Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.87 KB, 46 trang )

Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
DANH SÁCH NHÓM 12
STT Họ và tên Ngày sinh Ghi chú
1 Ngô Lê Việt Anh 06/11/85
2 Võ Tiến Bình 19/09/87
3 Nguyễn Ngọc Thiên Bảo 03/09/84
4 Nguyễn Đăng Duy 20/03/85
5 Hồ Thị Hồng Hạnh 22/04/76
6 Nguyễn Thị Thu Hiền 01/05/86
7 Lê Nguyễn Hải Long 28/10/81
8 Trang Thúy Quyên 19/08/85
9 Dương Thị Xuân Thảo 15/09/82
10 Nguyễn Thị Thu Trang 03/09/87
11 Trần Ngọc Linh 31/10/83
MỤC LỤC
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 1
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
DANH SÁCH NHÓM 12 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG HỐI ĐOÁI 4
1.2. c đi m c a th tr ng h i đoái:Đặ ể ủ ị ườ ố 4
1.3. Vai trò c a th tr ng h i đoái:ủ ị ườ ố 4
1.4. Thành viên c a th tr ng h i đoái:ủ ị ườ ố 4
1.5. Các nghi p v kinh doanh c b n trên th tr ng h i đoái :ệ ụ ơ ả ị ườ ố 5
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG HỐI ĐOÁI VIỆT NAM. .7
2.1.T ng quan v th c tr ng TTH Vi t Nam trong nh ng n m qua:ổ ề ự ạ Đ ở ệ ữ ă 7
2.1.1. T tr c 1992:ừ ướ 7
2. 1.2. Giai đo n c đ nh t giá 1993-1996.ạ ố ị ỷ 10
2.1.3. Giai đo n t tháng 7 /1997 đ n ngày 26/2/1999ạ ừ ế 14
2.1.4. Giai đo n 26/2/1999 đ n nay.ạ ế 17
2.2. Ho t đ ng c a Th tr ng ngo i t liên ngân hàng (giao d ch bán buôn) trong nh ng n m ạ ộ ủ ị ườ ạ ệ ị ữ ă
g n đây:ầ 27


2.3. Ho t đ ng c a Th tr ng giao d ch bán l ( ch y u t p trung vào n m 2011):ạ ộ ủ ị ườ ị ẻ ủ ế ậ ă 32
CHƯƠNG III: XU HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG HỐI
ĐOÁI VIỆT NAM 37
3.1. Xu h ngướ 37
3.2. Gi i pháp phát tri n c a th tr ng h i đoái Vi t Nam:ả ể ủ ị ườ ố ệ 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 2
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
LỜI MỞ
ĐẦU
Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, các mối quan
hệ
kinh tế trên mọi
lĩnh vực của một nước ngày càng được mở rộng ra các nước
,
do đó vấn đề thanh toán, định
giá, so sánh, phân tích đánh giá về mặt giá trị

hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều. Đơn vị
thanh toán không chỉ là tiền
tệ
trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau
liên quan đến
việc
trao đổi tiền của nước khác. Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp
luật
của nước đó và đặc điểm riêng của nó, vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là
phải
so sánh
giá trị, sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa

các
ngoại tệ với nhau . Hoạt
động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền
khác
trong quá trình quan hệ giữa các nước
nhóm nước với nhau đã làm nảy
sinh
phạm trù tỷ giá hối
đoái.
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế nhạy cảm và rất phức tạp. Kinh
tế
thị trường
thường xuyên vận động thì tỷ giá hối đoái cũng như những
hiện
tượng kinh tế khác biến
động là lẽ tất nhiên, là hợp với quy luật vận động
của
sự vật, của hiện tượng. Tuy nhiên
những diễn biến có tính bất thường, khác
lạ
của hiện tượng kinh tế tất phải do những nguyên
nhân, hoặc do những trục
trặc
nào đó làm cho hiện tượng kinh tế đó diễn ra “chệch hướng”
theo logic
bình
thường . Điều đó làm chúng ta phải thận trọng xem xét các nguyên nhân từ
mọi
phía, một cách toàn diện để có nhận thức, quan điểm đúng đắn, làm cơ sở
tin

cậy cho việc
điều chỉnh các hoạt động thực tiễn

Nghiên cứu sự vận động của tỷ giá hối đoái là một vấn đề phức tạp
nhưng
cũng đầy
mới mẻ và hấp dẫn, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế phát triển

vận động không ngừng.
Do đó, nhóm chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài: “ Thị trường hối đoái Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập”
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 3
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG HỐI ĐOÁI
1.1. Thị trường hối đoái là gì :
Thị trường hối đoái là thị trường diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán ngoại tệ và các
phương tiện thanh toán có giá trị ngoại tệ khác. Đây cũng là nơi hình thành tỷ giá ngoại hối theo
quan hệ cung cầu, là một bộ phận của thị trường tài chính. Thị trường ngoại hối là nơi giao dịch
mua bán các đồng tiền chuyển đổi. Các đồng tiền mạnh, có tính chuyển đổi cao được giao dịch
nhiều nhất là Đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật,
1.2. Đặc điểm của thị trường hối đoái:
− TTNH không tồn tại trong một không gian cụ thể nhất định mà hoạt động của nó
thông qua các phương tiện thông tin hiện đại.
− Có tính quốc tế hoá cao.
− Giao dịch mua bán các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi.
− Giao dịch với khối lượng lớn
1.3. Vai trò của thị trường hối đoái:
− Tạo điều kiện để kết nối các nhu cầu giao dịch ngoại tệ trong nền kinh tế. Đáp ứng
nhu cầu mua bán,trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho quá trình chu chuyển, thanh toán trong các
lĩnh vực thương mại và phi thương mại.

− Làm cho các giao dịch mua bán trao đổi ngoại hối đi vào nề nếp, ổn định, góp phần ổn
định thị trường tài chính.
− Giúp Ngân hàng nhà nước nắm bắt được thông tin về thị trường để tham mưu cho
chính phủ trong việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối.
− Tạo điều kiện để hội nhập với thị trường tài chính quốc tế.
1.4. Thành viên của thị trường hối đoái:
− Dựa vào độmg lực thúc đẩy sự tham gia vào thị trường, người ta có thể chia các thành
phần tham gia giao dịch thành các nhóm sau:
o Các nhà thương mại và đầu tư: gồm các nhà xuất khẩu, nhập khẩu và các
nhà đầu tư ra nước ngoài, những người có nhu cầu mua bán chuyển đổi từ
ngoại tệ ra ngoại tệ và ngược lại.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 4
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
o Các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư: gồm tất cả các ngân hàng
thương mại và ngân hàng đầu tư tham gia mua bán ngoại tệ cho chính họ
hay thay cho khách hàng.
o Các cá nhân hay hộ gia đình: gồm những người có nhu cầu mua ngoại tệ
khi đi công tác hay du lịch nước ngoại; hoặc bán ngoại tệ khi nhận các
khoản ngoại tệ từ lợi tức đầu tư hay nhận chuyển tiền từ nước ngoài.
o Ngân hàng Trung Ương: đóng vai trò tổ chức, kiểm soát và điều hành,
tham gia mua bàn ngoại tệ nhằm ổn định sự hoạt động của thị trường
ngoại hối, ổn định giá cả và tỷ giá.
− Căn cứ vào chức năng hoạt động trên thị trường, các thành phần trên lại được chia
thành bốn nhóm sau:
o Các nhà kinh doanh: là những người tham gia mua bán thường xuyên trên
thị trường nhằm kiếm lời từ chênh lệch giữa bán ra và giá mua vào ngoại
tệ.
o Các nhà môi giới: là những người tham gia trên thị trường với tư cách là
trung gian trong các giao dịch mua bán hoặc mua bán thay cho người khác
nhằm thu hoa hồng trong từng giao dịch.

