Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN : THUẾ ĐÁNH VÀO TIẾT KIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.11 KB, 23 trang )

Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA THẠC SỸ
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI : THUẾ ĐÁNH VÀO TIẾT KIỆM
GVHD : PGS.TS. Nguyễn Ngọc
Hùng
NTH : Nhóm 5
Lớp : K20Đêm1
-TP HCM, Tháng 02 năm 2012-
Page 1
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
MỤC LỤC
PHẦN I : LỜI MỞ ĐẦU 3
PHẦN II : NỘI DUNG 4
I.Thuế và tiết kiệm –Mô hình và lý thuyết minh chứng: 4
1.Lý thuyết truyền thống : 4
2.Minh chứng : Lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm : 4
3.Lạm phát và thuế tiết kiệm : 4
II.Mô hình tiết kiệm khác : 6
1.Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro: 6
2.Mô hình tự kiểm soát: 8
III.Chính sách khuyến khích của thuế đối với tiết kiệm hưu trí 10
1.Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí : 10
2.Hiệu ứng lý thuyết đến tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế 19
PHẦN III - KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
Page 2
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
PHẦN I : LỜI MỞ ĐẦU
Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập cá nhân sau khi đã trừ đi tiêu dùng


hiện tại. Việc tiết kiệm của người dân là nguồn vốn cho sự phát triển của đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc này, các nhà hoạch định chính sách trên
tòan thế giới đã trở nên ngày càng quan tâm trong việc phát triển chiến lược hiệu
quả để khuyến khích tiết kiệm. Quan tâm này đã trở thành đặc biệt nghiêm trọng
tại Hoa Kỳ, nơi có tỷ lệ tiết kiệm hiện nay rất thấp. Những lo lắng về tiết kiệm
thấp đã dẫn đến một loạt cách chính sách được thiết kế để kích thích tiết kiệm
thông qua hệ thống thuế.
Việc có nên đánh thuế vào tiết kiệm hay không, cách đánh như thế nào còn là
vấn đề còn đang được tranh luận. Đã có nhiều câu hỏi được đặt ra : Liệu cấu trúc
thuế thu nhập có làm giảm khối lượng tiết kiệm của người dân hay không ? Chính
phủ có nên sử dụng luật thuế để khuyến khích người dân tíêt kiệm hơn ? Nếu có,
các khuyến khích nên được cấu trúc như thế nào ?
Đề tài này giới thiệu nguyên cứu các quyết định tiết kiệm. Quy mô tiết kiệm
của xã hội sẽ làm cho vốn của nền kinh tế dồi dào hơn và điều này là yếu tố then
chốt của tăng trưởng kinh tế. Do vậy một trong những các tranh luận chính sách ở
Mỹ và thế giới là vai trò thích hợp của thuế đánh vào thu nhập từ vốn, tức là thuế
đánh trên sự sinh lợi của tiết kiệm. Còn đối với Việt Nam về vấn đề này thì sao,
đang nghiên cứu, đã áp dụng hay không phù hợp với nền kinh tế. Bài tiểu luận này
cũng sẽ giới thiệu sơ nét thêm về vấn đề trên.
Page 3
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
PHẦN II : NỘI DUNG
I. Thuế và tiết kiệm –Mô hình và lý thuyết minh chứng:
1. Lý thuyết truyền thống :
Trong lý thuyết truyền thống về tiết kiệm, vai trò của tiết kiệm là ổn định tiêu
dùng. Một cá nhân có nhiều thu nhập hơn khi đi làm và có ít thu nhập hơn khi
nghỉ hưu. Bằng việc giảm chi tiêu trong những lúc thu nhập cao và tăng chi tiêu
trong những lúc thu nhập nhận được thấp, tiết kiệm thể hiện vai trò ổn định hóa
tiêu dùng.
Mô hình lựa chọn theo thời gian: việc lựa chọn số lượng tiết kiệm chính là

lựa chọn cách thức phân bổ tiêu dùng cá nhân theo thời gian. Tiết kiệm chính là
phần còn lại của thu nhập cá nhân sau khi đã trừ đi tiêu dùng hiện tại.
2. Minh chứng : Lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm :
Không giống như lý thuyết thực nghiệm về cung lao động, có ít sự đồng
tình về tác động của thuế hay tác động của lãi suất đến các quyết định tiết kiệm.
Các ước lượng về độ co giãn của tiết kiệm với lãi suất sau thuế nằm trong
khoảng 0 đến 0,67.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lãi suất sau thuế và tiết kiệm là một vấn đề
khó khăn. Xác định mức lãi suất hợp lý để áp dụng là rất khó khăn, bởi vì: chúng
ta có thể dễ dàng đo lường tiền lương của một công nhân nào đó nhưng rất khó để
đo lường mức lãi suất thỏa đáng của một người tiết kiệm nào đó. Bên cạnh đó, lãi
suất của bất kỳ dạng tiết kiệm nào cũng thay đổi theo thời gian với cách thức như
nhau cho tất cả mọi người. Ngoài ra, sự co giãn của tiết kiệm theo lãi suất sau thuế
là tham số quyết định đối với các nhà phân tích chính sách.
3. Lạm phát và thuế tiết kiệm :
Sự trườn lên ngưỡng đánh thuế (bracket creep): cá nhân có thể cảm nhận
được sự tăng lên của thuế suất mặc dù thu nhập thực (theo đồng đô la cố định) của
họ không hề tăng.
Page 4
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
Năm Thu nhập Mức thuế Thuế phải
trả
Thu nhập
sau thuế
1979 16.500 $ 21% 2.370$ 14.130$
1980 19.365 $ 24% 2.815 $ 15.550 $
 Thu nhập tăng lên trong năm 1980 vừa đủ để loại trừ 11,3% tỷ lệ lạm phát
của năm đó, do vậy thu nhập thực (lượng hàng hóa mà người đó có thể thu được
với thu nhập danh nghĩa) là không đổi.
 Thu nhập sau thuế chỉ tăng 10% trong khi đó giá cả tăng 11,3%. Bởi vì cơ

