Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Nghiên cứu về sự tự do hóa dòng vốn và cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi ở 11 nền kinh tế Châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 45 trang )

PHẦN 1: DẪN NHẬP

Trong bài viết này, chúng ta nghiên cứu về sự tự do hóa dịng vốn và cơ chế tỷ giá
hối đoái thả nổi ở 11 nền kinh tế Châu Á. Châu Á tuyên bố sẽ từng bước thực hiện
tự do hóa nhưng trong thực tế tự do hóa lại diễn ra nhanh hơn rất nhiều. Mặc dù tỷ
giá hối đoái đã dần dần trở nên linh hoạt hơn, nhưng hầu hết các nền kinh tế Châu
Á vẫn duy trì cơ chế tỷ giá cố định. Sự kết hợp giữa hội nhập ngày càng sâu trên
thực tế, mà khơng cần thả nổi tỷ giá nhiều, khi các dịng chảy vốn thuận chu kỳ đã
dẫn đến một chính sách tiền tệ thuận chu kỳ. Bài viết này nhấn mạnh nhu cầu để
đưa ra một hệ thống chính sách tiền tệ sao cho thật phù hợp.
Ý nghĩa mấu chốt trong kinh tế học vĩ mô là “bộ ba bất khả thi”, có nghĩa là ở bất
cứ thời điểm nào, một quốc gia chỉ có thể chọn hai trong những cái sau đây: vốn di
chuyển hoàn toàn tự do, cơ chế tỉ giá hối đối cố định và một chính sách tiền tệ
độc lập. Ngoại trừ các quốc gia sử dụng đồng tiền chung Euro, hầu hết các nước
phát triển đều thực hiện chính sách tự do hóa dịng vốn, cơ chế tỉ giá hối đối thả
nổi và một chính sách tiền tệ độc lập.
Ở Châu Á, có một vài trường hợp hoàn toàn ngược lại, chẳng hạn như Hong Kong
chọn cơ chế tỉ giá hối đoái cố định, tự do hóa dịng vốn và khơng có chính sách
tiền tệ độc lập. Tuy nhiên, nhìn chung, nền kinh tế Châu Á đều có chung xu hướng
là khơng có một chính sách tiền tệ độc lập, với sự phối hợp giữa việc kiểm sốt
dịng vốn và cơ chế tỉ giá hối đối thả nổi. Điều này làm phát sinh những nghi vấn
thú vị về thể chế hiện hành và khả năng điều hành chính sách tiền tệ ở Châu Á và
một nhu cầu cơ bản là làm sao để đưa ra một chính sách tiền tệ phù hợp.
Ở bài này, chúng ta tập trung vào 11 nền kinh tế chủ yếu ở Châu Á như: Ấn Độ,
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc); Hong Kong, Đài Loan,
Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam, và Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Hàn Quốc). Đây là một nhóm những quốc gia
không đồng nhất cao, được sắp xếp từ những vùng lãnh thổ độc lập như Singapore
đến những quốc gia lớn như Trung Quốc, và từ những nền kinh tế nghèo như Ấn
Độ đến những nền kinh tế giàu như Đài Loan hay Hàn Quốc. Chúng ta sẽ gọi
những nền kinh tế này là khối các nước Châu Á-11.


Chúng ta sẽ xét khối các nước Châu Á-11 trên khía cạnh 3 góc độ của “bộ ba bất
khả thi”: kiểm sốt dịng vốn, cơ chế tỉ giá hối đối và chính sách tiền tệ độc lập.
Chúng ta có được những thống kê sơ bộ về mỗi nền kinh tế của 11 quốc gia này,
và sẽ tập trung vào những trị số của 3 nền kinh tế lớn nhất: Ấn Độ, Trung Quốc và
Hàn Quốc.
Do chính phủ của những quốc gia này đã thất bại trong việc thực hiện những công
bố, nên bài viết này tập trung nói về vấn đề kiểm sốt dịng vốn, cơ chế tỉ giá hối
1


đối và chính sách tiền tệ trong thực tế chứ không phải là trên danh nghĩa. Cụ thể
hơn, chúng ta đề cập đến những điều kiện thực tế cho việc tự do hóa dịng vốn, cơ
chế tỉ giá thả nổi và những tiền đề của chính sách tiền tệ mà thước đo là lãi suất
thực ngắn hạn.
Chúng ta nhận thấy rằng trong khi 11 nước Châu Á ít nhiều đã tun bố thực hiện
tự do hóa dịng vốn, nhưng trên thực tế thì hầu hết các quốc gia này đều có những
biện pháp hạn chế dịng vốn quốc tế tự do di chuyển. Tuy nhiên, điều này không
thể cản trở việc dần dần hội nhập bởi vì hệ thống tài chính ngày càng phát triển vơ
cùng phức tạp.
Bên cạnh đó, Châu Á được biết đến với cơ chế tỷ giá hối đối hồn tồn cố định.
Mặc dù sự linh hoạt trong chính sách tỉ giá của họ đã tăng lên từ sau năm 2000,
nhưng vẫn ở mức thấp so với thế giới. Ngay cả khi Hàn Quốc là nước có cơ chế tỷ
giá tương đối linh hoạt nhưng vẫn chưa hồn tồn dám thả nổi tỷ giá.
Chính sách tiền tệ nghịch chu kỳ là một trong những chiến lược của chính phủ
nhằm đạt được mục tiêu ổn định lạm phát và sản lượng. Chúng ta đề cập đến mục
tiêu này trong bối cảnh sự mâu thuẫn phát sinh trong “bộ ba bất khả thi”. Ngày
nay, hầu hết các quốc gia Châu Á tăng cường tự do hóa dịng vốn cùng với thực
hiện cơ chế tỉ giá hối đoái gần như cố định. Để đạt được điều đó dịng vốn phải
thuận chu kỳ, những ngân hàng trung ương sẽ biến dòng vốn thuận chu kỳ thành
chính sách tiền tệ thuận chu kỳ. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Ấn Độ là

những trường hợp thử nghiệm hấp dẫn của hiện tượng này, thực tế đã đem lại một
phạm vi giới hạn trong việc di chuyển vốn tự do ở cả hai quốc gia và hệ thống tài
chính tương đối yếu kém của họ. Đến lúc này, giữa hai quốc gia, chúng ta nhận
thấy chính sách tiền tệ tuần hồn khá rõ ràng.
Có ý kiến cho rằng những nền kinh tế đi theo hướng tự do hóa dịng vốn trong khi
vẫn thực hiện việc kiểm soát tỷ giá hối đoái sẽ phải đối mặt với những rủi ro tiềm
ẩn. Điều này là một mối quan tâm đặc biệt đối với Malaysia và Đài loan, nơi mà
hệ thống tài chính phức tạp đã ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát vốn, tự do hóa
dịng vốn và cơ chế tỷ giá hối đối cố định. Việc theo đuổi chính sách tiền tệ
nghịch chu kỳ trở nên khó khăn hơn khi những quốc gia này đã thực hiện việc neo
tỷ giá hối đoái vào những dịng vốn thuận chu kỳ, bài viết này nhằm tìm ra một
chính sách tiền tệ thích hợp.