o Các nhà đầu tư: tham gia thị trường với hy vọng kiếm lời nếu sự thay đổi
tỷ giá theo đúng dự đoán đồng thời chấp nhận rủi ro nếu như tỷ giá biến
động trái ngược với dự đoán của họ.
o Các nhà kinh doanh chênh lệch giá: là những người tìm kiếm lợi nhuận từ
các cơ hội kinh doanh thuận lợi với phương châm là mua ở nơi nào, lúc
nào rẻ và bán ở nơi nào, lúc nào đắt nhằm tìm kiếm lợi nhuận phi rủi ro
trong một thời gian rất ngắn.
1.5. Các nghiệp vụ kinh doanh cơ bản trên thị trường hối đoái :
− Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối giao ngay (SPOT): Là nghiệp vụ mua hay bán ngoại tệ
mà việc chuyển giao được thực hiện ngay lập tức hay là chậm nhất là sau 2 ngày kể từ khi thỏa
thuận hợp đồng mua bán.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 5
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
− Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá (ARBITRAGE): Là nghiệp vụ dựa vào mức
chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối để thu lợi nhuận thông qua hoạt động mua bán.
− Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối có kỳ hạn (FORWARD): Là nghiệp vụ mua bán ngoại
tệ mà việc giao nhận sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định theo tỷ giá thỏa thuận lúc ký
kết hợp đồng.
− Nghiệp vụ hoán đổi (SWAP) : Là nghiệp vụ ngoại hối phối hợp giữa hai nghiệp vụ
giao dịch ngoại hối giao ngay và giao dịch ngoại hối có kỳ hạn để kiếm lợi nhuận.
− Nghiệp vụ ngoại hối giao sau (FUTURE) : Là nghiệp vụ tiến hành một thỏa thuận mua
bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực,việc
chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai.
− Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối chọn quyền (OPTIONS): Là nghiệp vụ thực hiện trên
cơ sở hợp đồng quyền chọn mua hay quyền chọn bán.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 6
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG HỐI ĐOÁI VIỆT NAM
2.1.Tổng quan về thực trạng TTHĐ ở Việt Nam trong những năm qua:
2.1.1. Từ trước 1992:

+ Giai đoạn trước tháng 3/1989: thời kế hoạch hoá, tập trung kinh
tế
Năm 1950 được coi như là một cái mốc khi mà Trung Quốc, Liên Xô và các nước chủ
nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam,đặt nền móng đầu tiên cho
việc hình thành các quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước. Trong hai năm
liên tiếp, 1952-1953, Việt Nam lần lượt kí hiệp định thương mại và nghị định thư mậu dịch tiểu
nghạch với Trung Quốc. Từ ngày 25 tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức được quy định giữa
đồng Việt Nam (VND) và nhân dân tệ Trung Quốc (CNY) là 1 CNY = 1.470 VND. Tỷ giá giá
này được xác định dựa trên việc so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại một số tỉnh lớn
của hai nước. Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân dân tệ của Trung Quốc
(CNY) là 1 CNY = 2 SUR. Từ đó, tỷ giá tính chéo tạm thời giữa đồng Việt Nam và Rup của
Liên Xô là 1 SUR = 735 VND. Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 (1 đồng Việt Nam mới bằng
1000 đồng Việt Nam cũ) cũng đã có những điều chỉnh tỷ giá tương ứng với sự thay đổi mệnh
giá của đồng tiền (1 SUR = 0,735 VND). Đến đầu năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và
Rup của Liên Xô được điều chỉnh lại là 1 SUR = 3,27 VND, do hàm lượng vàng trong đồng
Rup được điều chỉnh tăng 4,44 lần.
Năm 1977, các nước xã hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán với
nhau
bằng tiền Rup
chuyển nhượng (là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán
mậu
dịch giữa các nước trong khối
với tỷ giá được quy định sao cho tài khoản
giữa
các bên sau khi trao đổi ngoại thương theo
khối lượng đã được ghi trong
hiệp
định ký kết vào đầu năm thì cuối năm số dư phải bằng
zero) có hàm
lượng

vàng quy định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển nhượng. Bên
cạnh
tỷ
giá Nhà nước còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ 1 SUR = 5,64 VND, được
hình
thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở so sánh giá cả hàng hoá
xuất
khẩu của
Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với giá hàng hoá đó bằng
đồng
Việt Nam trong 3 năm
1955, 1956, 1957. Tỷ giá kết toán nội bộ này dùng
để
thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị
kinh tế Nhà nước có thu chi ngoại tệ
với
ngân hàng, tính thu chi với các đối tác ngoại thương.
Tỷ giá kết toán nội bộ
này
được xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới được điều
chỉnh lại

1 SUR = 18 VND, năm 1987 điều chỉnh lại là 1 SUR = 150 VND, cuối năm
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 7
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
1988
mới được điều chỉnh lại là 1 SUR = 700 VND và cho đến tháng 3 năm 1989
thì
huỷ
bỏ chế độ kết toán nội bộ này. Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút

vốn
đầu tư nước
ngoài (1985) thì vấn đề luồng ngoại tệ bằng Đôla Mỹ vào
Việt
Nam phải được tính đến
(nhất là khi Việt Nam thông qua luật đầu tư
nước
ngoài vào năm 1987). Và TGHD chính
thức giữa đồng Việt Nam và Đôla
Mỹ
đã được xác định một cách chủ quan theo tỷ giá
hiện tại giữa đồng Việt
Nam
và đồng Rup (năm 1985: 1 SUR = 18 VND và mối tương
quan Đôla-Rup
xem
như tương đương 1:1.Do đó, TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam

Đôla
Mỹ vào năm 1985 là 1USD=18VND). Cũng bắt đầu từ năm này, thị
trường
ngoại
tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường Đôla Mỹ bắt đầu đột phát một
cách
mạnh mẽ vơí sự trợ
lực của ba dòng chảy là: dòng kiều hối của kiều bào đổ
về
thay thế dân cho những kiện hàng
quà biếu mà một phần đáng kể là dưới
hình

thức bất hợp pháp. Những lượng lớn Đôla Mỹ
được cất trữ từ khi miền
Nam
được giải phóng bởi các tiểu tư sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu
được tung ra
ít
nhiều.Thứ ba, cùng với việc xoá bỏ ngăn sông cấm chợ thì dòng chảy
hàng
buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng theo. Mức TGHD trên thị trường chợ
đen
được
hình thành và vận động theo những tín hiệu quy luật thị trựờng đã có
một
sự chệnh lệch lớn
so với
t
ỷ giá chính thức, sự bất hợp lý trong việc xác
lập
TGHD ở giai đoạn này thực
chất không quan trọng đối với cả nền kinh tế
nói
chung vì tỷ giá là một loại giá cả, mà bản
thân phạm trù giá cả cơ bản là
không
tồn tại trong nền kinh tế tập trung, bao cấp ngoại trừ
việc có ảnh hưởng xấu
đến
ngân sách Nhà
nước.
Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính

thức
thường cố định
trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với
mức
tỷ giá trên thị trường.VD:giai
đoạn từ năm 1985 đến 1988, 1 Rup có giá
vào
khoảng 1500 VND, 1 Đôla có giá vào khoảng
3000 VND . Trong khi đó, tỷ
giá
kết toán nội bộ trong thanh toán quan hệ xuất nhập
khẩu ở mức
khoảng
1SUR=150VND và 1USD=225VND. Từ đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà
nước
phải
bù lỗ một số tiền là 1350 đồng và 1 Đôla phải bù lỗ 2775 đồng. Như vậy,
nếu
kim ngạch trong năm 1987 là 650 triệu SUR-USD, trong đó khu vực
đồng
Rup là 500
triệu và khu vực Đôla là 150 triệu thì số tiền phải bù lỗ lên đến
900
tỷ VND. Tình hình này
dẫn đến một thực trạng là những địa phương,
những
ngành nghề nào đó càng xuất khẩu
nhiều thì ngân sách Nhà nước càng phải

lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ

dẫn đến tình trạng nợ chồng
chất
lẫn nhau và thiếu vốn kinh doanh. Bên cạnh đó, do tỷ giá
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 8
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
chính thức quy
định
thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không
bán
cho
ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng
hạn
chế
việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà thường
đưa
hàng từ nước
ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực
tế
này vừa gây thiệt hại về
kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh những
tiêu
cực trong đời sống kinh tế xã hội, thúc
đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi
pháp
và chính điều này tác động ngược trở lại làm tình
hình tỷ giá trong thị
trường
càng diễn biến phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nước thường
đứng ra
phân

phối nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các nghành đơn
vị
trong nền kinh tế với giá rẻ (theo tỷ giá chính thức). Như vậy, các ngành,
các
đơn vị được
phân phối hàng nhập khẩu thì được chênh lệch giá. Do đó,
cách
thức xây dựng và điều
hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại thương như vậy đã
được
xem là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến những thâm hụt
trầm
trọng trong ngân sách Nhà nước ở giai đoạn
này. Tóm lại, TGHD được xác
lập
và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trước tháng
3/1989 là một hệ
thống
khá phức tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà
nước
quyết
định, không xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nước

hậu quả là làm cho việc tính toán, phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị
sai
lệch, công
tác điều hành ngân sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở các
quan
hệ kinh tế cả trong và

ngoài nước. Đây cũng là vừa một biểu hiện và cũng
vừa
là kết quả của một nền kinh tế kế
hoạch hoá tập
trung.
+ Giai đoạn từ
1989-1992:
Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát
triển
TGHĐ ở nước ta
khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị
trường
truyền thống Đông Âu và
Liên Xô(cũ) bị gián đoạn, khiến chúng ta
phải
chuyển sang buôn bán với khu vực thanh
toán bằng Đôla Mỹ. Kể từ đó cơ chế
tỷ
giá ổn định đã được thay thế dần bằng cơ chế Nhà
nước điều tiết theo quan
hệ
thị trường. Để đi tới một chính sách TGHĐ tự chủ như ngày nay,
cơ chế quản

ngoại tệ nói chung, quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những diều chỉnh
lớn.
Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách
thả
nổi tỷ giá.Tỷ
giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá

trị
đồng Đôla Mỹ tăng liên tục
kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ
rất
lớn (từ cuối năm 1990 trở đi). Đỉnh cao
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 9
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
của mức tăng tỷ giá USD là
cuối
năm 1991. Ngày 4/12/1991 giá Đôla Mỹ trên thị trường tư
nhân tại Hà nội

Thành phố Hồ Chí Minh là 14.450 VND/USD. Giá Đôla trong tháng
12/1990
đã tăng từ 60 đến 80% so với mức giá đầu
năm.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của
Nhà
Nước đã có
nhiều thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá
kết
toán nội bộ bình quân cho
tất cả các nhóm hàng hoá và duy trì tương đối
ổn
định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi
thì cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm ổn
định
hệ thống giá vật tư và xuất khẩu, nhập khẩu, nên tỷ
giá công bố vẫn cách
xa

mức giá hình thành trên thị
trường.
Diễn biến tỷ giá hối đoái từ năm1989 đến năm 1992 không những
nói
nên khoảng
cách giữa tỷ giá của nhà nước với tỷ giá hình thành trên thị
trường
tự do mà còn phản ánh
xu hướng tăng nhanh của giá trị đồng Đôla ở cả khu
vực
nhà nước lẫn thị trường. Năm
1990, giá trị đồng Đôla vào thời điểm cuối
năm
đã tăng tới 50 % so với đầu năm. Mức
tăng giá USD trong 1991 còn
cao
hơn. Tình trạng leo thang của giá đồng Đôla đã kích
thích tâm lý nắm giữ
đồng
Đôla, nhằm đầu cơ ăn chênh lệch giá. Ngoại tệ vốn đã khan
hiếm lại
không
được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo
giữa
các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem
lại
hiệu quả .
Giai đoạn này Ngân hàng không kiểm soát được lưu thông tiền tệ
.
Trong các năm 1991-

1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ
ngoại
thương với Liên Xô và Đông Âu,
nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm
trọng
(năm 1991 là 357 triệu USD đến năm 1992
chỉ còn 91,1 triệu USD).
Các
doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và
phải chịu một
lãi
suất cao do thiếu Đôla, Đôla đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt
Đôla
theo chu kỳ vào giai đoạn
này.
Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong việc
điều
chỉnh tỷ giá
(như buộc các doanh nghiệp có Đôla phải gửi vào ngân hàng,
bãi
bỏ hình thức quy định tỷ
giá theo nhóm hàng) làm cho giá Đôla bắt đầu
giảm (
cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có
lúc lên tới 14.500 đến tháng
3/1992 chỉ
còn 11.550 VND/USD và tiếp tục giảm cho đến
cuối năm
1992).
2. 1.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996.

Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của Ngân
hàng
Nhà nước vào
thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại
tệ
đầu cơ trong các doanh
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 10
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
nghiệp được tung ra, hướng mạnh vào kinh doanh
xuất
nhập khẩu. Động thời có một lượng
ngoại tệ được chuyển về do người
Việt
Nam ở nước ngoài gửi về cho người thân tăng lên
khoảng 300-400 triệu
USD
làm cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá
VND/USD
giảm
mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với
việc
quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa
TGHĐ
ở thị
trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi
dụng
danh nghĩa của Nhà
nước để buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu
mua
được lượng ngoại tệ đáng kể qua

nguồn này. Một mặt tình trạng này làm
hạn
chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu
hành trong nước. Mặt khác
làm
gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen bất hợp pháp,
tâm lý đầu cơ,
găm
giữ ngoại tệ tăng
mạnh.
Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và
tỷ
giá bán là
cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn
quan
hệ cung cầu và
không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân
hàng
thuơng mại hoạt động theo
đúng quan hệ nội tại của nó và thực tế không ít
các
ngân hàng thương mại đã phá rào. Cuối
cùng sự vận động của tỷ giá trong
giai
đoạn này đã gợi nên một số điểm cần lưu ý trong
việc điều hành chính
sách
như
sau:
* Trước tiên, những vận động của TGHĐ trong giai đoạn này cho

thấy
TGHĐ
của Việt Nam khá nhạy cảm trước những thay đổi của tình hình kinh
tế
từ bên ngoài
và yếu tố tâm lý, cán cân thương mại luôn là những yếu tố

