Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

TIỂU LUẬN THUẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.96 KB, 9 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH: KINH DOANH QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
THUẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Phương Chi
Nhóm sinh viên thực hiện: 5
Họ tên sinh viên Lớp Mã số sinh viên
Vũ Thanh Bình K48A/A1 095 20 15 105
Nguyễn Vũ Khánh Lan K48A/A1 095 20 15 131
Nguyễn Tấn Đạt K48A/A1 095 20 15 137
Nguyễn Ngọc Tường Vi K48A/A1 095 20 15
Nguyễn Lê Ngọc Hằng K48A/A2 095 20 15
Trần Gia Huy K48A/A2 095 20 15 157
Trương Yến My K48A/A2 095 20 15 175
Văn Thị Diệu Huyền K48A/A3 095 20 15 212
Lữ Thanh Long K48A/A3 095 20 15
Phạm Nguyễn Minh Nga K48A/A3 095 20 15 235
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2012
1. Lời mở đầu .
Trong suốt một vài thập kỷ, đã có rất nhiều những nghiên cứu chứng minh rằng thuế gây tác
động đến việc ra các quyết định của các cá nhân, công ty nhiều hơn ảnh hưởng trực tiếp đến tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây về sự phát triển nội sinh
cho thấy rằng có một số yếu tố bên ngoài đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển lâu
dài, như: R&D, giáo dục (Lucas - 1988), các công cụ đầu tư (Delong và Summer -1991),…
Câu hỏi đặt ra là những chính sách nào của chính phủ có tác động hiệu quả đối với những yếu
tố bên ngoài kể trên, mà từ đó khuyến khích tăng năng suất. Nếu như hoạt động kinh doanh là
một nguồn quan trọng cho sự phát triển kinh tế (theo Schumper 1942), thì những đặc điểm
tương tự của luật thuế cũng tạo ra một tốc độ tăng trưởng cao hơn. Mục đích của phần kế tiếp
là liệt kê ra những cách mà thuế ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Và để nhất quán, tác giả giả
định: mức thuế DN sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế TNCN thay vì một mức tăng trưởng cao


hơn.
2. Lý thuyết về thuế và sự phát triển kinh tế:
Có rất nhiều chiều hướng, cách thức mà qua đó cấu trúc thuế ảnh hưởng tốc độ tăng trưởng
của một nền kinh tế, nhưng bài viết chỉ tập trung vào những tác động đặc biệt, có thể đo lường,
dù thông tin về cơ cấu thuế thu thập được là hạn chế.
2.1 Thuế và sự tích lũy các yếu tố
Trong cơ cấu tự do thị trường, tăng trưởng chỉ đơn thuần dựa trên tích lũy vốn hiện vật và
nhân lực. Trong dài hạn, bất kỳ cấu trúc thuế nào cũng sẽ tạo ra một tỉ lệ cân bằng vốn / lao
động và một cân bằng về trình độ học vấn trên mỗi công nhân. Những thay đổi trong chính
sách thuế gây ra thay đổi trong các giá trị cân bằng này, tạo ra những ảnh hưởng tăng trưởng
tạm thời, có thể kéo dài đến hàng thập kỷ. Đề xuất của tác giả là tạo ra những giai đoạn với
mức thuế TNDN thấp tạm thời. Tốc độ tăng trưởng cũng có thể tăng cao hơn nếu như cơ sở hạ
tầng có liên quan được chú ý đầu tư nhờ vào việc thu thuế.
2.2 Thuế trong một cơ cấu phát triển nhờ nội sinh
Dựa vào nghiên cứu những yếu tố bên ngoài được tạo ra thông qua việc tích luỹ vốn và
nguồn lao động, các tài liệu nội sinh gần đây đã đưa ra một số mô hình dự báo tăng trưởng lâu
dài, ngay cả khi áp dụng 1 cơ cấu thuế ổn định. Mặc dù vậy, vấn đề then chốt vẫn là cần phải
đầu tư vào vốn và nhân lực. Các biện pháp khuyến khích đầu tư càng nhiều, tốc độ phát triển
càng nhanh.
2.3. Thuế và tốc độ thay đổi công nghệ
Đầu tư vào các ý tưởng mới sẽ đóng góp tăng trưởng kinh tế nhiều hơn là đầu tư vào vốn và
nguồn nhân lực hiện có. Thuế có thể ảnh hưởng đến số lượng những cơ hội kinh doanh mạo
hiểm do giữa lời và lỗ, mức thuế biên là khác nhau.
2.4. Những chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tỷ lệ vào ngành
Chính phủ có thể dùng hàng rào thuế quan và phi thuế quan để bảo vệ những ngành công
nghiệp đang tồn tại trong nước. Tuy nhiên, càng nhiều những yếu tố cản trở thì càng ít hoạt
động kinh doanh và làm giảm đi tốc độ tăng trưởng.
2.5. Những chính sách của chính phủ trong nền kinh tế đóng
Mối tương quan về mức thuế giữa các quốc gia lân cận là rất cao. Do đó, khi tốc độ phát
triển ở một quốc gia khá thấp so với khu vực và thế giới, chính sách thuế của quốc gia đó nên