2


PHẦN 2: CỞ SỞ LÝ LUẬN & CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

I. Cơ sở lý luận
1. Thuyết bộ ba bất khả thi của GS. Robert Mundell
 Mơ hình Mundell-Fleming (Robert Mundell -1962, 1963 và J.M.Fleming1962)
 Một quốc gia phải từ bỏ một trong 3 mục tiêu:
 Chính sách tiền tệ độc lập
 Cơ chế tỷ giá hối đoái cố định
 Vốn di chuyển hoàn toàn tự do

2. Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian
 Yigang và Tangxian (2001) tiếp tục phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi
của Mundell và đưa lên thành thuyết tam giác mở rộng
“Một quốc gia có thể có những phối hợp mục tiêu khác nhau và khơng phải

chấp nhận sự đánh đổi hồn tồn như tam giác của Mundell”

Có 3 trường hợp:

3


 Trường hợp 1: Khi dịng vốn hồn tồn lưu động, có ba sự kết hợp:
- Dịng vốn lưu động hồn tồn ∩ chính sách độc lập tiền tệ hồn tồn ∩ tỷ
giá thả nổi tự do
- Dịng vốn lưu động hồn tồn ∩ mất độc lập về chính sách tiền tệ ∩ tỷ giá
cố định
- Dòng vốn lưu động hồn tồn ∩ độc lập chính sách tiền tệ có giới hạn ∩ tỷ
giá thả nổi có giới hạn.
 Trường hợp 2: Khi kiểm sốt vốn hồn tồn, ta có:
- Kiểm sốt vốn hồn tồn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá cố
định.
- Thực tế, chế độ tỷ giá cố định thường có trong các quốc gia đang phát triển
với thị trường tài chính yếu kém.
 Trường hợp 3: Khi dòng vốn lưu động giới hạn, ta có ba sự kết hợp:
- Dịng vốn lưu động có giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hồn tồn ∩ tỷ
giá thả nổi có giới hạn
- Dịng vốn lưu động giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ
giá thả nổi có giới hạn
- Dịng vốn lưu động có giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩
tỷ giá cố định.
3. Thuyết Tứ diện
 Hausmann (2000): quốc gia nào có khả năng vay mượn nước ngồi bằng
nội tệ nhiều hơn có khuynh hướng nắm giữ mức dự trữ ngoại hối nhỏ hơn,
và cho phép tỷ giá biến động cao hơn so với biến động trong dự trữ ngoại

hối hoặc lãi suất
 Guobing Shen (2004): đưa biến số khả năng vay mượn nước ngoài bằng
đồng nội tệ vào các yếu tố khác để xác định việc lựa chọn cơ chế tỷ giá. Từ
đó mở rộng tam giác bất khả thi thành thuyết tứ diện

 Trường hợp 1: không có vay mượn nước ngồi bằng đồng nội tệ, có 3 khả
năng:
Thứ nhất:
4


 Khơng có khả năng vay mượn nước ngồi ∩ dịng vốn lưu động
hồn tồn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá thả nổi tự
do;
 Khơng có khả năng vay mượn nước ngồi ∩ dịng vốn lưu động
hồn tồn ∩ mất đi tính độc lập trong chính sách tiền tệ ∩ tỷ giá cố
định.
 Khơng có khả năng vay mượn nước ngồi ∩ dịng vốn lưu động
hồn tồn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá thả nổi có
giới hạn.
Thứ hai:
 Khơng có khả năng vay nợ nước ngồi ∩ kiểm sốt vốn hồn tồn ∩
chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá cố định.
Đây là sự kết hợp thường thấy trong các nước đang phát triển với thị trường
tài chính yếu kém.
Thứ ba:
 Khơng có khả năng vay mượn nước ngồi ∩ dịng vốn lưu động có
giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hồn tồn ∩ tỷ giá thả nổi có
giới hạn;
 Khơng có khả năng vay nước ngồi ∩ dịng vốn lưu động có giới

hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá thả nổi có giới
hạn;
 Khơng có khả năng vay nước ngồi ∩ dịng vốn lưu động có giới
hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá cố đinh.
 Trường hợp 2: Khi có khả năng cao nhất để vay nước ngồi bằng nội tệ,
chúng ta có sự kết hợp:
 Hồn tồn có khả năng vay nước ngồi ∩ lưu động dịng vốn hồn
tồn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá cố định.
Thực tế, cơ chế tỷ giá dưới chế độ chuẩn vàng cổ điển (classical gold
standard) thuộc về sự kết hợp kiểu này.
 Trường hợp 3: Khi khả năng vay nước ngoài bằng nội tệ có giới hạn, thì
ta có
Thứ nhất
 Khả năng vay nước ngồi có giới hạn ∩ dịng vốn lưu động hồn
tồn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hồn tồn ∩ tỷ giá thả nổi có giới
hạn;
 Khả năng vay nước ngồi có giới hạn ∩ dịng vốn lưu động hồn
tồn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá thả nổi có giới
hạn;
 Khả năng vay nợ nước ngồi có giới hạn ∩ dịng vốn lưu động hồn
tồn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá cố định.

5


Thứ hai
 Khả năng vay nợ nước ngồi có giới hạn ∩ lưu động vốn có giới hạn
∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá thả nổi có giới hạn;
 Khả năng vay nợ nước ngồi có giới hạn ∩ dịng vốn lưu động có
giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá thả nổi có