sở đánh thuế là cố định nên tiền lương tăng với mức quá nhỏ theo đà lạm phát.
 Hướng giải quyết: điều chỉnh cơ sở đánh thuế với thu nhập thường xuyên,
thuế suất biên đặt trên cơ sở thu nhập thực, không phải trên cơ sở thu nhập danh
nghĩa.
Lạm phát và thuế vốn: điều chỉnh theo giá cả đối với cơ sở đánh thuế cũng
chưa chắc hoàn toàn loại trừ tác động của lạm phát bởi vì quy định đối với thuế
thu nhập trên vốn vẫn giữ không đổi.
Tình
huống
Tỷ lệ
lạm
phát
Thuế
suất
đ/v
tiền lãi
Tiết
kiệm
Lãi
suất
danh
nghĩa
Tiền
lãi
Tổng
nguồn
lực sau
thuế
Giá
mỗi

túi
không
khí
Số
lượng
túi
không
khí
Không
có lạm
0% 0% 100 10% 10 110 1,0 110
0% 50% 100 10% 10 105 1,0 105
Lạm
phát
10% 0% 100 10% 10 110 1,1 100
10% 50% 100 10% 10 105 1,1 95,5
Lãi
suất
10% 0% 100 21% 21 121 1,1 110
10% 50% 100 21% 21 110,5 1,1 100,5
* Dòng đầu tiên không có lạm phát
Page 5
Lãi suất thực (r) = Lãi suất danh nghĩa (i) – tỷ lệ lạm phát
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
- Không có thuế , số túi xách là 110
- Với đánh thuế 50% , chỉ mua 105 túi xách
* Dòng thứ hai, lạm phát bằng lãi suất danh nghĩa tức lãi suất thực bằng 0
- Với lạm phát nhưng không có đánh thuế , mua được 100 túi xách.
- Với lạm phát và thuế , mặc dù sức mua không thay đổi , đánh thuế
vào tiền lời danh nghĩa thì chỉ mua được 95,5

* Dòng thứ 3, nếu như tỷ lệ danh nghĩa điều chỉnh theo lạm phát (đến 21
%), nếu không có đánh thuế, lạm phát sẽ không bào mòn sức mua của tiêt kiệm .
Vấn đề trong dòng thứ hai và thứ ba, có đánh thuế, là đánh vào tiền lời
thực, chứ không phải là danh nghĩa. Các cá nhân, khi quyết định tiết kiệm, quan
tâm đến lãi suất thực.
Bởi vì thuế đánh vào tiền lời danh nghĩa, ảnh hưởng của lạm phát đến thuế
vẫn còn đáng kể.
Trên thực tế, lạm phát tăng sẽ làm giảm thu nhập thực sau thuế từ tiết kiệm.
II. Mô hình tiết kiệm khác :
Trong phần trên, chúng ta đã thấy rõ động cơ tiết kiệm chỉ là mong muốn ổn
định tiêu dùng theo thời gian. Phần này, chúng ta xem một số dẫn chứng các mô
hình khác với các giả định trên trong thực tế hiện nay.
1. Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro:
Ở Việt Nam hay ở nước ngoài, khi được hỏi về lý do tiết kiệm, câu trả lời
nhận được nhiều nhất, bên cạnh việc tiết kiệm cho thời gian hưu trí, là việc để
dành cho những “tình huống khẩn cấp”, như khi mất việc làm hay gặp vấn đề về
sức khỏe. kết quả này dẫn đến hình thành mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro.
Một yếu tố khác xác định tiết kiệm chính là họ muốn sử dụng tiết kiệm để bảo
hiểm cho những cú sốc bất lợi về tài chính. Cũng giống như việc sử dụng tiết kiệm
để ổn định tiêu dùng theo thời gian, tiết kiệm cũng có thể được sử dụng để ổn định
tiêu dùng trước sự thay đổi của thế giới hiện thực.
Page 6
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
Trong mô hình này, cá nhân phải đối mặt với những rủi ro từ những cú sốc
bệnh tật (ví dụ như một cơn đau tim), thất nghiệp, ly dị Mô hình này giả định
rằng cá nhân không có khả năng vay mượn nếu họ gặp phải những cú sốc vì họ
phải đối mặt với giới hạn thanh khoản (liquidity constrians), những rào cản khi
vay mượn. Giới hạn thanh khoản có thể do bởi ngân hàng không muốn cho vay
với khách hàng đang bệnh nặng hay là những khách hàng vừa mới mất việc làm.
Kết quả là cá nhân phải tự mình để dành từ việc tiết kiệm phòng khi những cú sốc

bất lợi xảy ra, do vậy cá nhân có thể ổn định tiêu dùng trong cuộc sống của mình.
Mong muốn để dành còn có lý do khác, ngoài việc ổn định theo thời gian, khiến cá
nhân tiết kiệm.
Minh chứng về mô hình phòng ngừa rủi ro:
Ở Việt Nam chúng ta dễ dàng thấy được việc nhiều gia đình có thói quen dự
trữ tiền mặt tại gia đình hơn là mang đi đầu tư hay gửi ngân hàng. Đó cũng là do
dịch vụ từ hệ thống ngân hàng chưa được rộng rãi, chưa được thuận tiện cho việc
rút tiền, nhất là ở các vùng nông thôn. Các rủi ro trong xã hội còn cao, chất lượng
từ các dịch vụ công cộng còn yếu như y tế, giáo dục, giao thông ví dụ như chúng
ta thường xuyên rút tiền rất nhiều vào dịp lễ, Tết dù rằng chi tiêu không sử dụng
hết số tiền đó vì các máy ATM thường xuyên hết tiền, ngân hàng đóng cửa không
hoạt động, hay đi ra ngoại thành khó tìm được nơi rút tiền,
Một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm kiểm định mô hình phòng ngừa
rủi ro, kết quả cho thấy khi sự bất trắc tăng lên sẽ dẫn đến tiết kiệm tăng, sự bất
trắc giảm đi sẽ làm cho tiết kiệm giảm. Một số nghiên cứu khác lại cho thấy việc
mở rộng các chương trình bảo hiểm xã hội nhằm làm giảm sự bất định thu nhập
cũng sẽ làm giảm tiết kiệm, và kết quả nhận được là phù hợp với quan điểm cho
rằng tiết kiệm có động cơ từ việc phòng ngừa rủi ro.
Page 7
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
2. Mô hình tự kiểm soát:
Một số ý kiến khác về quyết định tiết kiệm được xây dựng trên kiểu mô hình
tự kiểm soát. Trong mô hình này, cá nhân sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa
sự ưa thích có hại trong ngắn hạn (tôi cần hút thuốc hôm nay) và sự ưa thích có hại
có lợi trong dài hạn (ngày mai tôi sẽ bỏ thuốc lá). Vấn đề tự kiểm soát cũng có thể
áp dụng với việc tiết kiệm. sự ưa thích có lợi của cá nhân trong dài hạn là việc
đảm bảo có đủ tiền tiết kiệm để ổn định tiêu dùng suốt đời, nhưng sự ưa thích bất
lợi trong ngắn hạn có thể dẫn đến việc họ tiêu dùng toàn bộ thu nhập của mình và
không tiết kiệm đủ cho giai đoạn tương lai. Trong mô hình này, yếu tố chủ yếu để
xác định hành vi tiết kiệm là khả năng của cá nhân trong việc tìm ra cách thức tự