được xây dựng trên biểu thuế trung bình có trọng số của các nước khác.
3. Chiến lược thực nghiệm
Bài viết sử dụng chiến lược dựa trên thực nghiệm như phương pháp chính để đánh giá
những tác động của thuế lên tốc độ tăng trưởng GPD/người thông qua những bộ dữ liệu đánh
giá tổng quát về các quốc gia.
Tổng sản phẩm quốc nội có thể được ước lượng tương đối bởi hàm số Cobb-Douglas. Bất kì
sự tăng trưởng sản xuất nào bởi hoạt động kinh doanh sẽ phải xuất hiện trong đẳng thức, đồng
thời những tác động của thuế lên hoạt động kinh doanh cũng sẽ được phản ánh.
Có bốn cách tiếp cận để ước tính tỷ lệ thuế thu thập cá nhân mà bài viết đã xem xét. Tuy
nhiên, cả 4 phương pháp đều không phải là lý tưởng. Nhưng nếu xét tính khả thi, thuế suất cận
biên và dự toán thuế cận biên trung bình Easterly-Rebelo đã phần nào phản ánh vai trò các
doanh nghiệp trong tăng trưởng kinh tế.
4. Dữ liệu
Dữ liệu về các mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và cá nhân theo luật các nước
được lấy từ cơ sở dữ liệu về thuế thế giới của Văn phòng Nghiên cứu Chính sách thuế (OTPR)
bao gồm Chỉ số Phát triển Thế giới của Ngân hàng Thế giới (WDI), Thuế doanh nghiệp: Tóm
tắt trên toàn thế giới và Thuế thu nhập cá nhân: Tóm tắt trên toàn thế giới của Price
Waterhouse Cooper (PwC) đối với mức thuế suất theo luật các nước kể từ năm 1980.
Có sự khác biệt lớn trong các mức thuế suất Thuế TNDN và Thuế TNCN giữa các nước .
Ví dụ năm 1985 có nước dưới 15% (Cote d'Ivoire và Thụy Sĩ), cũng có nước trên 70% (Bỉ, Hà
Lan, Cộng hòa Dominica, Zambia, và Thụy Điển). Thuế TNDN cũng rất khác nhau theo thời
gian. Mức thuế TNDN trung bình giảm từ 41,3% những năm 1980 xuống 34,8% năm 1990. Sự
khác biệt về thuế TNDN giữa các quốc gia có xu hướng giữ vững qua thời gian: tương quan
giữa thuế suất thuế TNDN vào những năm 1980 và những năm 1990 là 0,656 (giá trị p =
0,000).
Các mức thuế suất Thuế tiêu thụ của các nước rất khác nhau, từ dưới 5% (Guyana, Hồng
Kông, Oman, Hoa Kỳ, Iran, Singapore, Ấn Độ) đến 25% (Đan Mạch, Hungary và Thụy Điển)
dựa trên Thuế doanh nghiệp 1999-2000, Tóm tắt trên toàn thế giới của PricewaterCoopers
(PwC) và Hướng dẫn về thuế TN doanh nghiệp toàn cầu của Ernst and Young sử dụng thuế
suất thuế hàng hoá năm 1999 của các nước.