giới hạn;
 Khả năng vay nợ nước ngồi có giới hạn ∩ dịng vốn lưu động giới
hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập giới hạn ∩ tỷ giá cố định;
 Khả năng vay nợ nước ngồi có giới hạn ∩ dịng vốn lưu động có
giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hồn toàn ∩ tỷ giá cố định.
II. Các nghiên cứu trước
1. Kiểm soát vốn
1.1 Kiểm soát vốn danh nghĩa: Phương pháp cơ sở dữ liệu của Chinn-Ito
Chúng ta bắt đầu với sự mơ tả việc kiểm sốt vốn danh nghĩa ở khối các nước
Châu Á-11 so với phần còn lại của thế giới. Bằng việc sử dụng phân tích những
nhân tố chủ yếu, Chinn and Ito (năm 2008) đã xây dựng một cơ sở dữ liệu về
việc kiểm soát vốn danh nghĩa dựa trên những thông tin mà các quốc gia cung cấp
để làm cơ sở dữ liệu cho Quỹ tiền tệ thế giới (IMF).
Cơ sở dữ liệu này cung cấp một chỉ số hằng năm của mỗi nền kinh tế, với những
dãy giá trị từ -1.81 của những nền kinh tế đóng cửa hồn tồn, đến +2.53 của
những quốc gia hồn tồn tự do hóa.
Mặc dù cơ sở dữ liệu thường được dùng để phân tích việc kiểm sốt vốn trên danh
nghĩa, nhưng nó cũng có những hạn chế. Đầu tiên, nó khơng đạt được tính chính
xác của q trình dần nới lỏng việc kiểm sốt vốn, bởi vì nếu như tất cả các biện
pháp hạn chế không được dỡ bỏ nó sẽ tiếp tục đưa ra những chỉ số tương tự. Thứ
hai, chỉ số đã tăng đáng kể ở hầu hết các nước công nghiệp trong những năm gần
đây, bởi vì những nước này đã đưa ra những biện pháp hữu hiệu trong việc chống
rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và những cái tương tự.
1.2 Tự do hóa tài khoản vốn thực tế
1.2.1 Phương pháp tính theo GDP
Tỷ lệ thương mại/GDP được hiểu như tổng lượng nhập khẩu và xuất khẩu, nó thể
hiện bằng tỷ lệ phần trăm của GDP. Nó đo lường sự tự do thương mại. Một sự giải
thích đơn giản minh chứng cho định nghĩa này đó là tỷ lệ dịng chảy tài chính
xun quốc gia trong cán cân thanh tốn đến GDP. Nó đo lường sự hội nhập về tài
chính.

Khả năng điều tiết tỷ giá hối đoái của Ngân hàng trung ương tùy thuộc vào khối
lượng vốn quốc tế đổ vào trong nước trên thị trường ngoại hối. Thậm chí ngay cả
khi những luồng giao dịch này rất nhiều trong năm thì những khoản thanh toán
6


nhập khẩu, nguồn thu từ xuất khẩu và các dòng vốn tài chính vẫn hằng ngày ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đối. Thêm vào đó, mặc dù các dịng sản lượng bao gồm các
giao dịch trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn, nhưng các giao dịch trên tài
khoản vãng lai có vẻ chiếm ưu thế hơn các giao dịch trên tài khoản vốn, vì các
khoản chuyển vốn giữa các quốc gia có thể là các khoản phi thương mại. Patnaik,
Sengupta và Shah (2009) đã cho thấy rằng tài khoản vãng lai càng lớn thì các
khoản giao dịch phi thương mại càng nhiều và nó được xem như một biện pháp để
kiểm sốt dịng vốn di chuyển. Patnaik và Shah đã nghiên cứu sự tự do hóa dịng
vốn không hề được mong đợi sẽ làm xuất hiện những tập đồn đa quốc gia đóng
vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Những lý thuyết khác thì nhấn mạnh mối liên
hệ tác động qua lại giữa tự do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn (Aizenman
2003; Aizenman và Noy 2004). Vì vậy chúng ta có thể xem dòng sản lượng trên
cả tài khoản vốn và tài khoản vãng lai là một thước đo của sự toàn cầu hóa nền
kinh tế.
1.2.2 Phương pháp tính theo sự phát triển thị trường tài chính
Việc mở rộng quản lý vốn có hiệu quả đã tạo ra nhiều việc phải làm đối với việc
phát triển khu vực tài chính trong nước. Hệ thống tài chính ngày càng phức tạp có
xu hướng bào mịn hiệu quả của việc kiểm sốt vốn qua thời gian. Khi nghĩ đến
hiệu quả của kiểm soát vốn danh nghĩa, ta thấy rằng việc xem xét năng lực của hệ
thống tài chính trong nước rất quan trọng.
Để làm được điều này, Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009) đã đưa
ra bảng cơ sở dữ liệu của việc phát triển khu vực tài chính ở 26 nền kinh tế mới
nổi, bao gồm tất cả các nền kinh tế của khối các nước Châu Á-11, ngoại trừ Việt
Nam. Các giá trị của chỉ số này được sắp xếp từ 0 (đối với những nước có hệ

thống tài chính khơng phát triển) tới 1 (đối với những nước có hệ thống tài chính
phát triển). Chúng ta tập trung vào thước đo “hẹp” của sự phát triển tài chính bởi
vì thước đo này được cập nhật thường xuyên.
1.2.3 Phương pháp cơ sở dữ liệu của Lane and Milesi-Ferretti
Phương pháp thứ 2 để đo lường sự hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế giới là sử
dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu của Lane and Milesi-Ferretti (Lane and MilesiFerretti 2007). Nó đo lường phần tài sản và các khoản nợ nước ngoài của quốc
gia bằng cách tổng hợp các dòng trong cán cân thanh toán. Cơ sở dữ liệu này giá
trị ở chỗ nó đo lường kết quả của việc kiểm sốt vốn được phản ánh trên cán cân
thanh tốn. Tuy nhiên nó khơng đo được các dịng vốn thực hiện thơng qua cơ chế
như các khoản giao dịch phi thương mại dẫn đến đến việc thất thốt vốn và khơng
được tính trong cán cân thanh toán.

7


2. Cơ chế tỷ giá hối đối
2.1 Sử dụng mơ hình hồi quy tuyến tính dựa theo tỷ giá trao đổi tiền tệ chéo
Trong thập niên qua, có lý thuyết cho rằng ở nhiều nền kinh tế cơ chế tỷ giá hối
đối danh nghĩa được cơng bố bởi Ngân Hàng Trung Ương khác xa so với cơ chế
tỷ giá thực tế. Điều này đã thúc đẩy một lý thuyết về phân lọai cơ chế tỷ giá hối
đoái theo phương pháp “dữ liệu hóa” (Reinhart and Rogoff 2004; LevyYeyati and Sturzenegger 2003;Calvo and Reinhart 2002). Lý thuyết này đã
đưa ra những dữ liệu để nhận dạng cơ chế tỷ giá thực tế ở nhiều nước trong
những thập niên gần đây bằng cách sử dụng sự khác nhau của những thuật toán
thay thế. Mặc dù những dữ liệu này hữu ích cho nhiều ứng dụng, chúng cũng có
những hạn chế trong việc đo lường những đặc điểm và cấu trúc của những cơ
chế tỷ giá trung gian. Ví dụ Reinhart và Rogoff phân loại đồng Rupi của Ấn độ
như là một cơ chế tỷ giá đơn nhất từ năm 1993 trở đi, nhưng sau đó báo cáo này
chỉ ra rằng cũng từ năm 1993 Ấn độ đã từng có một cơ chế tỷ giá trung gian, chính
điều này đã mang lại một cái nhìn mới là làm cách nào để xây dựng cơ chế tỷ giá
hối đối và chính sách tiền tệ.