mình tiết kiệm, để dành thu nhập ngoài phạm vi “tự thỏa mãn trong ngắn hạn”.
Minh chứng mô hình tự kiểm soát:
Ngày nay có nhiều minh chứng về tính phù hợp của mô hình tiết kiệm tự
kiểm soát. Cá nhân với vấn đề tự kiểm soát phải cần đến những công cụ có thể tin
tưởng để giúp họ tự kiểm soát. Các công cụ này cũng phổ biến trong khía cạnh tiết
kiệm.
Ví dụ cổ điển ở Việt Nam chính là phong trào “hũ gạo thời kháng chiến”,
mỗi gia đình tiết kiệm 1 nắm gạo trong mỗi bữa ăn để tạo ra một lượng lương thực
lớn cho xã hội. Hay ví dụ các chiêu thức khuyến mãi “họ không mua cái chai, họ
sẽ mua cái lọ” của các siêu thị khi nắm rõ tâm lý thích đi mua sắm của người dân
thường đưa các quảng cáo khuyến mại rầm rộ một vài loại hàng hóa để thu hút
khách hàng đến với mình, dần dần người dân trước cơn bão giá của thời lạm phát
cũng hiểu ra và đang thay đổi thói quen mua sắm của mình.
Minh chứng khác nữa là việc tích lũy tài sản ở Mỹ, với đặc điểm rất lạ: cá
nhân có tiết kiệm đáng kể ở những dạng rất khó tiếp cận (các tài khoản mua nhà
hưu trí) nhưng lại tiết kiệm rất ít ở các dạng dễ tiếp cận hơn, như ở tài khoản phát
hành séc. Khó hiểu hơn, rất nhiều người để tiền tiết kiệm dưới dạng khó tiếp cận
như các tài khoản hưu trí với lãi suất khá bình thường (5% và thậm chí thấp hơn),
Page 8
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
trong khi đó đồng thời lại vay tiền từ thẻ tín dụng với lãi suất cao (10% và thậm
chí cao hơn). Trong mô hình tiêu chuẩn, cá nhân sẽ tự làm cho mình tốt hơn bằng
việc tiết kiệm ở mức ít hơn với lãi suất 5% nhằm không phải đi vay với lãi suất
10%. Thực tế này không thực sự phù hợp với mô hình tự kiểm soát: người ta sẽ lo
lắng về việc có tiền trong tay, bởi vì họ sẽ tiêu xài nó một cách nhanh chóng,
nhưng nếu họ có công cụ có thể tin tưởng được để giữ tiền khỏi tầm tay thì tiền sẽ
được tiết kiệm. Do vậy, cá nhân có thể thành công trong việc tiết kiệm ở dạng như
bỏ tiền vào tài khoản hưu trí hay tài khoản mua nhà, nhưng họ không thể thành
công khi tiết kiệm ở dạng mà họ có thể chạm tay vào tiền của mình.
Cuối cùng, minh chứng rất thuyết phục về mô hinh tự kiểm soát là thử

nghiệm của Richard Thaler và Shlomo Benartzi (2004). Hai nhà kinh tế ngày đưa
ra kế hoạch tiết kiệm hưu trí duy nhất dành cho người lao động ở một nhà máy
quy mô vừa. Với kế hoạch “tiết kiệm nhiều hơn ngày mai”, người lao động cam
kết giành một phần trong sự tăng lên của thu nhập tương lai để vào tiết kiệm hưu
trí. Người lao động được quyền chọn lựa tiết kiệm theo cam kết sớm hơn, trước
khi tiền lương mà họ được trả tăng lên nhằm làm cho quyết định này bớt khó khăn
hơn. Khi người lao động tham gia, đóng góp của họ vào kế hoạch tiết kiệm tăng
lên mỗi khi tiền lương mà họ nhận được tăng lên.
Kế hoạch này không có gì hấp dẫn đối với người tiết kiệm dựa trên lý trí
trong mô hình tiêu chuẩn về tiêu dùng theo thời gian. Họ có thể tiết kiệm tùy thích
từ thu nhập, cho nên không cần thiết phải có sự cam kết trước theo một kế hoạch
tiết kiệm cố định. Nói cách khác, dường như không có lý do gì để hạn chế hành vi
từ cách làm này. Nếu một người lao động không có lý do gì để hạn chế hành vi từ
cách làm này. Nếu một người lao động muốn chia sẽ một phần thu nhập tăng thêm
trong tương lai, họ đơn giản sẽ làm được một khi thu nhập của họ tăng lên. Nhưng
kế hoạch nói trên, chính là một điều hấp dẫn lớn đối với những người phải đối mặt
với vấn đề tự kiểm soát, những người mong muốn giữ một phần trong thu nhập
tăng thêm ở tương lai ngoài tầm tay nhằm hạn chế sự thỏa mãn bất lợi trong ngắn
hạn. các cá nhân với vấn đề tự kiểm soát e ngại rằng nếu họ không cam kết tiết
Page 9
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
kiệm phần thu nhập tăng thêm từ bây giờ thì khi thu nhập thực sự tăng lên, họ sẽ
chi tiêu hết vào thỏa mãn sở thích ngắn hạn không có lợi. Thực tế, khi kế hoạch
tiết kiệm này được đưa ra, 78% số người lao động được mời đã quyết định tham
gia và 80% số người tham gia vẫn còn tham gia kế hoạch sau bốn lần tăng lương.
Cụ thể hơn, tỷ lệ tiết kiệm của những người tham gia kế hoạch này nhảy từ 3,5%
lên mức 13,6% sau 40 tháng. Vấn đề tiết kiệm theo cam kết vốn dĩ vô ích trong
mô hình tiêu chuẩn giờ đây lại tác động lớn đến hành vi tiết kiệm; một lần nữa
phù hợp với quan điểm cho rằng người lao động phải đối mặt với vấn đề tự kiểm
soát về hành vi tiết kiệm.