trọng số lớn đối với
sự vận động của
TGHĐ.
* Việc sử dụng các công cụ hành chính trong can thiệp vào tỷ giá là
cần
thiết
vào những lực cung cầu, ngoại tệ có những mất cân bằng nhưng phải
đủ
mạnh để yếu
tố tâm lý không có khả năng phát huy tác động
xấu.
* Các nghiệp vụ trên thị trường còn quá sơ sài
Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ
đã
thay đổi cơ
chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể
sau:
- Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được
công
bố
bởi Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định

biên độ

giao động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà
cụ
thể là buộc
các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có
ngoại
tệ phải bán cho
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 11
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
Ngân hàng theo tỷ giá nhất
định.
- Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh
toán
ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt
động
ngoại
thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng
nhà
nước công
bố.
Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã
tăng
cường công
tác thông tin, cho công khai hoá một cách nhanh chóng và
chính
xác chỉ số kinh tế quan
trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số
giá,
sự biến động giá vàng… Nhờ vậy
hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm


hoang
mang.
Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ, mức
can
thiệp để
thể hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và áp
dập
tắt nguy cơ bùng nổ
trở lại lạm phát nói
riêng.
Ngoài ra, chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cường thực
lực
kinh tế cho
hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự
trữ
ngoại tệ, lập quỹ ổn giá.
Theo số liệu báo cáo thường niên của Ngân hàng
nhà
nước cho thấy, chính phủ thường
dành một tỷ trọng khá lớn trong tổng
lượng
tiền cung ứng thêm cho nền kinh tế để tăng
tài sản có ngoại tệ. Những
biện
pháp can thiệp trên đã phần nào xoá đi tâm lý găm giữ
ngoại tệ, góp phần
làm
giảm Đôla và tỷ giá được ổn định trong những năm tiếp
theo.
Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ (trung tâm

giao
dịch ngoại tệ
tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở cửa từ tháng 8 năm 1991)
để
cho các đơn vị kinh tế và
các tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ
với
nhau theo giá tự thoả thuận, tạo ra môi
trường điều kiện để cung cầu thực
sự
gặp nhau. Sau đó, tiến dần tới việc thành lập thị
trường ngoại tệ liên
Ngân
hàng tháng 9 năm
1994.
Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp
đã
đem lại một
kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được
giải
toả, những đồng ngoại tệ
đã được hướng mạnh và hoạt động kinh doanh
xuất
nhập khẩu. Tình hình cung - cầu ngoại
tệ đã được cải thiện với cùng kỳ
trong
những năm trước đó, Đôla có xu hướng giảm giá.
Mức tỷ giá trên thị
trường
chợ đen chỉ dao động trong phạm vi từ 10.200 đến 10.400 đồng

Việt Nam ăn
1
Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá tụt xuống ở mức 1 USD = 9.750 VND. Mặc

có nhiều ý kiến cho rằng tình hình này phần lớn là nhờ vào lượng kiều hối
vào
nhiều (ước
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 12
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
tính trong tháng 1 năm 1993, nhân dịp tết nguyên đán, có
trên
60.000 việt kiều về thăm
quê đã đem theo một lượng ngoại tệ khoảng 400
triệu
Đôla Mỹ). Dĩ nhiên không thể phủ
nhận đóng góp của lượng kiều hối này
vào
việc làm ra tăng cung ngoại tệ trên thị trường.
Trên thực tế cho thấy,
lượng
kiều hối này tăng giảm hoàn toàn không ổn định qua các năm
và chỉ tập
trung
vào những thời gian ngắn nhất định trong năm, trong khi tình hình cung -
cầu
ngoại tệ và TGHĐ luôn được ổn định trong suốt thời gian dài từ năm 1993
đến
đầu năm
1997.
Mức tỷ giá trên thị trường chính thức cũng không có sự chênh lệnh

nhiều
so với tỷ
giá trên thị trường chợ đen, là minh chứng cho thấy, mặc dù có sự
can
thiệp mạnh trở lại của
nhà nước, nhưng tỷ giá vấn được xác định tương đối
phù
hợp với quy luật của thị trường.
Điều này có thể được chứng minh bằng thực
tế
là tỷ giá của các Ngân hàng và tỷ giá trên thị
trường chợ đen biến động
tương
đối sát gần
nhau.
Một minh chứng nữa là tính từ năm 1993 đến 1996, tình hình giá cả
đồng
Đôla Mỹ
trên thị trường tiền tệ quốc tế thường xuyên có sự biến động mạnh
so
với hàng loạt các đồng
tiền chủ chốt khác như: Yên Nhật. Mác Đức, NDT
của
Trung Quốc …Trong khi đó, đồng
Đôla Mỹ lại có sự ổn định trên thị
trường
Việt Nam, điều này cho thấy biện pháp can thiệp
của chính phủ mà đặc biệt

Ngân hàng nhà nước thật sự phát huy tác dụng một cách mạnh

mẽ. Trong
bối
cảnh nến kinh tế thế giới và thị trường tiền tệ quốc tế đầy biến động mà
nền
kinh tế xã hội Việt Nam lại đạt được sự ổn định và tăng trưởng cao, điều
này
đã thể
hiện tính hợp lý về cơ bản của các tỷ số kinh tế vĩ mô và tất yếu là

biến số TGHĐ. Tuy
nhiên, khi đánh giá về mối quan hệ giữa TGHĐ và
ngoại
thương của Việt Nam từ cuối năm
1992 đến đầu năm 1997, tất cả các
công
trình nghiên cứu trong những năm gần đây và
cũng theo nhận định chung
của
các nhà kinh tế thì đây là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng
tiền Việt Nam.
Các
kết luận thường cho rằng: Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình
trạng
thâm hụt lớn trong ngoại thương của Việt Nam. Ví dụ: Nếu ước tính một
cách
tương
đối và lấy gốc là năm 1992 thì đầu năm 1997, chỉ số giá tiêu dùng
của
Việt Nam đã tăng
36.8 % trong khi ở Mỹ là 16,5 % thì theo thuyết ngang giá

sức
mua, nếu tỷ giá chính thức
vào đầu năm 1993, là 1 USD = 10.500 VND thì
đầu
năm 1997 tỷ giá phải là 1 USD =
10.300(1+ 16,5%) = 12.095 VND. Trong
khi
đó, tỷ giá chính thức trên thị trường Việt
Nam thực tế chỉ khoảng 1 USD
=
11.000 VND. Như vậy theo ngang giá sức mua, đồng
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 13
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
Việt Nam đã tăng giá
thực
tế xấp xỉ 9 %. Và số liệu thực tế cho thấy nếu xét về giá trị tuyệt
đối bằng tiền
tệ
thì thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam đã có sự tăng liên tục
qua
các năm (1993 là 547, 1994 là 1.170, 1995 là 2.345, 1996 là 3.150 triệu
Đôla
Mỹ).
Nếu so sánh mức thâm hụt này với tổng kim ngạch xuất khẩu thì con
số
cũng có chiều
hướng tăng lên (năm 1993 là 8,4 % năm 1994 là 12,8 %,
năm
1995 là 18,4 % và năm 1996


17,7 %).
Bên cạnh đó sự thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam phải
đặc
biệt
nghiêm trọng trong 3 năm liên tiếp 1994, 1995, 1996, có thể nói phần lớn

do tác động trực
tiếp của việc Trung Quốc phá giá mạnh của đồng NDT
vào
đầu năm 1994. Số liệu thực tế
cho thấy, ngay sau cuộc phá giá kim ngạch
nhập
khẩu từ Trung Quốc (chính ngạch) tăng lên
rất nhanh. Nếu như trong năm
1992
kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 31,8 % USD,
chiếm 1,3 % tổng
kim
ngạch xuất khẩu thì trong các năm 1994, 1995, 1996, con số này
lần lượt