Một phương pháp hữu ích để hiểu được cơ chế tỷ giá thực tế là phương pháp hồi
quy tuyến tính dựa trên tỷ giá chéo (với giá trị định vị thích hợp).Phương pháp
hồi quy này được sử dụng từ thời Haldane và Hall (1991) sau đó được phổ biến
bởi Frankel và Wei (vì vậy cũng có tên là phương pháp Frankel-Wei). Ứng
dụng gần đây của phương pháp ước lượng bao gồm Bénassy-Quéré, Coeuré và
Mignon (2006), Shah, Zeileis, và Patnaik (2005) và Frankel và Wei
(2007).Trong phương pháp này , một đơn vị tiền tệ độc lập chẳng hạn như là Đồng
France Thụy Sĩ (CHF) được chọn là giá trị định vị giả định. Nếu sự ước lượng sử
dụng đồng Rupi Ấn độ (INR) như mơ tả thì mẫu ước lượng là:

Phương pháp hồi quy này mở rộng sự dao động tỷ giá của INR/CHF phản ứng với
sự dao động của tỷ giá US$/CHF. Nếu neo tỷ giá vào đồng đô la Mỹ thì sự dao
động giữa đồng Yên Nhật và đồng Mark Đức sẽ bằng 0.Nếu không neo tỷ giá vào
đồng đô la Mỹ thì cả 3 beta khác 0. R2 của phương pháp hồi quy này cũng có ý
nghĩa, giá trị gần bằng 1 cho biết tỷ giá đã giảm dần sự linh hoạt.
Để hiểu cơ chế tỷ giá thực tế ở một nước trong một khoảng thời gian cho trước,
những nhà nghiên cứu và các kỹ thuật viên có thể dễ dàng điều chỉnh phương pháp
hồi quy này cho phù hợp với cửa sổ dữ liệu đã cho hay sử dụng cửa sổ dữ liệu biến
đổi. Tuy nhiên một kế họach như vậy thiếu cơ sở suy luận chính thức để quyết định
sự thay đổi của cơ chế tỷ giá. Điều này đã thúc đẩy sự mở rộng đến toán kinh tế về
sự thay đổi cấu trúc cho mục đích phân tích sự thay đổi cấu trúc trong phương
pháp Frankel-Wei (Zeileis, Shah và Patnaik 2008). Điều này liên quan đến
8


Phương pháp luận Perron-Bai quen thuộc (Bai và Perron 2003) cho việc nhận
ra ngày tháng của sự thay đổi cấu trúc trong phương pháp hồi quy OLS. Qua đó
ngày tháng của sự thay đổi cấu trúc trong cơ chế tỷ giá được nhận dạng. Chúng ta
tập trung vào thời kỳ sau năm 1976 và tận dụng sự thay đổi tỷ giá hàng tuần cho
những ước lượng này. Những giá trị trong ngoặc là thống kê t.

Đối với mỗi nước, hàng lọat thời kỳ phụ được nhận biết. Ở mỗi thời kỳ phụ, R2 của
phương pháp hồi quy được xem như là một thống kê tóm tắt tính linh họat của
tỷ giá. Giá trị gần bằng 1 cho thấy sự cố định chặt chẽ. Tỷ giá thả nổi có giá
trị giữa 0.4-0.5.
Sử dụng bảng biểu phân loại này, chúng ta có thể đạt được những điều sau đây :
+ Đo lường và định lượng cấu trúc cơ chế tỷ giá trung lập bằng cách sử dụng thước
đo giá trị thực của tính cố định tỷ giá (hồi quy R2) và đương nhiên hồi quy R2 cũng
tạo ra một thước đo giá trị thực tính linh hoạt của tỷ giá
+Xác định rõ ngày tháng mà cơ chế tỷ giá thay đổi. Chúng ta thực hiện phương
pháp sử dụng tỷ lệ % thay đổi hàng tuần của tỷ giá mà phương pháp này tạo ra
những phân đoạn thời kỳ đối với giải pháp trong tuần. Qua đó, những dãy số liệu
thời gian của tính linh hoạt tỷ giá đã đạt được ở mỗi nước và giá trị R2 chiếm ưu thế
vào đúng thời điểm .
+Quyết định số lượng phân đoạn thời kỳ và sắp xếp những phân đoạn này dựa trên
những suy luận hợp lý.

9


PHẦN 3: SỐ LIỆU & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Kiểm sốt vốn
Kiểm sốt vốn danh nghĩa
Hình 1: Biểu đồ đo lường của Chinn-Ito trong 2 năm 1970 và 2007 của tất cả
các nền kinh tế
Biểu đồ thể hiện đồ thị mật độ cốt lõi của thước đo Chinn-Ito của việc tự do hóa
dịng vốn trên danh nghĩa của tất cả các nền kinh tế. Đường màu xanh và đỏ
tương ứng với năm 1970 và 2007. Sự phân bổ thuộc về hai đỉnh, với một khối gồm
hầu hết các nền kinh tế mở và một khối là hầu hết các nền kinh tế đóng. Có một sự
thay đổi trong khối là phần nhơ lên phía trái của đồ thị (các nền kinh tế đóng) đến
phần nhơ lên phía bên phải của đồ thị (các nền kinh tế mở). Biểu đồ này cho

chúng ta những thông tin tham khảo lấy từ cơ sở dữ liệu Chinn-Ito.

Nguồn: Chinn and Ito (2008) và những tính tốn của tác giả

Cơ sở dữ liệu của Chinn-Ito cho thấy qua nhiều năm, tất cả các nước trên thế giới
hầu như đã dỡ bỏ kiểm sốt vốn. Hình 1 cho thấy đồ thị mật độ cốt lõi của thước
đo Chinn-Ito giữa 2 năm 1970 và 2007 của tất cả các nền kinh tế. Trong cả hai
năm, biểu đồ chỉ ra hai phương thức, một cụm những nền kinh tế mở cửa và một
cụm những nền kinh tế đóng cửa. Điều này cho thấy xu hướng chung của các quốc
gia là chuyển từ đóng cửa sang mở cửa. Dữ liệu cho thấy trong năm 1970 các chỉ
số xoay quanh mức -1. Chỉ số này bị giảm mạnh vào năm 2007. Ngày nay, sự
phân bổ đều hơn, những số liệu tương đối đồng đều tùy thuộc vào việc các nền
kinh tế mở cửa nhiều hay ít.

10


Hình 2: Sự phát triển của thước đo trung bình Chinn-Ito của khối Châu Á-11
Mỗi năm, giá trị trung bình của thang đo Chinn-Ito của các nền nước đều được
tính tốn lại. Đường màu xanh cho thấy mức bình qn của thế giới, trong khi
đường màu đỏ thể hiện mức bình quân của 11 nước Châu Á. Kết quả được đề cập
trong những năm gần đây cho thấy, mức trung bình của việc kiểm sốt vốn của 11
nước Châu Á đã dịch chuyển gần với mức trung bình của Thế giới. Điều này đi
ngược lại với xu hướng phổ biến ở những thập niên trước, mức trung bình của của
11 nước Châu Á cách xa so với mức trung bình của Thế giới.