Các mức thuế suất Thuế XNK trung bình năm 1995 được lấy từ WDI; được tính bằng cách
sử dụng hệ thống thông tin phân tích thương mại (TRAINS) của UNCTAD. Ngoài ra, hai
phương pháp khác được dùng để tăng số lượng khảo sát: áp dụng mức thuế năm 1995 và mở
rộng đến năm liền kề và sử dụng dự toán về mức thuế suất của Lee và Azfar (2001).
Dữ liệu về GDP, tỷ lệ nhập học, tỷ lệ lạm phát, và dân số lấy từ WDI. GDP năm 1995 là cơ
sở trong việc tính toán tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của GDP bình quân đầu người. (Tổng) Tỷ lệ
nhập học là tỷ số giữa mức tổng tuyển sinh, bất kể tuổi tác, với dân số của các nhóm tuổi chính
thức tương ứng với mức độ giáo dục thể hiện. Tập trung tỷ lệ của nhóm tiểu học năm 1970 và
Tỷ lệ lạm phát trung bình trong khoảng 1970-1997.
Chỉ số tham nhũng và chất lượng của các quan chức (ICRG index) là trung bình cộng của
hai chỉ số ICRG: tham nhũng trong chính phủ và chất lượng của bộ máy hành chính. Thang
điểm từ 0-6: cao hơn là ít tham nhũng hơn và chất lượng quan chức tốt hơn. Trung bình của chỉ
số này từ năm 1985 đến hết 1989, với năm đầu tiên có sẵn, được sử dụng trong mức hồi quy
tăng trưởng. Bangladesh, Paraguay, Indonesia, Haiti, Congo, Guyana, và Bolivia được đánh giá
thấp nhất, và cao nhất là Phần Lan, Thụy Sĩ, Đan Mạch, NewZealand, Hà Lan, Thụy Điển, và
Canada.
Các chỉ số mở cửa thương mại là tỷ lệ thể hiện mức độ mở cửa thương mại của quốc gia
được tính trong 1970 đến 1974, với dữ liệu từ Sachs và Warner (1995).
5. Các kết quả hồi quy:
Thuế DN ảnh hướng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
Qua phân tích tầm ảnh hưởng của thuế doanh nghiệp giai đoạn 1970 -1997 cho thấy: khi
mức thuế doanh nghiệp giảm thì mức tăng trưởng GDP trên đầu người tăng. Trong khi, quốc
gia sẽ tăng trưởng càng nhanh nếu có mức thu nhập năm đầu tiên càng thấp, có càng nhiều
công dân có học vấn cao, thuơng mại càng tự do, chính phủ ít tham nhũng và mức lạm phát
thấp. Khi tăng trưởng càng nhanh thì kích thích mức thuế DN càng cao, để trả chi phí cho việc
đầu tư vào các cơ sở hạ tầng thiết yếu.
Thuế DN giữa các nước thuộc và không thuộc khối OECD có mức chênh lệch không đáng
kể. Khi xét thêm công ty / tập đoàn cho mượn danh mức thuế DN vẫn ảnh huởng lớn tới mức
tăng truởng kinh tế. Thuế DN không biến động nhiều khi các thuế khác thay đổi.
Không có mức thuế nào ngoài thuế doanh nghiệp ảnh hưởng lớn tới sự tăng trưởng kinh tế