144,2 % triệu USD chiến 2,7 %, 793,9 triệu USD chiếm 10,5 % và 926,5 %
triệu
USD chiếm 8,8 %. Thực tế đó cũng đã chỉ ra rằng sự điều hành chính
sách
TGHĐ và chính
sách ngoại thương của Việt Nam trong giai đoạn từ cuối
năm
1993 đến đầu năm 1997 đôi
khi quá thụ động. Sự phá giá mạnh của đồng

NDT
vào cuối năm 1993 là một sự kiện
không có tác động trực tiếp đến
ngoại
thương của Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Nhưng có thể
thấy
rằng trong suốt những năm 1993 đến 1995, hoàn toàn không có
bất kỳ một
điều
chỉnh nào trong chính sách tỷ giá hối đoái nhằm phản ánh hay đối phó
tình
hình này (điều này phản ánh tính tự chủ trong chính sách tiền tệ nói chung

trong đó
có chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng là chưa cao).
2.1.3. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày
26/2/1999
Ngày 2/7/1997 Thái lan phải "thả nổi" TGHĐ kết thúc gần 14 năm duy
trì
một chế
độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra cuộc khủng hoảng
tài
chính Đông Nam Á với
một ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi toàn thế
giới.
Việt nam cũng không thể tránh khỏi
cuộc khủng hoảng. Theo đánh giá
chung
của các nhà nghiên cứu cũng như của các cơ

quan thì cuộc khủng hoảng
này
hoàn toàn có ảnh hưởng ít nhiều đối với nền kinh tế Việt
Nam. Xét thêm
góc
độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á đối
với
nền
kinh tế Việt Nam tạo nên một cơn sốc rộng khắp thể hiện trên một số mặt
sau:
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 14
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân
hàng
- Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại
tệ
- Tác động xấu đến hoạt động giai dịch ngoại
tệ
- Tăng gánh nặng nợ cho các doanh
nghiệp
- Gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn
định
của hệ
thống Ngân
hàng.
-Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang khu
vực
Châu A1 -
Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch, riêng các
nước

ASIAN chiếm 23%
tổng kim ngạch trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng
nên
cuộc khủng hoảng tất yếu sẽ làm
giảm xuất khẩu của Việt
Nam.
- Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực
đã
kích thích
gia tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu tiểu ngạch từ Thái lan

hàng trung chuyển từ
Campuchia, Lào và Việt Nam. Thực tế cho thấy,
đến
cuối năm 1997, hàng loạt các báo
đài đều lên tiếng về tình trạng nhập lậu
hàng
gia tăng mạnh ở các tỉnh biên giới tây
nam.
Thứ hai, đối với lĩnh vực đầu
tư:
Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với dự
đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh nghiệp hạn chế đầu tư và Ngân hàng
cũng rất dè dặt khi cho vay. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có xu hướng giảm ngay
từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng, nhiều dự án đầu tư dở
dang bị đình lại, nhiều phương án đầu tư mới tạm hoãn và điều này cũng thật dễ hiểu khi mà
các quốc gia bị khủng hoảng nặng nề lại là những quốc gia đang dẫn đầu danh sách những
quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam.
Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà
nước.

Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị trường tiêu
dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng xấu
đến nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự xa sụt của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra tăng
một số khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng Ngân hàng
trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ rõ " Thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với kế
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 15
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
hoạch năm. Chi ngân sách khó khăn hơn mức bội thu bội chi có xu hướng gia tăng".
Thứ tư, Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước
ngoài.
Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân vãng
lai,
đến đầu tư của
nước ngoài. Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh tế
nói
chung (tốc độ tăng trưởng
5,8% trong năm 1998 là mức tăng trưởng thấp
nhất
kể từ năm 1989). Về kinh tế khó khăn sẽ
tác động suy giảm đến tổng cầu,
giảm
thu nhập và tiêu dùng của cư dân. Thị trường suy
yếu một phần sẽ tác
động
ngay lập tức đến các Ngân hàng thương mại. Dự trữ quốc gia
tất yếu sẽ
phải
chịu sức ép suy giảm một phần do nguồn cung ngoại tệ giảm bớt, một phần
do
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yêú cho nền kinh tế và hỗ trợ cho đồng

Việt
Nam vào
những lúc cao điểm. Trong bối cảnh đó, chính sách TGHĐ của
Việt
Nam về cơ bản không có
gì khác so với giai đoạn từ năm 1993 đến khi nổ
ra
cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam
Á. Nhưng là giai đoạn với những
điều
chỉnh nhỏ, liên tục trong chính sách TGHĐ, nói
chung và công tác quản

ngoại hối nói riêng nhằm hạn chế những tác động của cuộc
khủng hoảng.
Nếu
trong giai đoạn từ cuối năm 1992 đến tháng 7 năm 1997 chỉ có một lần
duy
nhất điều chỉnh biên độ giao dịch từ 1% đến 5% vào ngày 27/2/1997 thì
từ
tháng 7/
1997 đến đầu năm 1999 có nhiều lần thay đổi với các mốc chính
như sau:
Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng
biên
độ giao
dịch lên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước quyết
định
nâng tỷ giá chính thức từ
1USD = 11.175VND nên mức 1USD =

11.800VND,
tăng 5,6%, ngày 7/8/1998, Ngân hàng
nhà nước quyết định thu hẹp biên
độ
giao dịch xuống còn 7% đồng thời nâng tỷ giá chính
thức lên 1USD = 12.992 VND, ngày 6/11/98 là 1USD = 12.989VND ngày 26/11/98

1USD = 12.987VND… cho đến ngày 15/1/99 thì tỷ giá chính thức chỉ còn

mức 1USD =
12.980VND
.
Việc Ngân hàng nhà nước điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng biên
độ
trong
giai đoạn này có nhiều lý do, do gạt bỏ những lý do khác và chỉ đứng
trên
góc độ lựa chọn
chế độ tỷ giá thì có thể thấy. Nếu phân loại chế độ tỷ giá
gồm
3 chế độ chính là chế độ tỷ
giá cố định, chế độ tỷ giá thả nổi thuần tuý và
nằm
giữa hai thái cực này gọi chung là chế
độ tỷ giá bán thả nổi hay thả nổi có
quản
lý, thì việc có nhiều những điều chỉnh trong tỷ giá
chính thức cùng biên độ
tuy
không làm thay đổi về cơ bản mà hoàn toàn phù hợp với lý