Nguồn: Chinn and Ito (2008) và những tính tốn của tác giả

Chinn-Ito có dữ liệu về tất cả 11 nền kinh tế Châu Á ngoại trừ Đài Loan. Do tài
khoản vốn của Đài Loan có sự thay đổi lớn, dữ liệu của khối các nước Châu Á-11

cũng có khuynh hướng đi xuống. Hình 2 thể hiện xu hướng trong giá trị trung bình
của thước đo Chinn – Ito đối với 11 nước Châu Á (ngoại trừ Đài Loan) và thế giới.
Ở điểm khởi đầu và kết thúc, mức kiểm soát vốn trên danh nghĩa của 11 nước
Châu Á thì tương tự như mức trung bình của thế giới. Tuy nhiên, có một thời kỳ
trung gian khi mà chính phủ bãi bỏ việc kiểm sốt vốn thì 11 nước Châu Á đã bỏ
xa mức trung bình của thế giới. Trong khi nền kinh tế 11 nước Châu Á được thu
hút bằng những dòng vốn dài hạn như đầu tư trực tiếp nước ngồi, thì một vài biện
pháp hạn chế được áp dụng với những dòng vốn ngắn hạn. Chẳng hạn như Ấn Độ,
quốc gia này đã thực hiện những biện pháp nhằm hạn chế nợ ngắn hạn.
Bảng 1 thể hiện trị số của chỉ số Chinn – Ito đối với Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn
Quốc và mức trung bình khối các nước Châu Á-11. Trong khi chỉ số của Trung
Quốc và Ấn Độ cùng ở một vị trí là -1,13, thì xu hướng của Hàn Quốc có nhiều
biến động hơn. Trước cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, tự do hóa
11


dòng vốn đã làm cho chỉ số từ mức -1,13 tăng lên mức -0,09 năm 1995. Tuy nhiên
trong năm 1996, chỉ số rớt lại mức -1,13 và khơng có sự thay đổi nào cho đến năm
2001 quốc gia này quay lại thực hiện chính sách tự do hóa dịng vốn. Năm 2007,
Hàn Quốc đã đạt được giá trị 0,18. Mặc dù đạt được thành tích này, nhưng nó vẫn
khơng thể có được tốc độ tự do hóa dịng vốn như các quốc gia OECD khác.
Mức mở cửa bình quân của khối các nước Châu Á-11 đã gia tăng một cách mạnh
mẽ từ mức -0,07 năm 1970 lên đến mức 0,96 năm 1985. Sau cuộc khủng hoảng tài
chính Châu Á, việc kiểm sốt vốn tiếp tục duy trì, và vì vậy năm 1998, chỉ số bình
qn đã rớt xuống chỉ cịn 0,41. Từ đó khơng thể đạt lại được mức 0,96 có được từ
trước khủng hoảng. Tuy nhiên, những phát triển gần đây của các nền kinh tế Châu
Á do mở cửa nền kinh tế đã không được dữ liệu Chinn-Ito phản ánh do sự thay đổi
trong phương pháp đo lường cũng như không thể đạt được việc dần nới lỏng kiểm
sốt vốn mà điều này khơng hồn tồn liên quan đến việc tháo bỏ các biện pháp
hạn chế.

Bảng 1: Sự phát triển của thước đo Chinn-Ito
Bảng này thể hiện sự tiến triển của phương pháp Chinn-Ito ở Ấn Độ, Trung Quốc
và Hàn Quốc, so với mức trung bình của khối các nước Châu Á-11
Chỉ số của Ấn Độ và Trung Quốc cố định ở mức -1,13, nó tương ứng với phương
thức “hầu như đóng cửa” như đã biểu diễn ở hình 1. Đối với Hàn Quốc, kiểm
sốt vốn danh nghĩa đã thay đổi nhiều lần. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu
Á, Hàn Quốc vẫn ở mức -1,13 cho đến năm 2000. Từ đó, quốc gia này theo đuổi
chính sách tự do hóa và đến năm 2007 nó tăng lên đến mức 0,18.
Year

India

PRC

1970
1975
1980
1985
1990
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003

-1.13

-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13

-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.81
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
12


The
Republic
of Korea
-1.13
-1.13
-0.09
-1.13
-0,09
-0.09
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-1.13
-0.09
-0.09
-0.09

Asia -11
Mean
-0.07
0.12
0.45
0.96
0.74
0.96
0.76
0.56
0.41
0.56

0.49
0.49
0.49
0.49


2004
2005
2006
2007
Change
2000-2007

-1.13
-1.13
-1.13
-1.13

-1.13
-1.13
-1.13
-1.13

-0,09
-0.09
-0.09
0.18

0.49
0.49

0.49
0.36

0

0

1.31

-0.13

Nguồn: Chinn and Ito (2008) và những tính tốn của tác giả

Tự do hóa tài khoản vốn thực tế
1.2.1 Đo lường bằng GDP
Hình 3 thể hiện mức độ tồn cầu hoá qua thời gian của khối các nước Châu Á-11
(ngoại trừ Việt Nam chưa có dữ liệu). Đường đứt khúc thể hiện tốc độ hội nhập
tăng từ mức 100% của GDP năm 1998 lên khoảng 160% của GDP năm 2008.
Đường liền nét cho thấy xu hướng đi lên do sự xuất hiện của các nền kinh tế mở
nhỏ và vừa như Singapore và Hong Kong.
Hình 3: Giá trị trung bình của tỷ trọng dòng luân chuyển so với GDP của khối
Châu Á-11

Biểu đồ này sử dụng tỷ trọng dòng luân chuyển so với GDP để đo lường mức độ
toàn cầu hóa. Số 1 tương ứng với 100%GDP trong 1 năm. Hai đại lượng ước tính
(đường đứt khúc và đường liền nét) được sử dụng để báo cáo tình hình của 11 nền
kinh tế Châu Á, cả hai giá trị này đều cho thấy tốc độ hội nhập với kinh tế thế
giới.

Nguồn: Datastream


Bảng 2 cho một cái nhìn cận cảnh hơn về 11 nền kinh tế Châu Á. Tốc độ hội nhập
của Trung Quốc và Ấn Độ là tương đối chậm cho đến năm 2000, sau đó có một sự

13


thay đổi đáng kể theo hướng tăng lên. Như trường hợp của Ấn Độ, từ năm 2000
đến năm 2008, GDP tăng 56 điểm phần trăm GDP. Những nước khác cũng có
khuynh hướng tương tự, đó là Trung Quốc (30 điểm phần trăm GDP), Hàn Quốc
(69 điểm phần trăm GDP) và bình quân khối các nước Châu Á-11 (45 điểm phần
trăm GDP).
Những kết quả cho thấy rằng mặc dù Châu Á chỉ là bị bắt buộc phải thực hiện tự
do hóa khi nó muốn theo đuổi chính sách kiểm sốt vốn trên danh nghĩa, nhưng
trên thực tế chính điều này đã khiến Châu Á dần dần hội nhập với kinh tế thế giới.
Bảng 2: Tỷ trọng dòng luân chuyển so với GDP của Ấn Độ, Trung Quốc và
Hàn Quốc
Bảng này cho thấy tỷ trọng dòng luân chuyển so với GDP (thước đo của sự hội
nhập toàn cầu) của Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và khối các nước Châu Á-11.
Giá trị của một dòng tổng sản lượng tương ứng với 100% của GDP trong 1 năm.
Trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2008, tỷ lệ này tăng lên 56 điểm
phần trăm ở Ấn Độ, 30 điểm phần trăm ở Trung Quốc và 69 điểm phần trăm ở
Hàn Quốc, và 45 điểm phần trăm bình qn nói chung ở khối các nước Châu Á11.