III. Chính sách khuyến khích của thuế đối với tiết kiệm hưu trí
1. Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí :
1.1. Trường hợp nghiên cứu điển hình: Quốc gia Mỹ
Như phần trên đã trình bày, người lao động (và cả người chủ lao động) có
hai mốc thời kỳ chính trong cuộc đời: (i) khoản thời gian lao động, là thời gian cá
nhân đó có thu nhập cao hơn và (ii) khoản thời gian nghỉ hưu, là thời gian cá nhân
đó có thu nhập thấp hơn hoặc trong một số trường hợp là không có thu nhập. Do
đó, người lao động có xu hướng tiết kiệm trong thời gian còn làm việc để có thể
làm tăng thu nhập trong lúc hưu trí của họ. Tuy nhiên, nếu chính phủ đánh thuế
trên tiền lãi phát sinh có thể ảnh hưởng đến quyết định của cá nhân đó trong việc
giảm đi các khoản tiết kiệm này.
Từ đó, các quốc gia trên thế giới thường đưa ra những chính sách nhằm
khuyến khích người dân không thay đổi các quyết định tiết kiệm của mình vì tính
chất đặc biệt của những khoản tiết kiệm này so với các loại tiết kiệm thông thường
khác (do chúng có những tác động có thể ảnh hưởng đến nỗ lực ổn định về mặt xã
hội của chính phủ quốc gia đó).
Điển hình ở Mỹ, các nhà chính sách của Mỹ đã đưa ra những tài khoản và
quỹ đặc biệt được thiết kế nhằm trợ cấp về thuế đối với tiết kiệm hưu trí của người
dân. Đặc điểm chung của các chính sách trợ cấp này là tất cả tiền lãi phát sinh từ
Page 10
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
các tài khoản, quỹ này đều không phải chịu thuế. Thay vào đó, người chủ tài
khoản (người lao động) sẽ phải trả thuế lúc anh ta nhận tiền khi về hưu như là
những khoản thu nhập thường xuyên.
a. Quỹ tiền hưu
Đây là một kế hoạch hưu trí mà các công ty chịu trách nhiệm về sự đóng góp
vào quỹ hưu bổng do công ty quản trị. Đây là một phần của phúc lợi (benefits) do
công ty cung cấp cho nhân viên, và đây cũng là một phương thức giữ chân nhân
viên cho đến ngày về hưu. Trong trường hợp này, nhân viên có thể không phải
đóng góp gì cả hay chỉ đóng góp một phần, do đó gánh nặng tiết kiệm sẽ được

giảm đi. Nhưng có những điểm bất lợi sau đây:
• Nhân viên không quyết định được số tiền đóng góp vào quỹ hưu bổng
vì công ty có thể thay đổi phần đóng góp dễ dàng và có thể bỏ luôn quỹ này.
• Nhân viên không kiểm soát được việc quản trị quỹ này. Quản trị viên
quỹ này do công ty bổ nhiệm và nếu kém khả năng thì có thể làm cho quỹ thâm
thủng hay không sinh lợi như mong muốn.
• Công ty thường ấn định một số năm tối thiểu để nhân viên có thể
hưởng được hưu bổng (vested interest), thí dụ 10 năm. Nếu nhân viên rời công ty
trước thời hạn này thì không được hưởng gì cả, ngoài số tiền nhân viên đóng góp
vào. Nhiều công ty có thể tìm cách sa thải nhân viên trước thời hạn để khỏi trả hưu
bổng.
• Với sự hợp nhất công ty (merging) hiện trở nên thịnh hành, công ty có
thể sáp nhập vào một công ty khác. Công ty mới thường sa thải bớt nhân viên.
Nhân viên bị sa thải vừa mất việc làm vừa mất luôn quyền được hưởng hưu bổng.
b. Tài khoản 401 (k) hay còn được gọi là Quỹ hưu trí 401(k)
Quỹ hưu trí 401(k) là một hình thức bù đắp công lao của người lao động khi
chủ hãng mở một quỹ hưu mang tên người lao động và đều đặn bỏ vào quỹ một
phần lương chưa đóng thuế của người này. Với chương trình trợ giúp hưu trí 401
(k), người công nhân không phải đóng thuế tạm thu trên phần lương bỏ vào quỹ vì
Page 11
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
số tiền này không ghi trên bảng lương, nhưng họ phải đóng thuế An Sinh Xã Hội
(FICA) và Y Tế trên nguồn lợi tức trích bỏ vào quỹ hưu 401(k).
Số tiền người công nhân có thể quyết định để dành trong loại quỹ hưu này
được ấn định mức giới hạn. Trong năm 2004, mỗi người lao động được quyền bỏ
vào quỹ hưu 401(k) với mức cao nhất là $13,000 cho phần đóng góp của họ.
Trường hợp người công nhân chọn quỹ hưu trí SIMPLE 401 (k) để bỏ tiền hưu
trích từ lương của họ, mức cao nhất cho năm 2004 người này có thể đóng góp vào
quỹ hưu này là $9,000. Cả hai mức giới hạn sẽ tăng hay giảm theo tỉ lệ lạm phát.
Ngoài ra, từ độ tuổi 50 trở đi, người công nhân tham gia chương trình hưu trí 401