của các quốc gia. Thuế cá nhân cũng như thuế giáo dục không ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng
trưởng của các quốc gia, ảnh hưởng khá nhẹ so với thuế DN.
Kết quả cho thấy trong các giai đoạn: 1980-1984, 1985-1989, 1990-1994, 1995-1997 mức
tăng trưởng hàng năm của GDP theo đầu người dựa trên mức Thuế DN ở đầu mỗi năm, và các
biến điều khiển khác , thì thuế doanh nghiệp vẫn là yếu tố ảnh hưởng theo chiều ngược lớn
nhất.
Ngoài sự ảnh hưởng trực tiếp , Thuế doanh nghiệp cũng gián tiếp tác động tới sự tăng trưởng
kinh tế. Vì : “mức thuế DN thấp có thể tạo ra mức đầu tư cao hơn cũng như khuyến khích
nhiều hoạt động cuả doanh nghiệp hơn”. Khi thuế DN thấp tạo thêm sự đầu tư, sẽ tạo thêm
nhiều khoản đóng thuế cá nhân khi phát sinh lợi nhuận từ vốn đầu tư. Thay vào đó, khi khuyến
khích hoạt động của công ty, sẽ giảm các khoản đóng thuế cá nhân bởi có sự giảm sút tiền
lương và thu nhập của người lao động, và do kê khai, không phải các khoản lỗ kinh doanh, mà
là các khoản lợi nhuận kinh doanh nhỏ, khi khai báo thuế cá nhân.
Các kết quả tính toán Thuế DN tác động tới Thuế thu nhập cá nhân, tại 87 quốc gia trong
giai đoạn 1972-1998, cho thấy Thuế DN có liên quan đến Tổng thu Thuế thu nhập cá nhân.
Mức thuế DN càng cao thì các cá nhân khai báo thu nhập càng cao. Một nguyên do là mức thuế
DN càng cao thì càng có ít nguời tự mở doanh nghiệp, đối với bất kỳ mức thuế suất thuế thu
nhập cá nhân.
6. Kết Luận
Thuế doanh nghiệp tương quan tiêu cực với sự tăng trưởng kinh tế qua dữ liệu 70 quốc gia
giai đoạn 1970-1997. Các biến thuế khác không liên quan đáng kể tới mức tăng trưởng kinh tế.
Báo cáo cho thấy mức TNDN thấp hơn dẫn đến doanh thu TNCN thấp hơn, sẽ khuyến khích
hoạt động kinh doanh hơn. Tuy nhiên, báo cáo không đủ để rút ra một kết luận chính xác về
nguồn gốc các mối liên hệ giữa mức thuế suất và tăng trưởng.
Những kết quả này cho thấy tác động tăng trưởng của cải cách thuế cũng như các tác động
tiêu chuẩn hiệu quả và công bằng hơn nên được xem xét nghiêm túc. Vì nó phản ánh chính xác
sự điều chỉnh cho các yếu tố bên ngoài tích cực từ sự đổi mới, những yếu tố bên ngoài bị bỏ
qua trong phân tích thuế tiêu chuẩn.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. Các từ viết tắt tiếng Việt

TNDN: thu nhập doanh nghiệp
TNCN: thu nhập cá nhân
XNK: xuất nhập khẩu
DN: doanh nghiệp
2. Các từ viết tắt tiếng Anh
OTPR – Office of Tax Policy Research: Văn phòng Nghiên cứu Chính sách thuế
WDI – World Development Indicators (from World Bank): Chỉ số Phát triển Thế giới
của Ngân hàng Thế giới
TRAINS – TRade Analysis and INformation System: hệ thống thông tin phân tích
UNCTAD – United Nations Conference on Trade and Development: Diễn đàn Thương
mại và Phát triển Liên Hiệp quốc
GDP – Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm quốc nội
ICRG – International Country Risk Guide: Xếp hạng rủi ro quốc gia trên toàn thế giới
OECD – Organization for Economic Cooperation and Development: Tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế

×