14


Nguồn: Datastream

1.2.2 Đo lường bằng sự phát triển thị trường tài chính

Hình 4: Giá trị trung bình của Dorrucci, Meyer-Circel, and Santabarbara
Thước đo của phát triển khu vực tài chính khối Châu Á-11
Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009) báo cáo thước đo phát triển khu
vực tài chính của nhiều nền kinh tế trong nhiều năm. Con số này đưa ra 2 đại
lượng ước tính (đường đứt khúc và đường liền nét) của các nền kinh tế khối Châu
Á-11 trong giai đoạn 1990-2005. Có một sự suy thối khả năng tài chính rất đáng
chú ý của khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2000 trở đi,
chúng ta thấy rõ xu hướng gia tăng trở lại.

Nguồn: Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009) và những tính tốn của tác giả

Biểu đồ hình 4 thể hiện các điểm số trung bình và trung vị của nền kinh tế khối
các nước Châu Á-11 mà Dorrucci, Meyer-Circel và Santabarbara (2009) đã thu
thập được. Trong cả 2 trường hợp chúng ta thấy có một sự tăng trưởng đối với các
hệ thống tài chính phức tạp trước khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á diễn ra,
sau đó là thời kỳ suy thối. Từ năm 2000 trở về sau, cả 2 thước đo đều cho thấy
một xu hướng đi lên.
Bảng 3 cho thấy trị số cụ thể của thước đo này ở Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc
và bình qn nói chung ở khối các nước Châu Á-11. Khối các nước Châu Á-11 đạt
mức đỉnh 0.55 vào năm 1995. Sau cuộc khủng hoảng, chỉ số này giảm mạnh đến
mức 0.45 vào năm 2000. Tuy nhiên năm 2001 khối các nước Châu Á-11 đã trở lại
đúng hướng, đạt được giá trị trung bình là 0.51 vào năm 2006. Điều này cho thấy
rằng kiểm soát danh nghĩa có hiệu quả hơn trong giai đoạn 1998-2004, mặc dù chỉ
số trung bình thể hiện năng lực của hệ thống tài chính vẫn ở mức thấp.

15


Bảng 3: Thước đo năng lực hệ thống tài chính.
Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009) đã đưa ra thước đo phát triển

khu vực tài chính của nhiều nền kinh tế trong vài năm. Bảng này báo cáo các giá
trị của Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và bình qn nói chung ở khối các nước
Châu Á-11. Trong mọi trường hợp đã có nhiều cải tiến tích cực nhưng khiêm tốn
trong giai đoạn 2000-2006. Tuy nhiên Ấn Độ và Trung Quốc vẫn tiếp tục đi sau
mức trung bình của khối các nước Châu Á-11, thậm chí ngay cả những nền kinh tế
tiên tiến như Hàn Quốc cũng bị tụt hậu so với các nền kinh tế của khối OECD
chẳng hạn như Anh.

Nguồn: Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009) và các tính tốn của tác giả.

1.2.3 Đo lường thông qua cơ sở dữ liệu của Lane and Milesi-Ferreti
Hình 5: Biểu đồ đo lường của Lane và Milesi-Ferreti năm 1970 so với năm
2007 của tất cả các nền kinh tế
Biểu đồ thể hiện đồ thị mật độ cốt lõi của thước đo Lane và Milesi-Ferreti đối với
tự do hóa dịng vốn thực tế ở tất cả các nền kinh tế. Đường màu xanh và đỏ tương
ứng với năm 1970 và 2007. Không giống như các kết quả báo cáo trong Hình 1
của thước đo Chinn-Ito về tự do hóa dịng vốn, sự phân bố khơng còn là 2 đỉnh
16


cao nhất: năm 1970 hầu hết các nền kinh tế đều đóng cửa, nhưng đến năm 2007,
xu hướng này đã đảo ngược. Biểu đồ này cho chúng ta thông tin về 11 nước Châu
Á từ cơ sở dữ liệu của Lane and Milesi-Ferreti

Nguồn: Lane and Milesi-Ferreti 2007 và những tính toán của tác giả

Cơ sở dữ liệu cho thấy qua nhiều năm, các nước trên thế giới đều bãi bỏ kiểm sốt
tài khoản vốn. Hình 5 cho thấy đo lường của Lane và Milesi-Ferreti của tất cả các
nền kinh tế. Trái với báo cáo kết quả trong hình 1, mật độ phân bố không phải là 2
đỉnh: tất cả nền kinh tế đã di chuyển từ đóng sang mở cửa ở những cấp độ khác

nhau. Hơn nữa, khơng có sự tập trung nào của các nền kinh tế ở một cấp độ mở
nhất định, cho thấy rằng khơng có một chuẩn mực nào cho cấp độ mở cả. Thực tế
là các nền kinh tế đã tiếp tục tự do hóa một cách nhanh chóng
Hình 6 cho thấy xu hướng trong giá trị trung bình của 11 nước Châu Á giai đoạn
1994-2004 (khơng có số liệu sau năm 2004 ). Tương tự như kết quả báo cáo trong
Hình 6, đường đứt khúc có xu hướng đi lên là do sự xuất hiện của một vài nền
kinh tế nhỏ và lớn bắt đầu thực hiện mở cửa. Vì vậy, đường liền nét cũng thể hiện
một con số có vị trí tương đối tốt hơn. Dãy thời gian của đường liền nét cho thấy
từ sau năm 2000 ít có sự thay đổi nào xảy ra.
Hình 6: Giá trị trung bình của Lane và Milesi-Ferreti đo lường sự hội nhập
thực sự của khối các nước Châu Á-11
Các số liệu của Lane và Milesi-Ferreti (2007) đo lường tài sản và khoản nợ nước
ngoài của nền kinh tế, thể hiện dưới một tỷ lệ GDP. Con số này được thể hiên

17


bằng 2 đại lượng ước tính (đường đứt khúc và đường liền nét) của 11 nuớc Châu
Á qua thời gian. Mặc dù đường đứt khúc thì tăng nhanh, nhưng đường liền nét thì
lại khơng tăng nhiều. Điều này cho thấy một nhóm nhỏ các nền kinh tế đã chủ
động hội nhập với kinh tế thế giới, trong khi những nước khác thì khơng.