(k) có thể để dành nhiều tiền hơn vào quỹ hưu trí; số tiền để dành nhiều hơn ở độ
tuổi này gọi là “catch-up contributions” có thể lên đến $3,000 cho năm 2004, hay
$1,500 đối với quỹ hưu SIMPLE 401 (k).
Nói chung, phần đóng góp của người lao động vào tất cả các quỹ hưu từ tiền
lương chưa đóng thuế phải được cân nhắc để không vượt quá mức giới hạn
$13,000. Đồng thời, tất cả các khoản tiền bỏ vào tất cả các quỹ hưu của người
công nhân, gồm các chương trình hưu bằng tiền lương chưa đóng thuế, sẽ phải
theo quy định của các mức gia hạn mở rộng (additional limits, increased limits).
Người nhận tiền phân phối từ quỹ hưu 401 (k) có thể chọn cách rút tiền một
lần (lump-sum distribution treatment) hoặc cách chuyển tiền sang một quỹ hưu
khác nếu họ có đủ tiêu chuẩn quy định.
Có nhiều quỹ hưu cho phép người chủ sở hữu được rút tiền dành dụm trong
quỹ hưu để giải quyết hoàn cảnh khó khăn của họ khi cần thiết. Tiền rút ra từ quỹ
hưu 401 (k) trong những tình huống khó khăn được giới hạn ở mức đóng góp của
người chủ sở hữu của quỹ hưu này, không kể phần lãi phát sinh từ số tiền dành
dụm bỏ vào quỹ. Trong trường hợp như vậy, các khoản tiền rút ra không được
xem như các khoản tiền mượn tạm trong vòng 60 ngày hay tiền chuyển từ quỹ hưu
này sang quỹ hưu khác.
Tiền hưu được phân phối cho người chủ sở hữu trước khi được 59 tuổi rưỡi
là tiền hưu non, khi đó, người chủ sở hữu quỹ hưu phải đóng phạt. Mức phạt cho
Page 12
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
các khoản tiền hưu non là 10% ngoài các khoản thuế phải đóng trên khoản lợi tức
này. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ sẽ không phải đóng phạt.
Tất cả các quy định cũng như các tiêu chuẩn, điều kiện về việc mở và duy trì
các quỹ hưu trí dành cho người chủ lao động hay người lao động đều được chi tiết
hóa trong các ấn bản (publication) 525 – Lợi tức phải đóng thuế và Lợi tức không
phải đóng thuế (Taxable and Nontaxable Income); hay 560 – Quỹ Hưu Cho Các
Cơ Sở Kinh Doanh Nhỏ (Publication 560 – Retirement Plans for Small Business);
hay 575 – Thu Nhập Từ Quỹ Hưu Trí và Lợi Tức Hằng Năm, phần “Lump-Sum

Distributions” (Publication 575 – Pension and Annuity Income).
c. Tài khoản hưu trí cá nhân (IRAs) hay còn được gọi là Quỹ Hưu trí cá
nhân
Quỹ hưu trí 401(k) hoặc trợ cấp thuế cũng có những hạn chế nếu người lao
động không được người sử dụng lao động cung cấp tiền hưu trí. Năm 1974, Quốc
hội Mỹ đưa ra một kế hoạch tiết kiệm hưu trí cá nhân khác, mang tên IRA
(Individual Retirement Arrangement – Quỹ Hưu trí Cá nhân).
Có hai loại IRA chính: Quỹ hưu trí cá nhân thông thường (traditional IRAs)
và Roth IRAs. Cả hai loại này đều cho phép người sở hữu quỹ đóng quỹ năm đến
4.000 USD trong 2005 đến 2007. Nhìn chung, cá nhân phải có số tiền hoàn thuế ít
nhất bằng với số tiền đóng quỹ vào IRA. Tuy nhiên, nếu cá nhân đó đã lập gia
đình và cả hai cùng tham gia IRA, chồng/vợ có thể cùng đóng quỹ vào dù họ
không có các đền bù hoàn thuế.
Theo Luật định, các cá nhân đóng thuế tuổi 50 trở lên có thể chọn đóng quỹ
IRA theo cách “tăng cường”, nghĩa là đóng 4.500 USD trong năm 2005. Sau đó
tăng lên 5.000 USD vào năm 2006 và 2007 (6.000 USD mỗi năm sau 2008).
* Quỹ hưu trí cá nhân thông thường (traditional IRAs)
Trên thực tế. bất kỳ cá nhân nào cũng có thể mở trương mục và đóng quỹ
vào Quỹ hưu trí cá nhân thông thường với điều kiện ở độ tuổi dưới 70 tuổi rưỡi và
Page 13
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
có các khoản đền bù hoàn thuế. Cá nhân có thể đóng quỹ mức tối đa được cho
phép mỗi năm nếu như số tiền hoàn thuế trong năm đó thỏa mãn yêu cầu. Trong
trường hợp số tiền hoàn thuế trong năm đó thấp hơn mức quy định thì cá nhân đó
chỉ có thể đóng quỹ một số tiền tương ứng với thu nhập của mình.
Thuế năm 2005
Đối với Cá Nhân dựa trên Kế hoạch lao động
Tình trạng
Khấu trừ được giới
hạn nếu MAGI ở vào