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 16
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
thuyết về lựa
chọn
chế độ tỷ giá: "Một chế độ tỷ giá thả nổi sẽ góp phần hạn chế những cơn
sốc

xuất phát từ thị trường thế giới (đang khủng hoàng tài chính Đông Nam Á
).
2.1.4. Giai đoạn 26/2/1999 đến
nay.
+ Giai đoạn 1999 - 2000:
Trước ngày 26/2/99 TGHĐ được ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày và trên cơ sở
đó các tổ chức tín dụng được phép mua bán trong một biên độ nhất định. Ngoài ra còn tồn tại
một loại tỷ giá là tỷ giá chợ đen tạo ra một hệ thống đa tỷ giá phức tạp tỷ giá chính thức
của NHNN công bố không được xác định theo tín hiệu thị trường nên không có ý nghĩa kinh
tế. Tuy vậy khi có sự thay đổi của tỷ giá vẫn có những tác động đến nền kinh tế.
Đến nay khi nền kinh tế vận động mạnh theo cơ chế thị trường thì
việc
xác định tỷ
giá như trên không còn phù hợp với quan hệ cung cầu trên
thị
trường và thông lệ quốc
tế. Từ 26/2/99 TGHĐ chính thức công bố hàng
ngày
được xác định trên cơ sở bình quân
mua bán thực tế trên thị trường ngoại
tệ
liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước
đó, đồng thời biên độ

giao
dịch cũng được rút xuống là
0,1 %.
(Quyết định 64/1999 QĐ - NHNN7 và
65/1999/QĐ-NHNN7).
Có thể nói đây là một bước đổi mới rất quan trọng không những
trong
quan niệm,
trong tư duy mà cả trong thực tiễn quản lý, với cơ chế này làm
cho
tỷ giá hối đoái trên thị
trường vận động một cách khách quan phản ảnh
đúng
hơn các quan hệ cung cầu về ngoại tệ
ở trên thị trường, đồng thời cũng phù
hợp
với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế
giới.
+ Giai đoạn 2001 - 2005 :
Năm 2001 là năm đầu tiên hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) có hiệu lực nên thu hút
lượng ngoại tệ lớn, do đó từ ngày 01/06/2001, NHNN chính thức chuyển sang thực hiện cơ chế
tự do hóa lãi suất ngoại tệ.
Bước qua năm 2002 biến động không nhiều. Tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân
hàng tính đến ngày 31.12.2002 tăng 1.97% so với cuối năm 2001. Tỷ giá giao dịch của các ngân
hàng trên thị trường liên ngân hàng tăng 2.13% so với cuối năm 2001. Biên độ quy định tỷ giá
các NHTM được phép giao dịch cũng không ngừng đổi mới. Trong giai đoạn từ ngày 01/07/2002
NHNN quy định 5 kỳ hạn với biên độ tiếp tục được nới rộng: tăng lên ±0.25% so với mức
±0.1% trước đó đối với nghiệp vụ giao ngay; lên ±0.5% so với mức ±0.4% của nghiệp vụ giao
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 17
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1

dịch kỳ hạn 30 ngày, lên ±2.5% so với mức 2.35% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn trên 90
ngày… Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu cầu của các NHTM cũng như các DN có nhu
cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp trước đây.
Năm 2003 tỷ giá VND/USD ở nước ta khá ổn định mặc dù USD mất giá mạnh so với các
loại ngoại tệ chủ chốt khác và có diễn biến phức tạp trên thị trường ngoại hối quốc tế. Tại thị
trường ngoại hối Việt Nam, USD giảm giá nhẹ vào tháng 2/2003, khoảng 0,05% so với tháng
1/2003, sau đó lại tăng giá trở lại. Đầu tháng 12/2003, tỷ giá biến động cao do tin đồn thất thiệt
về việc NHNN phát hành 5 loại tiền mới ra lưu thông, trên thị trường tự do tỷ giá có lúc đạt
16.000 VND/USD, sau đó lại giảm xuống.
Năm 2004 tỷ giá tương đối ổn định. Trong 8 tháng đầu năm tỷ giá giao dịch VND/USD
của các NHTM xoay quanh mức 15.705-15.740 VND/USD, còn trên thị trường tự do là 15.740-
15.790 VND/USD.
Sang năm 2005, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi, chú ý đến việc điều
tiết mức tăng giá cả và hỗ trợ sự phát triển kinh tế. Tỷ giá hối đoái ổn định và mức tăng lãi suất
tiền VND giúp cho NHNN mua được ngoại tệ làm tăng dự trữ ngoại hối. Cũng trong năm này,
NHNN cho phép NHTM đưa vào triển khai Options giữa ngoại tệ với VND, giúp các nhà xuất
nhập khẩu vừa có thể hạn chế rủi ro tỷ giá vừa có thể đặt kỳ vọng với mức tỷ giá ngoại tệ phù
hợp với tình hình kinh doanh của mình, nhất là tỷ giá USD/VND.
Nhìn chung, trong giai đoạn này nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt cùng với các chính sách
khác hỗ trợ, nền kinh tế đã có những bước khởi sắc, thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ Đông Nam Á năm 1997. Kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng đáng kể,
quỹ dự trữ ngoại hối ngày càng được tăng cường, tâm lý găm giữ USD giảm hẳn, thậm chí còn
có sự chuyển dịch từ USD sang VND ở trong nước.
+ Giai đoạn 2006 - 2007 :
Cuối năm 2006, nền kinh tế Việt Nam nổi lên với nhiều sự kiện cũng như nhiều thay đổi
đầy hứa hẹn về một nền kinh tế thị trường bước đầu hội nhập.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực
hiện cam kết PNTR (Permanent Normal Trade Relations - Quy chế Thương mại bình thường
vĩnh viễn) với Hoa Kỳ. Thực trạng tỷ giá có những diễn biến phức tạp hơn so với thời gian trước,
cụ thế, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều sẽ gây khó khăn trong việc kiểm soát khối lượng

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 18
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
tiền và kiềm chế lạm phát, một lượng tăng cung USD trên thị trường sẽ gia tăng áp lực nâng giá
đồng nội tệ.
Đối mặt với sự thay đổi của nền kinh tế, cùng với sự linh hoạt trong các chính sách tiền tệ
và tài khóa, NHNN đã có những biện pháp can thiệp vào chính sách tỷ giá.
Tính tới tháng 6/2007, NHNN đã tăng cung VND hơn 110% so với năm 2006, và tăng
tổng cộng 135% tính từ cuối năm 2005, nhằm mua lại lượng ngoại tệ, mục đích giữ VND yếu để
nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, nới rộng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên
0,5% vào đầu năm, và tới 12/12/2007 tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Tỷ giá tháng 1 là
1USD = 16.080VND và tới cuối năm tỷ giá ở mức 1USD = 16.164VND.
Mặt khác tác động của nới rộng biên độ tỷ giá cũng làm cho các ngân hàng, doanh nghiệp
và nhà đầu tư có được sự chủ động và linh hoạt hơn trong tính toán hiệu quả đầu tư, làm cho tỷ
giá sát với điều kiện thị trường hơn, hỗ trợ khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời
hạn chế doanh nghiệp nhập khẩu.
Bên cạnh đó, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá danh nghĩa trên thị trường cũng khuyến khích
xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Một tỷ giá thực thấp hơn kết hợp với sự đa dạng của các sản
phẩm tín dụng đã giúp cho vay đầu tư mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện thuận
lợi tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ hộ sản xuất kinh
doanh khó khăn cũng được mở rộng góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, trong năm 2007, nền kinh tế toàn cầu chịu nhiều ảnh hưởng bởi những biến
động lớn về giá hàng hoá, chủ yếu là do giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực phẩm tăng cao
liên tục. Những biến động thất thường của giá dầu thô, giá vàng cùng với dấu hiệu suy thoái kinh
tế Hoa Kỳ, đồng USD mất giá nhanh so với các ngoại tệ mạnh khác đã tác động không tốt và lan
tỏa tới nhiều nền kinh tế.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2007 đạt 111,2 tỷ USD, tăng 31,3%
so với năm 2006, trong đó xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006, vượt 3,8%
kế hoạch năm và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD, tăng xấp xỉ 40%, cao gấp gần 2 lần tốc độ tăng xuất