Nguồn: Lane and Milesi-Ferreti 2007 và những tính toán của tác giả

Bảng 4: Thước đo của Lane và Milesi-Ferreti
Giá trị trung bình của khối các nước Châu Á-11 chiếm 356% GDP trong năm
2004 phần lớn là do sự xuất hiện của các nền kinh tế vừa và nhỏ như: Hong Kong
và Singapore. Trường hợp các nước như Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc, các
giá trị có mức khiêm tốn hơn tương ứng là 58%, 103%, và 109% GDP. Sự hội
nhập của các nền kinh tế lớn hơn đã làm gia tăng đáng kể giai đoạn 2000-2004,

cụ thể lần lượt là 16%, 18%, 26% và 55%GDP tương ứng với các nước là Ấn Độ,
Trung Quốc, Hàn Quốc và khối các nước Châu Á-11.

18


Nguồn: Lane and Milesi-Ferreti 2007 và những tính tốn của tác giả

Bảng 4 chỉ ra rằng từ sau năm 2000, Ấn độ, Trung Quốc và Hàn Quốc đã tiến một
bước dài trong thực hiện chính sách hội nhập. Trong vịng 7 năm báo cáo của Lane
và Milesi-Ferreti cho thấy rằng mỗi nước đã có sự gia tăng với mức tương ứng lần
lượt là 43, 28 và 56 điểm phần trăm GDP
2. Cơ chế tỷ giá hối đoái
2.1 Bằng chứng về sự linh hoạt tỷ giá của khối Châu Á-11
Chúng ta áp dụng phương pháp luận như đã nêu trên để khảo sát cơ chế tỷ giá thực
tế của khối các nước Châu Á-11. Đối với mỗi nước sự linh hoạt tiền tệ qua chuỗi
thời gian đạt được đã cung cấp những thống kê tóm tắt về tính linh họat của tỷ giá.
Ở Ấn Độ, tháng 3/1993, đồng Rupi bắt đầu thực hiện “cơ chế tỷ giá hối đoái đựợc
điều tiết bởi thị trường”. Tuy nhiên, ngày tháng này đã không được định dạng như
là một sự phân đọan cấu trúc trong phân tích dữ liệu. Thay vào đó là thời kỳ phụ của
cơ chế tỷ giá giai đoạn 1976-1998. Trong suốt thời kỳ này, đồng Rupi trong thực tế
đã được neo vào đồng đô la ở một mức linh hoạt cho phép là R2 là 0.84.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, Ấn Độ bắt đầu neo chặt đồng Rupi vào
đồng đô la. Từ 28 tháng 9 năm 1998 đến 19 tháng 3 năm 2004, hệ số đồng đô la Mỹ
bị đảo ngược thành 1.01. Những hệ số khác thì khơng khơng thay đổi đáng kể. R2
tăng lên 0.97.Suốt thời kỳ này, cơ chế tỷ giá ở Ấn Độ tương tự như của Trung
Quốc thời kỳ sau tháng 7 năm 2005.

19



Bảng 5: Cơ chế tỷ giá thực của Ấn Độ
Phương pháp luận được phát triển bởi by Zeileis, Shah và Patnaik (2008) được
áp dụng để nhận biết ngày tháng của sự phân đoạn cơ cấu trong phương pháp
hồi quy của tỷ giá:

Trong trường hợp của Ấn Độ, ba thời kỳ phụ riêng biệt là bằng chứng. Thời kỳ phụ
đầu tiên và thứ hai thể hiện rõ sự neo tỷ giá vào đồng đô la Mỹ, tuy nhiên sau tháng 3
năm 2004, những đồng tiền khác bắt đầu có vấn đề. Cơ chế tỷ giá hối đoái cố định
được đo bởi R2 của phương pháp hồi quy này. Nó thể hiện giá trị 0.81 ở thời kỳ thứ
ba. Giá trị trong bảng là những sai số cho phép.
Ở thời kỳ cuối, Ấn Độ quay lại cơ chế tỷ giá thả nổi. Những hệ số đối với những
đồng tiền không phải là đô la Mỹ bắt đầu đạt những giá trị hiệu quả. R 2 rớt xuống
còn 0.81. Sự thay đổi trong cơ chế tỷ giá diễn ra vào tháng 3 năm 2004 đạt hiệu quả
cả về tính thống kê và tính kinh tế .

Bảng 6 chỉ ra kết quả của phương pháp ước lượng đối với đồng Nhân dân tệ của
Trung Quốc. Nó thể hiện thời kỳ đầu tiên là từ ngày 9 tháng 1 năm 1981 cho đến
ngày 1 tháng 11 năm 1985. Đây là thời kỳ cơ chế tỷ giá linh hoạt cao hơn so với
những tiêu chuẩn Trung Quốc với R2 ở mức 0.89. Sau đó, Trung Quốc chuyển sang
neo chặt đồng tiền vào đồng đô la Mỹ. Mặc dù có vài thay đổi nhỏ trong cơ chế tỷ
20


giá, cơ bản nó vẫn đơn thuần là một sự cố định đồng tiền với hệ số đồng đô la Mỹ là
1 và R2 ≈ 1
Ở một vài khía cạnh, những kết quả ước lượng này phù hợp với những cơng bố
chính thức và một sự nghiên cứu đơn giản về tỷ giá hối đoái. Phân đoạn vào ngày 22
tháng 7 năm 2005 thời điểm xuất hiện suy thoái phù hợp với cơng bố từ chính
phủ.Vì vậy kết quả đối với Trung Quốc cho thấy phân tích tốn kinh tế đã đi đúng

hướng.
Vào cùng thời điểm, có một điều đáng lưu ý là sau ngày 22 tháng 7 năm 2005,
những thay đổi cơ cấu khơng cịn là bằng chứng cho những phân tích tốn kinh tế
nữa. Điều này mâu thuẫn với những tuyên bố chính thức khác nhau về việc đưa tỷ
giá hối đối từ neo vào đồng đơ la Mỹ chuyển sang neo vào một rổ tiền tệ và phát
triển tỷ giá hối đoái theo hướng ngày càng linh họat hơn.
Bảng 6: Cơ chế tỷ giá hối đoái thực tế của Trung Quốc
Phương pháp luận của Zeileis, Shah và Patnaik (2008) đưa ra một vài thời kỳ nổi
bật của cơ chế tỷ giá hối đoái của Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế là tỷ giá hối
đoái của Trung Quốc vẫn cịn neo vào đồng đơ la Mỹ, tại mọi thời điểm, sự linh
hoạt tỷ giá gần như bằng 0. Giá trị trong bảng là những sai số cho phép.