khoảng:
Không khấu trừ nếu
MAGI vượt quá:
Độc thân 50.000 – 60.000 USD 60.000 USD
Kết hôn 70.000 – 80.000 USD 80.000 USD
Đã kết hôn nhưng ly
thân
0 – 10.000 USD 10.000 USD
*MAGI: Thu nhập bình quân hiệu chỉnh
Các khoản đóng quỹ của chủ sở hữu Quỹ hưu trí cá nhân thông thường có
thể được trừ vào thu nhập trước thuế. Điều này rất quan trọng vì các khoản đóng
quỹ được trừ vào thu nhập trước thuế sẽ giúp giảm con số thu nhập phải đóng thuế
và do đó sẽ tiết kiệm được cho người lao động rất nhiều từ tiền thuế thu nhập.
Nếu cá nhân muốn rút tiền từ Quỹ hưu trí cá nhân thông thường trước 59 tuổi
rưỡi và không nằm trong diện đặc cách, người đó sẽ bị đánh thuế thu nhập trên
những khoản rút ra và sẽ phải trả 10% phí rút trước hạn. Nếu bất kỳ số tiền trong
quỹ được đem ra đầu tư và nhận được lợi nhuận cũng sẽ bị đánh thuế.
Nếu muốn trì hoãn việc đóng thuế, người chủ sở hữu quỹ có thể gửi tiền quỹ
của mình vào Quỹ hưu trí cá nhân thông thường, nhưng sẽ chỉ đến ngày 01/04 của
một năm sau năm cá nhân dó được 70 tuổi rưỡi. Đây là thời điểm người chủ sở
hữu quỹ nhận được khoản phân phối bắt buộc đầu tiên từ IRA. Sau đó, cá nhân đó
sẽ nhận được số tiền này đều đặn mỗi năm cho đến khi qua đời hoặc hết nguồn
quỹ. Số tiền hàng năm cá nhân nhận được dựa trên bảng kế hoạch tiêu chuẩn sống
Page 14
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
của bản thân. Người đó có thể rút một số lượng tiền mỗi năm lớn hơn nếu có nhu
cầu. Tuy nhiên, nếu rút thấp hơn sẽ hịu phạt 50% của khoản chênh lệch giữa số
tiền được rút và số tiền giới hạn ít nhất có thể rút.
* Roth IRA
Không phải bất kỳ ai cũng có thể tham gia Roth IRA. Và ngay cả khi được

tham gia, người đó vẫn có thể không có đủ điều kiện để tận dụng triệt để dịch vụ
này.
Yêu cầu đầu tiên của Roth IRA là cá nhân phải có các khoản hoàn thuế. Nếu
các khoản hoàn thuế thấp hơn 4.000 USD (từ 2005 đến 2007), cá nhân đó có thể
đóng quỹ toàn bộ 4.000 USD này vào chương trình. Tuy nhiên, thực hiện được
điều này khá phức tạp. Khả năng đóng quỹ của một cá nhân vào Roth IRA sẽ phụ
thuộc vào chỉ số MAGI và tình trạng khai thuế thu nhập của cá nhân đó.
Tình trạng
Khoản đóng được giới
hạn nếu MAGI vào
khoảng:
Khoản được đóng quỹ
nếu MAGI vượt quá:
Độc thân 95.000 – 110.000 USD 110.000 USD
Kết hôn 150.000 – 160.000 USD 160.000 USD
Đã kết hôn nhưng ly
thân
0 – 10.000 USD 10.000 USD
Các khoản đóng quỹ vào Roth IRA không được miễn giảm thuế. Tuy nhiên,
lợi ích của Roth IRA là các khoản đóng quỹ sẽ được miễn thuế khi rút tiền. Ngoài
ra, nếu thỏa mãn một số điều kiện nhất định, những khoản thu nhập từ việc rút tiền
Roth IRA cũng sẽ hoàn toàn không phải chịu thuế. Để có thể đáp ứng những yêu
cầu này, người chủ sở hữu quỹ sẽ phải đóng quỹ trong vòng 5 năm và đạt được
những điều kiện khác được quy định cụ thể như:
• Người chủ sở hữu phải ở độ tuổi 59 tuổi rưỡi vào thời điểm rút tiền.
• Nguyên nhân rút tiền do bệnh tật.
Page 15
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
• Số tiền rút (nhiều nhất là 10.000 USD) được dùng cho việc chi trả tiền
mua nhà lần đầu.

• Việc rút tiền được thực hiện bởi người thụ hưởng hoặc đại diện mua
bán bất động sản sau khi người chủ sở hữu quỹ bị mất.
Việc rút tiền theo những quy định trên cũng sẽ giúp tránh phải đóng phí 10%
do rút tiền trước hạn. Đây là một điểm lợi riêng của Roth IRA. Tuy nhiên, ngay cả
đối với việc rút tiền không theo những quy định trên cũng sẽ chỉ bị đánh thuế (và
có thể chịu phí rút tiền trước hạn) trong trường hợp đó là khoản thu nhập từ đầu
tư, và chỉ khi số tiền rút vượt quá tổng số tiền đã đóng quỹ.
Ngoài ra, nếu người chủ sở hữu đạt 70 tuổi rưỡi thì sẽ không phải rút tiền bắt
buộc. Người chủ sở hữu có thể chọn không rút tiền cho đến khi thật sự có nhu cầu
hoặc có thể chuyển toàn bộ tài khoản cho người thừa hưởng mà không phải rút
tiền dù chỉ một lần. Hơn nữa, nếu người chủ sở hữu đã quá 70 tuổi rưỡi vẫn có thể
tiếp tục đóng quỹ nếu như thỏa mãn yêu cầu đóng quỹ và vẫn còn thu nhập đánh
thuế.
d. Tài khoản Keough
Các tài khoản Keough được lập ra là dành cho các cá nhân lao động tự do và
các chủ doanh nghiệp cá thể hoặc những người hành nghề chuyên môn. Trong loại
lao động tự do gồm cả các nhà thầu độc lập, các nhà tư vấn, các văn nghệ sỹ độc
lập và bất kỳ người nào có hồ sơ và đã nộp các loại thuế an sinh xã hội đối với
nghề nghiệp tự do. Thuật nhữ “Chủ doanh nghiệp cá thể” được dùng để chỉ các
chủ sở hữu độc lập dựa vào doanh nghiệp của họ để sinh sống, bao gồm các doanh
nghiệp trách nhiệm hữu hạn mà trong đó mỗi người góp vốn vào cũng phải làm
việc như một người lao động tại đó.
Những cá nhân có tài khoản Keough có thể tiết kiệm đến 40.000 USD mỗi
năm từ thu nhập mà mình tạo ra mà không phải chịu thuế để có thể rút ra sử dụng
(và bị đánh thuế) khi nghỉ hưu. Tài khoản Keough có mọi tính năng giống hệt tài
khoản 401(k), chỉ khác ở chỗ nó không bị kiểm soát bởi người sử dụng lao động.
Page 16
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
1.2. Đối với Việt Nam
Việt Nam không có những quỹ hưu trí như ở Mỹ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn

có những chính sách nhằm hỗ trợ người lao động có được khoản thu nhập ổn định
khi nghỉ hưu.
Đối với người lao động làm việc ở cơ quan nhà nước, theo hướng dẫn của
Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh, cách tính tiền lương hưu sẽ được tính
theo công thức sau:
Trong đó, tỷ lệ hưởng lương hưu tính theo thời gian đóng bảo hiểm xã hội
như sau: 15 năm đầu = 45%, cộng thêm 2% (nam) hoặc 3% (nữ) cho mỗi năm tiếp
theo. Lương hưu không quá 75% lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội.
Toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội được hưởng lương (hệ số) theo khu
vực nhà nước: tính bình quân 5 năm cuối (nếu tham gia bảo hiểm xã hội từ trước
1995); tính bình quân 6 năm cuối (nếu tham gia bảo hiểm xã hội từ trước 2007);
tính bình quân 10 năm cuối (nếu tham gia bảo hiểm xã hội từ 2007 trở đi)
Đối với trường hợp toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội được hưởng
lương không theo hệ thống thang, bảng lương Nhà nước: tình bình quân toàn bộ
thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Đối trường hợp người lao động vừa có thời gian hưởng lương theo khu vực
Nhà nước và thời gian không theo thang, bảng lương Nhà nước, lương hưu được
tính bằng công thức:
Trong đó:
Page 17
Lương hưu = Tỷ lệ lương hưu x Lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội.
Lương hưu = (L1 + L2) / toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
• L1 = lương trong khu vực nhà nước tính bình quân (như trên) x Tổng
số tháng trong khu vực Nhà nước
• L2 = tổng tiền lương toàn bộ bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội trong
khu vực không Nhà nước.
Điều kiện để được hưởng lương hưu là ngoài tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi,
nữ đủ 55 tuổi) và cá nhân đó đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Trường hợp không
đủ thời gian đóng bảo hiểm như quy định nhưng còn thiếu không quá 5 năm thì

được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm.
Khi đạt đủ điều kiện, ngoài tiền lương hưu, người lao động còn được hưởng
trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội
kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm
đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 0.5 tháng mức bình quân thu nhập tháng
đóng bảo hiểm xã hội.
* Đó là tiền lương hưu được tính căn cứ theo mức đóng bảo hiểm xã hội
hàng tháng của người lao động. Số tiền đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng của
người lao động sẽ do người chủ lao động và người lao động cùng đóng góp. Trong
đó, chủ lao động đóng 15% và người lao động đóng 5% trên tổng số lương. Và
toàn bộ số tiền đóng góp này cũng như số tiền lương hưu hàng tháng người lao
động nhận được hoàn toàn không phải đóng thuế. Đây cũng là một biện pháp
khuyến khích người lao động tăng tiết kiệm để tăng thu nhập trong thời gian nghỉ
hưu.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng thương mại cũng đưa ra các hình thức tương
tự như các quỹ hưu trí ở Mỹ. Cụ thể như Sacombank có sản phẩm bảo đảm hưu trí
do người mở tài khoản, là những người lao động có thu nhập, đóng góp nhằm đảm
bảo thu nhập của bản thân họ hoặc thậm chí là người thân (nếu họ mở và đóng góp
vào tài khoản cho người thân) trong thời kỳ hưu trí. Trong khi đó, các quy định về
thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hoàn toàn không đánh thuế trên số phát sinh lời
từ việc tiết kiệm.
Page 18
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
Trong khi đó, dân số Việt Nam đang già hóa một cách nhanh chóng, do tuổi
thọ bình quân ngày càng tăng lên trong khi tỷ suất sinh và tỷ suất tử ngày càng
giảm. Dân số già đồng nghĩa với người cao tuổi sống lâu hơn, số tiền chi trả cho
họ nhiều hơn, trong khi đó những người trong độ tuổi lao động ngày càng “mỏng”
đi nhưng lại phải gánh gánh nặng chi trả cho những người cao tuổi ngày càng
nhiều. Chẳng hạn như, năm 2009, cứ 100 người dưới 15 tuổi thì có 36 người cao
tuổi. Nhưng theo dự báo, con số này đến năm 2049 sẽ là 100 người dưới 15

tuổi thì có tới 158 người cao tuổi.
Bên cạnh đó là những bất cập về độ tuổi về hưu, những đóng góp của khu
vực công và khu vực tư, việc đầu tư cho quỹ hưu trí hiện nay vẫn còn thấp đều là
những nguyên nhân khiến quỹ này đối mặt với nguy cơ cạn kiệt trong tương lai.
Trước thực trạng trên, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra những gợi
ý như cải cách chế độ hưu trí hiện hành hướng tới một hệ thống các tài khoản cá
nhân với mức đóng góp được xác định trước và coi đây là một bước chuyển tiếp.
Đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của các
nhóm dân số khác nhau, trong đó, bảo hiểm tự nguyện cần được liên kết và liên
thông với các chương trình bảo hiểm bắt buộc và các loại hình bảo hiểm khác.
Song song đó là các chính sách để tạo công ăn việc làm cho những người cao tuổi
vẫn còn khỏe mạnh để họ có thể tăng thêm thu nhập.
2. Hiệu ứng lý thuyết đến tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế
Về mặt lý thuyết : Trợ cấp thuế đối với tiết kiệm hưu trí tác động theo cơ
chế ngược với cơ chế tác động của thuế đánh trên thu nhập từ tiền lãi.
Mô hình:
Đường giới hạn ngân sách sau thuế là: BC2
Độ dốc: -(1+r x (1-t))
Khi tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế, thì việc trì hoãn trả thuế làm giảm
gánh nặng thuế, làm tăng độ dốc của đường giới hạn ngân sách. Như vậy khi một
người đang tiêu dùng tại điểm A trên đường BC2 ( đường giới hạn ngân sách sau
Page 19
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
thuế), khi có trợ cấp thuế thì đường BC2 sẽ dịch chuyển lên thành đường BC3 có
độ dốc cao hơn. Như vậy điểm A này sẽ có 2 hướng để dịch chuyển lên đường
BC3, hoặc là điểm B hoặc điểm C ( điểm B trong trường hợp nếu hiệu ứng thay
thế lớn hơn hiệu ứng thu nhập và điểm C trong trường hợp hiệu ứng thu nhập lớn
hơn hiệu ứng thay thế)