khẩu.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 19
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
Khoảng cách rất lớn về tốc độ tăng của nhập khẩu so với xuất khẩu đã đẩy nhập siêu lên
một mức cao nhất từ trước đến nay (14,12 tỷ USD), gấp 2,8 lần của nhập siêu năm 2006 (là 5,06
tỷ USD) và gấp 12,4 lần của nhập siêu năm 2001 (là 1,12 tỷ USD)
Bên cạnh đó, mặt trái của chính sách thị trường mở của NHNN cũng đã đem lại nhiều
thách thức. Về nguyên tắc, do lượng tiền trong lưu thông tăng, nên để tránh hậu quả lạm phát,
NHNN phải tiến hành một giao dịch trên thị trường mở bằng cách bán các chứng khoán để hút
bớt tiền từ lưu thông tương đương với lượng VND bơm vào. Tuy nhiên, điều này chỉ khả thi nếu
như nền kinh tế trong nước hấp thụ được lượng vốn ngoại đưa vào đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, tạo ra thêm của cải cho xã hội, khi dòng vốn được lưu thông thì NHNN sẽ dễ dàng hút
tiền đồng về. Thế nhưng trên thực tế, lượng FDI giải ngân trong năm 2007 chỉ hơn 40%.
Bên cạnh đó, cuối năm 2006 tới cuối năm 2007, USD mất giá mạnh trên thị trường thế
giới, lãi suất của nó liên tục giảm, Việt Nam lại liên tục theo chính sách duy trì VND yếu, cùng
với việc gia nhập WTO đầu năm 2007 thì đây là cơ hội tuyệt vời cho các quỹ đầu cơ tài chính
huy động vốn với lãi suất thấp để đầu cơ vào Việt Nam. Thực tế đã cho thấy năm 2007 thị trường
chứng khoán Việt Nam nóng lên nhanh chóng, dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư không được
đưa vào đầu tư thực sự mà chạy lòng vòng từ túi người này sang người khác rồi quay trở lại túi
nhà đầu cơ với giá trị tăng lên gấp nhiều lần. Điều này gây cản trở cho quá trình hút VND về của
NHNN. Doanh nghiệp sau khi huy động vốn lại tiếp tục đầu tư vào thị trường chứng khoán, do
đó số tiền đầu tư vào sản xuất kinh doanh tạo ra thêm của cải cho xã hội cũng giảm đáng kể. Kết
quả là con số lạm phát năm 2007 lên tới 12.63%, với chỉ số tăng GDP là 8,9% - nghĩa là về thực
chất chúng ta tăng trưởng âm.
+ Giai đoạn năm 2008:
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm đáng kể, các nền kinh tế phát triển đều
rơi vào suy thoái. Diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới khiến cho kinh tế Việt Nam gặp nhiều
thách thức. Có thể nói chưa bao giờ tình hình tỷ giá Việt Nam lại biến động thất thường với
cường độ mạnh mẽ như trong năm 2008.
a) Giai đoạn 1 (1/1/2008 – 25/3/2008): Tỷ giá VND/USD giảm

Đầu năm 2008, tỷ giá dao dộng quanh mức 16.000 – 16.200 VND/USD, đến giữa tháng
3/2008, tỷ giá giảm xuống còn 15.400 VND/USD.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 20
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
Cùng thời điểm trên thị trường thế giới giá USD vẫn tiếp tục sụt giảm, Cục dự trữ liên
bang Mỹ (FED) vẫn tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản. Người dân không còn giữ USD như trước
mà chuyển qua nắm giữ vàng hoặc VND để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao. Hoạt động
Arbitrage (kinh doanh chênh lệch tỷ giá và lãi suất) của giới đầu tư và đầu cơ nước ngoài đã đưa
vào Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn. Số tiền này được đổi ra VND để hưởng chênh lệch lãi suất
thông qua gửi tiết kiệm hoặc đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Một lượng kiều hối cũng được
chuyển về Việt Nam nhằm hưởng chênh lệch lãi suất và chuyển cho người thân nhân dịp Tết.
Các NHTM phải cầu cứu NHNN mua bớt ngoại tệ để khai thông dòng chảy USD, đồng thời
chạy đua lãi suất gay gắt nhằm thu hút lượng VND để đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của
NHNN. Các doanh nghiệp nhập khẩu thì không thể bán USD vì lỗ nặng.
Hậu quả của các biện pháp trên là dòng VND bị chặn lại, gây ra hiện tượng khan hiếm
tiền mặt, thừa USD giữa các ngân hàng, giá USD giảm liên tục, mức giảm tới 1,8%. Mặc dù
giảm giá USD là phù hợp trong điều kiện lạm phát trong nước và thế giới tăng cao, thế nhưng
trước tình hình này, để hệ thống ngân hàng không rơi vào tình trạng mất thanh khoản, nhưng vẫn
theo chủ trương tăng giá VND và kiềm chế lạm phát, ngày 10/3/2008, NHNN đã quyết định nới
rộng biên độ tỷ giá từ 0,75% lên 1%. Bên cạnh đó, NHNN cũng tung ra thị trường 33.000 tỷ
đồng cho vay ngắn hạn, gấp 1,5 lần số lượng tiền định rút về qua tín phiếu bắt buộc, làm cho lạm
phát tăng nhanh hơn ở những tháng sau ảnh hưởng tới tỷ giá.
b) Giai đoạn 2 (26/3/2008 – 16/7/2008): Tỷ giá tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt
USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
Trong giai đoạn này tỷ giá tăng dần đều: Giá USD/VND tăng kịch trần cuối tháng
3, tính đến cuối tháng 5 giá USD/VND đã tăng 1,02% so với tháng trước đó; và đặc biệt trung
tuần giữa tháng 6, cơn sốt USD bùng nổ lên 19.400 VND/USD, trên thị trường tự do lên tới
19.800 VND/USD.
Lạm phát tăng cao có thể coi là nguyên nhân khởi đầu cho sự đảo chiều đột ngột của tỷ
giá giai đoạn này. Chỉ số CPI tháng 3 lên tới 9,16%, lạm phát tháng 5 tiếp tục tăng 3,91%, cao

