của tế bào NK sau khi tiêm
lầm hai với cùng một loại tế bào ung thư; nghĩa là đáp ứng của tế bào NK không
tạo ra trí nhớ miễn dịch. Bản chất của thụ thể của tế bào NK và các cấu trúc trên tế
bào ung thư mà nó tương tác với vẫn còn chưa rõ. Các tế bào NK còn cho thấy là
có khả năng làm tan một số tế bào nhiễm virut. Hoạt tính này của tế bào NK xuất
hiện sớm trong một đáp ứng và hình như nó cung cấp biện pháp bảo vệ trong thời
gian cần thiết để cho các tế bào Tc hoạt hoá, tăng sinh và biệt hoá thành các tế bào
lympho T gây độc chức năng. Một báo cáo gần đây về một phụ nữ có số lượng tế
bào T và B bình thường nhưng thiếu hoàn toàn tế bào NK cho thấy tầm quan trọng
của các tế bào này đối với hệ thống miễn dịch. Người phụ nữ này bị nhiễm virut
thuỷ đậu rất nặng và có nguy cơ bị đe doạ tính mạng do nhiễm virut cự bào
(cytomegalovirus).
Hoạt động gây độc tế bào bởi tế bào NK hình như có liên quan đến một quá
trình giống như quá trình gây độc tế bào bởi tế bào lympho T gây độc. Sau khi một
tế bào NK dính vào một tế bào đích thì quá trình thoát hạt của các hạt trong bào
tương có chứa perforin xuất hiện. Perforin được giải phóng ra gây tổn thương tế
bào đích giống như cách đã mô tả với tế bào lympho T gây độc. Các tế bào NK có
cấu thành p75kD của thụ thể dành cho IL-2. Hoạt động của tế bào NK thường tăng
lên khi có IL-2 hoặc interferon là các chất hoạt động theo kiểu hiệp đồng kích
thích tế bào NK tăng sinh. Quần thể tế bào NK thu được có hoạt tính gây độc tế
bào tăng đối với nhiều loại tế bào đích hơn so với các tế bào NK không được xử lý
gì cả.
1.3. Gây độc tế bào bởi tế bào phụ thuộc kháng thể
Một số tế bào có hoạt tính gây độc tế bào thường bộc lộ các thụ thể trên
màng dành cho phần Fc của phân tử kháng thể. Khi kháng thể được gắn một cách
đặc hiệu vào một tế bào đích, các tế bào có các thụ thể này có thể gắn vào phần Fc
của phân tử kháng thể và như vậy cũng gắn vào tế bào đích rồi sau đó làm tan tế
bào đích. Mặc dù các tế bào có tác dụng gây độc tế bào trong hiện tượng này là
không đặc hiệu nhưng sự đặc hiệu của kháng thể đã định hướng chúng đến tế bào

đích. Kiểu gây độc tế bào này được gọi là gây độc tế bào bởi tế bào phụ thuộc
kháng thể (antibody-dependent cell-mediated cytotoxicity - viết tắt là ADCC),
thường hay gọi là hiệu quả ADCC. Có rất nhiều tế bào cho thấy là có hiệu quả này
trong đó có các tế bào NK, đại thực bào, tế bào mono, bạch cầu trung tính và bạch
cầu ái toan (hình 13-10). Ta có thể quan sát in vitro hiện tượng giết các tế bào bị
nhiễm virut sởi bởi tế bào phụ thuộc kháng thể bằng cách cho kháng thể kháng sởi
cùng với các đại thực bào vào môi trường nuôi cấy các tế bào bị nhiễm virut sởi.
Tương tự như vậy ta có thể quan sát được hiện tượng giết chết giun sán ví dụ như
sán máng (schistosome) hoặc sán lá máu (blood fluke) in vitro bởi tế bào phụ
thuộc kháng thể bằng cách ủ các ấu trùng vừa mới nhiễm (tức là các
schistosomule) với kháng thể kháng ấu trùng cùng với các bạch cầu ái toan.
Các tế bào đích bị giết bởi hiệu quả ADCC, một hiện tượng không có liên
quan với hiện tượng tan tế bào bởi bổ thể, hình như có liên quan đến một số cơ chế
gây độc tế bào khác nhau. Khi các đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính hoặc
bạch cầu ái toan gắn vào một tế bào đích bằng cách thông qua thụ thể dành cho Fc
của chúng thì các tế bào này trở nên dị hoá chủ động hơn, điều này dẫn đến làm
tăng các thành phần có tác dụng gây tiêu tan trong các hạt hoặc trong lysosome
nằm trong bào tương của chúng. Việc giải phóng các thành phần có tác dụng tiêu
tan này ở vị trí tiếp xúc thông qua Fc có thể dẫn đến tổn thương tế bào đích. Ngoài
ra các tế bào mono hoạt hoá, các đại thực bào, và các tế bào NK cũng chế tiết yếu
tố gây hoại tử ung u chất có tác dụng gây độc tế bào đối với các tế bào đích mà nó
gắn vào. Vì cả các tế bào NK và bạch cầu ái toan đều có chứa perforin trong các
hạt bào tương nên tổn thương màng của các tế bào đích của chúng cũng có thể do
perforin giống như cơ chế gây độc tế bào bởi tế bào lympho T gây độc đã mô tả.

×