21


Kết quả hồi quy cho thấy rằng một vài chi tiết đáng chú ý đã thay đổi trong cơ chế
tỷ giá hối đoái phổ biến. Chỉ số đồng US$ rớt xuống còn 0.949. Chỉ số đồng Euro
tăng lên một giá trị nhỏ 0.06, ở mức mà lý thuyết số 0 vơ hiệu khơng cịn ý nghĩa.
Độ lệch tiêu chuẩn cịn lại tăng hơn gấp đôi, lên đến 0.243, nhưng R2 lại giảm nhẹ
xuống còn 0.974. Mặc dù tỷ giá hối đoái đã linh hoạt hơn trong giai đoạn này,
nhưng cơ chế tỷ giá vẫn rất ít thay đổi.
Cuối cùng, Bảng 7 chỉ ra quá trình phát triển của cơ chế tỷ giá hối đoái của Hàn
Quốc. Từ năm 1981 cho đến đầu năm 1995, Hàn Quốc neo tỷ giá vào đồng đô la
Mỹ. Trong năm 1995, tỷ giá đã tăng tính linh hoạt một cách đáng kể và R2 giảm
xuống cịn 0.65. Cơ chế tỷ giá hối đối này thậm chí cịn linh hoạt hơn cơ chế của
Ấn Độ.
Bảng 7: Chế độ tỷ giá hối đoái thực tế của Hàn Quốc
Ứng dụng cho Hàn Quốc, phương pháp luận của Zeileis, Shah và Patnaik (2008)
đưa ra 2 thời kỳ. Từ năm 1981 đến đầu năm 1995. Cơ chế tỷ giá hối đối gắn liền
với đơ la Mỹ. Sau đó, cơ chế tỷ giá hối đoái thay đổi đáng kể, R2 giảm xuống còn

0.65. Giá trị trong bảng là những sai số cho phép.

22


Hình 7: Sự phát triển của cơ chế tỷ giá hối đoái ở Châu Á
Phương pháp luận của Zeileis, Shah và Patnaik (2008) được ứng dụng cho mỗi
nền kinh tế trong khối Châu Á-11. Đồ thị này cho thấy cơ chế tỷ giá hối đoái phổ
biến tại những thời điểm khác nhau. Giá trị R2 của tất cả các nền kinh tế được
tóm tắt trong đồ thị này. Hai đại lượng ước lượng, giá trị trung bình và trung vị,
được sử dụng. Tài liệu này sẽ tóm tắt cho chúng ta thấy rằng sự linh hoạt của tỷ
giá hối đoái ở châu Á thay đổi như thế nào qua thời gian. Đồ thị này cho thấy rõ
rằng cơ chế tỷ giá hối đối là hồn tồn cố định trong thập niên trước khi xảy ra
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, cơ chế này cũng chính là một nhân tố quan
trọng đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng. Calvo and Reinhart (2002) chỉ ra
rằng, ngay sau cuộc khủng hoảng, tỷ giá có linh hoạt hơn trong một thời gian
ngắn, nhưng sau đó “nỗi sợ thả nổi” lại trở lại. Tuy nhiên, đồ thị này cũng chỉ
ra rằng, cơ chế tỷ giá hối đoái cố định ở châu Á đã khơng trở lại mức như trước
khi có khủng hoảng. Mặc dù Dooley, Folkerts-Landau và Garber (2003) nhấn
mạnh sự kiện Châu Á đi tiên phong thực hiện chế độ “Bretton Woods II”, nhưng
trong suốt thập niên vừa qua, tỷ giá hối đối ở Châu Á đã giảm dần tính cứng
nhắc.

23


Hình 7 biểu diễn giá trị trung bình và giá trị trung vị của R2 đối với 11 nền kinh
tế Châu Á. Tại mỗi thời điểm với mỗi quốc gia, cơ chế tỷ giá hối đoái được xác
định và giá trị R2 từ thời điểm đó được sử dụng.
Giá trị trung bình của R2 bắt đầu với trị số cao là 0.9. Trong năm 1980 và 1981

đã có sự tăng nhẹ tính linh hoạt của tỷ giá hối đối. Tuy nhiên, tỷ giá hối đối cố
định vẫn được duy trì trong giai đoạn này. Từ năm 1982 đến 1997, giá trị trung
bình của R2 đã cao hơn mức 0.9. Cơ chế tỷ giá hối đoái cố định này, kết hợp với
sự gia tăng tự do hóa dịng vốn, đã góp phần tạo ra khủng hoảng tài chính Châu
Á, mà nguyên nhân là do các doanh nghiệp và ngân hàng vay nợ bằng ngoại tệ
dựa trên sự kỳ vọng về việc cố định tỷ giá hối đối của chính phủ.
Trong suốt cuộc khủng hoảng, sự linh hoạt của tỷ giá hối đối gia tăng. Năm
1998, giá trị trung bình của R2 giảm xuống cịn 0.61. Tuy nhiên, lập tức ngay sau
đó, cơ chế cố định tỷ giá hối đoái đã được thiết lập lại. Thực tế này đã được làm
sáng tỏ bởi Calvo and Reinhart (2002), người đã nhấn mạnh rằng sau khủng
hoảng, có sự thay đổi nhỏ trong cơ chế tỷ giá hối đoái ở Châu Á. Viễn cảnh này
đã được phóng đại hơn bởi lý thuyết “Bretton Woods II”, nó cố gắng hợp lý hố
sự cứng nhắc của tỷ giá hối đoái (Dooley, Folkerts-Landau và Garber (2003)).
Bằng chứng chúng tơi đưa ra một tình hình khác biệt một chút ở 2 khía cạnh.
Đầu tiên, mặc dù sự cứng nhắc của tỷ giá hối đoái ở 11 nền kinh tế Châu Á gia
tăng sau khi cuộc khủng hoảng lắng xuống, nhưng nó vẫn ở mức thấp so với giai
đoạn trước khủng hoảng. Giá trị trung bình R2 ở mức 0.93 năm 1997; hậu khủng
hoảng, R2 giảm xuống còn 0.88 trong giai đoạn 2002-2004.

24


Sự quan sát thú vị thứ hai đó là từ năm 2002, sự linh hoạt của tỷ giá hối đoái ở
11 nền kinh tế Châu Á đã tăng lên từ từ. Nghĩa là giá trị R2 giảm nhẹ từ mức
0.88 giai đoạn 2002-2004 xuống còn 0.85 trong năm 2009. Điều này cho thấy
rằng mặc dù 11 nước Châu Á vẫn tiếp tục theo đuổi tỷ giá hối đoái cố định
nhưng đã chuyển hướng dần đến sự linh hoạt hơn. Với giá trị R2 là 0.85 trong
năm 2009 đã cho thấy tình hình đã trở nên sáng sủa hơn so với giá trị 0.93 của
năm 1997.


PHẦN 4: KẾT QUẢ & CÁC ĐỀ XUẤT
1. Các kết quả
Châu Á và “Bộ ba bất khả thi”

25


×