nhất kể từ đầu năm, đẩy chỉ số giá tiêu dùng CPI lên tới 15,96%. Tâm lý lo sợ VND mất giá bắt
đầu xuất hiện. Mặc dù NHNN đã nâng lãi suất cơ bản lên 12%/năm vào tháng 5 nhưng việc áp
dụng trần lãi suất lại làm cho các NHTM không thể đẩy lãi suất lên. Chỉ số giá tiêu dùng 15,96%
gấp gần 2,5 lần lãi suất tiết kiệm (1,2%/tháng) làm cho lãi suất thực âm. Do đó không thể thu hút
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 21
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
tiền từ trong lưu thông về trong bối cảnh lạm phát cao, người dân muốn nắm giữ tiền để mua
hàng hóa hơn là gửi tiết kiệm ngân hàng.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam khi lo ngại về tình
hình kinh tế Việt Nam và do tình hình thanh khoản yếu trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu USD
chuyển vốn về nước lên cao. Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép vay ngoại tệ đối với
doanh nghiệp xuất khẩu, dưới áp lực thâm hụt cán cân thương mại (7,2 tỷ USD trong 3 tháng từ
tháng 4 đến tháng 6), nhu cầu mua ngoại tệ để trả nợ của doanh nghiệp tăng cao lại càng đẩy tỷ
giá tăng vọt. Đặc biệt trong thời gian này tỷ giá chênh lệch giữa thị trường chính thức và thị
trường tự do tăng rất cao, có lúc lên đến 2.500VND/USD chứng rỏ sự quản lý việc thu đổi ngoại
tệ và sự phối hợp giữa NHNN với các ngành chưa được tốt, điều này lại càng làm cho việc điều
hành chính sách tỷ giá của NHNN phức tạp thêm gấp bội. Ngày 27/6, NHNN tiếp tục nới rộng
biên độ dao động tỷ giá lên 2%.
c) Giai đoạn 3 (17/7/2008 – 15/10/2008): Tỷ giá giảm mạnh và dần đi vào bình ổn
Trong tháng 7, chênh lệch lãi suất giữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự
do không quá cách biệt, giá USD trên thị trường tự do đã lùi xuống dưới 17.000 đồng. Tỷ giá
bình quân liên ngân hàng tháng 8 ổn định quanh mức 16.490VND/USD, tỷ giá thị trường tự do
cũng ổn định quanh mức 16.580 – 16.610VND/USD.
Nguyên nhân là do tình trạng sốt USD đang ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử
NHNN công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng
USD đang trở nên khan hiếm. Đồng thời giai đoạn này NHNN thực hiện kiểm soát chặt các đại
lý thu đổi ngoại tệ, cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu
vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
Tỷ giá VND/USD trong tháng 9/2008 không có sự biến động nhiều, chỉ có tăng mạnh từ
16.620 lên 16.740 (ngày 15/9 đến ngày 19/9), sau đó giảm xuống chỉ còn 16.630 VND/USD

trong ngày 24/9. Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ:
ngày 15/9, tập đoàn tài chính Lehman Brothers lớn thứ tư nước Mỹ, có thời gian hoạt động 158
năm, đã chính thức tuyên bố phá sản; và tối 16/9, khi FED được sự ủng hộ của Bộ Tài chính
nước này đã đồng ý để Ngân hàng New York chi 85 tỷ USD cứu AIG, một trong những tập đoàn
bảo hiểm lớn nhất thế giới có giá trị tài sản khoảng một nghìn tỷ USD và có 116.000 nhân viên
tại hơn 100 quốc gia.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 22
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
Sơ đồ : Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008
Nguồn: BIDV
d) Giai đoạn 4 (16/10/2008 – 30/12/2008): Tỷ giá USD tăng trở lại
Tỷ giá USD/VDN tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó
giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ lên
vào ngày 7/11/2008 thì tỷ giá tăng lên mức 17.440VNDUSD. Sự tăng tỷ giá giai đoạn này
do ảnh hưởng của nhiều yếu tố:
- Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đối với nước ta
làm cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng, ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm trong nước làm
cho kinh tế suy giảm.
- Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD,
tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9
tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28
tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%.
- Riêng về kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so
với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%.
- Ngoài ra, dòng tiền ra của khối ngoại tệ tăng lên do các nhà đầu tư đẩy mạnh bán
ròng chứng khoán vào khoảng giữa tháng 10 – tháng 11, trong đó bán trái phiếu 700 triệu USD,
cổ phiếu 100 triệu USD. Trong khi đó, cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 23
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1

không cho phép nhập khẩu vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng tăng, làm tăng cầu USD. Hơn nữa,
trên thế giới lúc này USD đã lên giá sau khi Chính phủ Mỹ can thiệp vào thị trường tài chính
ngăn chặn khủng hoảng, do đó VND cũng phải được điều chỉnh cho phù hợp.
- Vào cuối năm, NHNN đã bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu
nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu.
Nhìn chung chính sách tỷ giá của Việt Nam trong năm 2008 khá hợp lý và kịp thời.
Trong năm 2008 có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sẽ phá giá nội tệ và kịch bản khủng hoảng
kinh tế 1997 – 1998 Thái Lan sẽ lặp lại ở Việt Nam. Tuy nhiên kết thúc năm 2008 Việt Nam vẫn
kiểm soát được tỷ giá VND/USD không quá cao và không biến động nhiều. NHNN đã điều
chỉnh tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ngày 25/12/2008 là 16.989
VND/USD, không cao như dự báo trước đó.
+ Giai đoạn năm 2009 :
Có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh, nhập siêu cao,
lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại, khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân
hàng lên kịch trần…
Sơ đồ : Tình hình tỷ giá USD/VND 2008 – 2009 : cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng thẳng
Nguồn: Global Financial Data, NHNN và tổng hợp của Trường Fulbright.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 24
Thị trường Hối đoái Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế Nhóm 12 K20 TCDNĐêm1
Ngày 25/11/2009, cùng với quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% của NHNN,
tỷ giá liên ngân hàng được nới rộng lên 5,5%, đồng thời biên độ tỷ giá mới cho giao dịch mua
bán giao ngay cũng được thu hẹp về 3% so với 5% như trước.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu cả năm lên 57,1 tỷ USD, giảm 8,9% so với năm
2008 và nhập khẩu là 69,95 tỷ USD, giảm 13,3%. Như vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả
nước năm 2009 là 127,05 tỷ USD, giảm 11,4% so với năm 2008, cán cân thương mại hàng hoá
thâm hụt 12,85 tỷ USD, bằng 22,6% xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 24,18 tỷ USD, chiếm 42,3% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và
nhập khẩu là 26,07 tỷ USD, giảm 6,5% so với năm 2008.
Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá năm 2009 khá thành công, đảm bảo sự ổn định
thị trường ngoại hối. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập nhất định như làm giảm niềm tin vào

Chính phủ, sự thiếu minh bạch trong thông tin tạo ra những kỳ vọng méo mó, tạo cơ hội cho đầu
cơ găm giữ ngoại tệ làm cho tình hình thêm căng thẳng thiếu những công cụ phòng ngừa rủi ro

+ Giai đoạn từ năm 2010 đến nay :
Từ đầu năm 2010, tỷ giá VND/USD giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479
VND/USD cho đến ngày 10/2/2010, NHNN quyết định điều chỉnh tỷ giá giữa VND và USD liên
ngân hàng. Theo đó, tỷ giá bình quân liên ngân hàng điều chỉnh từ mức 17.941 đồng/USD lên
18.544 đồng/USD, tăng khoảng 3,3%.giữa tháng.
Sang tới quý 3, NHNN lại tiếp tục một đợt điều chỉnh tỷ giá nữa vào ngày 18/8, tỷ giá
được điều chỉnh từ mức 18.544 VND/USD lên mức 18.932 VND/USD, tăng gần 2,1%, biên độ
tỷ giá giữ nguyên mức 3%. Sau cả 2 đợt điều chỉnh, USD đã tăng 5,46% so với VND trong khi
ngưỡng an toàn là 6% (là mức chênh lệch lãi suất USD và VND).
Việc điều chỉnh này có mặt tích cực, nó đã đưa tỷ giá USD của ngân hàng về gần hơn
với mức giao dịch của thị trường tự do. Trong khuôn khổ hành lang tỷ giá mới với mức trần là
19.100 VND/USD, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và tự do giảm xuống còn 100-
500 đồng/USD (chênh lệch 0,8-2,5%), người nắm giữ ngoại tệ có thể sẽ tăng bán USD cho ngân
hàng, tăng cung trên thị trường chính thức.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 25

×