- Các giới hạn đối với trợ cấp thuế trên tiết kiệm hưu trí:

+Hầu hết các cơ chế đối với tiết kiệm hưu trí mà chúng ta xem xét đều có
giới hạn: đó là giới hạn việc đóng góp hàng năm.
Đối với những người có tiết kiệm thấp (tiết kiệm dưới mức giới hạn đối với
trợ cấp thuế) thì tác động của trợ cấp thuế không rõ ràng, do có việc bù trừ giữa
hiệu ứng thay thế ( xu hướng tăng tiết kiệm vì lãi suất sau thuế tăng lên) và hiệu
ứng thu nhập ( xu hướng tiết kiệm giảm vì thu nhập sau thuế giảm)
Ngược lại, với những người có tiết kiệm cao (tiết kiệm trên mức giới hạn đối
với trợ cấp thuế) thì tác động của trợ cấp thuế là rõ ràng, đường giới hạn ngân sách
có độ dốc không đổi nhưng ở vị trí cao hơn, việc trợ cấp thuế làm người ta giàu
Page 20
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
hơn. Tuy nhiên, hiệu ứng thu nhập đối với những người có tiết kiệm cao trong
trường hợp nay phát sinh khi họ tái sắp xếp các tài khoản hiện có vào trong các cơ
chế tiết kiệm hưu trí có trợ cấp thuế: chính phủ làm cho họ nhận được mức thu
nhập cao hơn từ tiền tiết kiệm mà họ dự định để dành, như vậy nếu việc tái sắp
xếp tài sản được ưa thích thì nhiều khả năng sẽ làm giảm tiết kiệm cá nhân thông
qua hiệu ứng thu nhập.
3- Những hàm ý cho các mô hình tiết kiệm khác
Quyết định tiết kiệm được xác định bởi những cân nhắc về việc phòng ngừa
rủi ro và tự kiểm soát.
- Tiết kiệm phòng ngừa rủi ro: Có những rủi ro luôn tồn tại như rủi ro mất
việc làm, rủi ro bệnh tật… làm cho người ta cảm thấy bị hạn chế nếu phải tham gia
các chương trình tiết kiệm hưu trí như trên (không được phép rút tiền trước khi về
hưu). Như vậy hàm ý là có thể sẽ có nhiều tài khoản tiết kiệm hưu trí nhưng không
phải vì lý do mục tiêu hưu trí mà vì lý do phòng ngừa rủi ro
- Mô hình tự kiểm soát: Dấu hiệu của mô hình tiết kiệm tự kiểm soát là việc
tìm kiếm các công cụ mang tính cam kết nhằm thực hiện việc tự kiểm soát. Việc
cam kết đóng góp hàng tháng làm cá nhân không thể tiếp cận tiền tiết kiệm cho
đến khi họ về hưu và thỏa mãn các nhu cầu có lợi trong dài hạn. Các tài khoản tiết
kiệm hưu trí do vậy sẽ làm tăng tiết kiệm nhiều hơn, ngoài nhu cầu phát sinh do

bởi được ưu đãi thuế, nhu cầu còn xuất phát từ sự cam kết.
- Tiết kiệm cá nhân và tiết kiệm quốc gia:
Các chính sách khuyến khích thuế đối với tiền hưu trí làm tăng tiết kiệm cá
nhân thì bù lại các khuyến khích này sẽ tạo ra những tác động tiêu cực đối với tiết
kiệm quốc gia, bởi vì chúng được tài trợ bởi cơ sở đánh thuế
Năm 1975 chi tiêu cho những khuyến khích tiết kiệm chỉ dưới 20 tỷ đôla
nhưng đến năm 2004 tăng lên mức 150 tỷ đôla (ở Mỹ).
Các nhà lập chính sách tin rằng khuyến khích sẽ tạo ra sự khác biệt trong
quyết định tiết kiệm của cá nhân.
Page 21
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
PHẦN III - KẾT LUẬN
Vai trò của tiết kiệm rất quan trọng trong việc ổn định xã hội. Tiết kiệm ngày
hôm nay để tiêu dùng cho ngày mai. Tiết kiệm còn góp phần sự phát triển nền
kinh tế quốc gia. Như khủng hỏang năm 2008 vừa qua xảy ra tại Mỹ cũng
chính là do dân chúng trong Mỹ đầu tư không phải từ số tiền tiết kiệm mà do
vay mượn. Vì thế cho nên để tránh trường hợp khủng hoảng xảy ra, các nước
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng luôn đưa ra các chính sách
khuyến khích tiết kiệm, đặc biệt là ở Mỹ. Tuy nhiên, riêng đối với Việt Nam,
chính sách thuế khuyến khích tiết kiệm vẫn còn yếu kém. Chính sách khuyến
khích của thuế đối với tiết kiệm như trợ cấp thuế, miễn thuế, và đánh thuế
sau khi trừ đi các khoản đóng góp vào quỹ tiết kiệm như quỹ hưu trí làm cho
người dân có động lực hơn trong việc tiết kiệm. Nhưng để tránh thất thu
thuế, thâm hụt ngân sách nhà nước thì sau khi về hưu người dân nhận tiền
hưu hàng tháng sẽ bị đánh thuế. Hiện nay Việt Nam hầu như tiết kiệm bằng
cách giữ tiền mặt trong nhà, làm mất đi một khỏan vốn để đầu tư tăng trưởng
kinh tế, cho nên chính phủ Việt Nam nên có những dịch vụ, chính sách
khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm ở các ngân hàng, quỹ đầu tư…
Page 22
Bài tiểu luận GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách tài chính công và phân tích chính sách thuế
Chủ biên : PGS.TS Sử Đình Thành
TS.Bùi Thị Mai Hoài
2. Sách Taxation and Saving
B.Douglas Bernhemin
3.
c424a344033.html
4.
Page 23

×