Tải bản đầy đủ (.pdf) (274 trang)

Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hội nhập đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.67 MB, 274 trang )


1

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn phát triển kinh tế Việt Nam, sự ra đời và phát triển thò
trường chứng khoán đã góp phần đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế..
Thò trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền
kinh tế hiện đại. Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng tốt,
năm 2005 GDP đạt mức tăng trưởng là 8,4% dẫn đến Việt Nam đứng vào hàng
các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của khu vực và thế giới, năm
2006 là 8,17%. Ông Houng Lee- Giám đốc IMF tại Việt Nam dự báo “Năm
2006, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục trong giai đoạn đi lên của chu kỳ kinh
tế”. Năm 2006 là năm có nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển thò trường chứng
khoán Việt Nam. Thực tế, thò trường chứng khoán Việt Nam quy mô còn quá
nhỏ, thò trường chưa tương xứng và cạnh tranh được với thò trường các nước khu
vực; hàng hóa còn quá ít, không phong phú về chủng loại; thò trường còn thiếu
những nhà đầu tư chiến lược. Do đó, việc phát triển thò trường chứng khoán là
mục tiêu quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, quá trình
toàn cầu hoá là xu hướng chung của thế giới và Việt Nam cũng đang gia nhập
vào vòng xoáy đó. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế trong đó hội nhập thò trường
tài chính mà đặc biệt hội nhập thò trường chứng khoán là vấn đề mang tính tất
yếu. Trong thời gian qua, thò trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước trưởng
thành và phát triển nhưng chưa hội đủ các yếu tố tương xứng so với thò trường
chứng khoán các nước. Do đó, việc phát triển thò trường chứng khoán, mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế và nghiên cứu kết nối trường chứng khoán Việt Nam
với trường chứng khoán các nước là sự cần thiết tất yếu cho mục tiêu hội nhập
thò trường tài chính, thò trường chứng khoán. Từ các luận cứ nêu trên, NCS đã
chọn đề tài “Phát triển thò trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hội
nhập đến năm 2010” làm luận án tiến só kinh tế
Luận đề xuất phát


Căn cứ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, phát triển ngành Tài chính giai
2

đoạn 2006-2010; mục tiêu phát triển thò trường chứng khoán đã được Chính phủ
phê duyệt Chiến lược phát triển thò trường chứng khoán Việt Nam đến năm
2010 ở Quyết đònh 163/2003/QĐ-TTg ngày 5/8/2003, Quyết đònh 898/QĐ-BTC
ngày 20/2/2006.

Mục tiêu của việc nghiên cứu
Từ lý do nghiên cứu và luận đề xuất phát trên, các mục tiêu của việc
nghiên cứu sẽ là:
- Về mặt lý luận, luận án nghiên cứu: Thứ nhất, nêu ra các lý luận cơ bản
về thò trường chứng khoán, khung pháp lý và cơ chế vận hành của thò trường.
Thứ hai, là hàng hóa và nguồn tài trợ vốn cho doanh nghiệp được phân tích về
mặt phương pháp luận trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Thứ ba là sự
hình thành và phát triển thò trường chứng khoán của các nước khu vực như Trung
Quốc, Singapore và Hàn Quốc, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm có giá trò thực
tiễn cho Việt Nam, là cơ sở cho việc đònh hướng phát triển thò trường chứng
khoán Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về mặt thực tiễn, phân tích, đánh giá thò trường chứng khoán Việt Nam
là một chuỗi sự kiện mang tính lòch sử phù hợp với quốc gia có nền kinh tế
chuyển đổi. Bên cạnh việc phân tích thực tiễn hoạt động thò trường chứng khoán
Việt Nam, luận án cũng đã so sánh quy mô thò trường chứng khoán Việt Nam
với các nước để nhận đònh mặt hạn chế của thò trường Việt Nam đối với các
nước. Qua đó, căn cứ vào nội dung của “Chiến lược phát triển thò trường chứng
khoán đến năm 2010” để hoạch đònh hệ thống các giải pháp đồng bộ cho thò
trường chứng khoán Việt Nam trước thềm gia nhập WTO.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận án nghiên cứu thò trường chứng khoán Việt

Nam và các yếu tố cần thiết cho quá trình phát triển thò trường chứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập
3

- Phạm vi nghiên cứu : luận án tập trung nghiên cứu về cơ chế hoạt động
của thò trường chứng khoán Việt Nam, nghiên cứu các mô hình kết nối thò trường
chứng khoán giữa Singapore và Úc để xây dựng mô hình kết nối thích hợp cho
thò trường chứng khoán Việt Nam và Singapore. Ngoài ra, nghiên cứu các giải
pháp phát triển thò trường và mô hình tính hệ số Bêta cho các cổ phiếu giúp nhà
đầu tư kiểm soát rủi ro hệ thống trên thò trường chứng khoán góp phần đẩy mạnh
hoạt động đầu tư chứng khoán trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung được sử dụng mang tính chất xuyên suốt và chỉ đạo là
phương pháp duy vật biện chứng , xem xét và giải quyết các vấn đề có liên quan
trong mối liên hệ phổ biến, trong trạng thái vận động và phát triển, có tính chất
hệ thống trong những kết quả, những mặt tích cực đã đạt được. Ngoài ra đề tài
còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp thu thập thông tin từ: Ủy
Ban chứng khoán Nhà nước, Trung tâm giao dòch chứng khoán, công ty chứng
khoán,…phương pháp thống kê, điều tra chọn mẫu, phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp so sánh,…

Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận án đã mô tả, phân tích thực trạng thò trường chứng khoán Việt Nam
nhằm đánh giá chuỗi sự kiện diễn tiến trên thò trường nhằm giúp cho các nhà
quản lý thò trường, nhà phát hành, nhà đầu tư có được một bức tranh hoàn hảo
phản ảnh nhòp độ hoạt động thò trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian
qua. Từ đó các nhà quản lý thò trường có thể hoạch đònh các công cụ phù hợp để
phát triển thò trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh việc nghiên cứu mô hình
kết nối thò trường chứng khoán Việt Nam và thò trường chứng khoán Singapore

sẽ góp phần tạo điều kiện hội nhập thò trường chứng khoán Việt Nam với thò
trường các nước khu vực.

4

CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Lý luận chung về thò trường chứng khoán
1.1.1 Tổng quan về thò trường chứng khoán
1.1.1.1 Sự cần thiết và tính tất yếu của thò trường chứng khoán
Một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế là việc tạo lập
các công cụ tài chính, để có được hệ thống thò trường tài chính (TTTC) năng
động và đạt được thò trường vốn hiệu quả. Một TTTC năng động sẽ là “nguồn
tài nguyên” bất tận để tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế. Ngoài ra, sự tồn tại
thò trường vốn hiệu quả sẽ đảm bảo cung ứng vốn cho đầu tư phát triển kinh tế,
đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế là
nhu cầu không giới hạn cho các quốc gia nên sự ra đời thò trường chứng khoán
(TTCK)-kênh huy động vốn dài hạn là tất yếu. TTCK là một đònh chế tài chính
trong thò trường vốn; hệ thống TTTC và là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của
nền kinh tế hiện đại.
Bước vào thế kỷ XXI, thò trường vốn toàn cầu đang thay thế hệ thống
ngân hàng thương mại (NHTM) truyền thống để trở thành kênh cung cấp nguồn
tài chính hiệu quả và quan trọng nhất cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc gia đối với các nước có nền kinh tế phát triển, như tại Anh-Mỹ tổng giá trò
tài sản trên thò trường vốn đã lớn hơn nhiều so với hệ thống ngân hàng. Hiện
tượng chứng khoán hóa nguồn tài chính không ngừng gia tăng, với thực tế một số
nghiệp vụ năng động, hiệu quả nhất của các NHTM đều liên quan đến việc
chuyển đổi các sản phẩm tín dụng thông thường thành những loại chứng khoán
có tính thanh khoản nên đã thúc đẩy hơn nữa sự phát triển thò trường vốn, TTCK.
5


Thực vậy, TTCK cung cấp các nguồn vốn dài hạn cho chính phủ và
doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế mở rộng sản
xuất kinh doanh. Ngày nay, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển theo cơ
chế thò trường đều có một TTCK hoạt động hữu hiệu. Lòch sử đã chứng minh sự
phát triển TTCK tại các nước gắn bó rất chặt chẽ với sự phát triển nền kinh tế
các nước như TTCK Anh quốc (1773), TTCK Đức (1778), TTCK Mỹ (1792),
TTCK Thụy Só (1876), TTCK Nhật (1878), TTCK Pháp (1801). Các TTCK của
các quốc gia mới nổi trong khu vực cũng đóng góp tích cực vào sự phồn vinh của
nền kinh tế đang phát triển như: TTCK Hong Kong (1946), TTCK Trung Quốc
(1949), TTCK Indonesia (1952), TTCK Nam Triều Tiên (1956), TTCK Đài Loan
và Thái Lan (1962), TTCK Malaysia và Singapore (1960).
TTCK có ý nghóa quan trọng như một van điều tiết hữu hiệu nhất các
nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi sử dụng kém hiệu quả đến nơi sử
dụng có hiệu quả cao hơn. Ngoài ra nó còn là nơi diễn ra quá trình chuyển
nhượng quyền sở hữu về vốn và tài sản vô cùng thuận lợi, là môi trường cho
việc đa dạng hóa các chủ thể sở hữu về vốn tại các doanh nghiệp. Với sự phát
hình thành TTCK sẽ giúp các nhà đầu tư (NĐT) có thể đa dạng hóa đầu tư, chia
sẽ rủi ro với cơ chế tinh vi hơn thông qua các công cụ tài chính, như: trái phiếu,
cổ phiếu, chứng chỉ quỹ,… và các loại chứng khoán phái sinh: quyền chọn, hợp
đồng tương lai,… nhằm mang lại cho công chúng các cơ hội đầu tư mới để gia
tăng lợi tức đầu tư và kiểm soát rủi ro với mức độ có thể chấp nhận.
1.1.1.2 Khái niệm thò trường chứng khoán
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về TTCK
Quan điểm thứ nhất cho rằng TTCK và thò trường vốn là một, chỉ là tên
gọi khác nhau của cùng một khái niệm. Nếu xét về nội dung, thò trường vốn biểu
6

hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán chứng khoán còn
TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dòch vốn cụ thể. Do đó, các thò

trường này không thể phân biệt, tách rời mà thống nhất và cùng phản ảnh các
quan hệ bên trong và bên ngoài của thò trường tư bản.
Quan điểm thứ hai nhận đònh TTCK được đặc trưng bởi thò trường vốn
không phải đồng nhất là một. Như vậy, TTCK và thò vốn thường khác nhau,
TTCK chủ yếu mua bán công cụ tài chính dài hạn như: trái phiếu Chính phủ, cổ
phiếu và trái phiếu công ty,…
Quan điểm thứ ba theo khảo sát thực tế ở Sở giao dòch chứng khoán
(SGDCK) cho rằng TTCK là thò trường cổ phiếu-Stock Market.
Tuy nhiên, một nhận đònh tương đối rõ ràng, đầy đủ phù hợp với sự phát
triển của TTCK hiện nay là:
TTCK có thể được đònh nghóa như là một cơ chế của hoạt động giao dòch
mua bán các loại tài sản tài chính dài hạn từ các lệnh giao dòch mua, bán chứng
khoán (buy order or sell order) [21].
Luật chứng khoán chỉ nhận đònh thò trường giao dòch chứng khoán là đòa
điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán chứng khoán và
giao dòch chứng khoán.
Bản chất thò trường chứng khoán
• Là thò trường thể hiện mối quan hệ giữa cung, cầu của vốn đầu tư,
giá của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá của vốn đầu tư
• Là đònh chế tài chính trung gian, nối kết các chủ thể cung–cầu vốn
tham gia trên thò trường.
Phân loại thò trường chứng khoán
7

• Theo quá trình luân chuyển vốn, TTCK bao gồm: thò trường sơ cấp
(Primary market) là thò trường của các loại chứng khoán mới phát hành và thò
trường thứ cấp (Secondary market) là thò trường của các loại chứng khoán đã
được giao dòch.
• Theo hình thức tổ chức thò trường, TTCK gồm: Thò trường tập trung
(Stock Exchange) hay là SGDCK là thò trường chính thức, giao dòch các chứng

khoán theo đúng các quy đònh pháp luật. Thò trường phi tập trung (Over- the-
counter market) là thò trường không có đòa điểm giao dòch chính thức, thò trường
của các nhà môi giới (Broker), nhà tự doanh chứng khoán mua bán với nhau,
giao dòch được diễn ra tại các quầy, sàn giao dòch của các thành viên thông qua
điện thoại hay mạng máy tính diện rộng.
• Theo hàng hóa, TTCK gồm: thò trường trái phiếu, thò trường cổ
phiếu và thò trường các công cụ dẫn xuất
• Theo phương thức giao dòch gồm thò trường giao ngay (Spot market)
và thò trường kỳ hạn (Future market).

Sơ đồ 1.1 Cơ cấu thò trường chứng khoán
1.1.1.3 Chức năng cơ bản thò trường chứng khoán trong cơ chế thò trường
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
8

Đây là chức năng quan trọng nhất của TTCK, TTCK sẽ thu hút và tập
trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế qua các công cụ tài chính đa
dạng, phong phú để có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển
hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội cũng như tài trợ cho các
nhu cầu tạo vốn, tăng vốn của các doanh nghiệp và Chính phủ. TTCK cũng là
yếu tố quyết đònh để thu hút vốn ĐTNN. Đây là yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ
có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trên phạm vi quốc tế.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các
công cụ đầu tư đa dạng. Các loại chứng khoán trên TTCK luôn có các đặc thù
khác nhau như: tính chất, khả năng sinh lời, độ rủi ro,… NĐT có khả năng lựa
chọn hàng hóa để phù hợp với nhu cầu, mục tiêu đầu tư và việc hoạch đònh danh
mục đầu tư. Vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Thông qua TTCK, các NĐT có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán

sở hữu thành tiền khi có nhu cầu. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc
tính hấp dẫn của chứng khoán đối với NĐT. Đây là yếu tố cho thấy tính linh
hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Một thò trường chứng khoán càng năng động và
hiệu quả (Efficient market) càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các
chứng khoán giao dòch trên thò trường
- Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp
Giá của chứng khoán là thước đo hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp một cách tổng hợp và chính xác. Thông qua giá thò trường của chứng
khoán giúp cho việc đánh giá, so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được
nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành
9

mạnh giữa các doanh nghiệp. Ngược lại, TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin
hoàn hảo sẽ góp phần đònh giá chứng khoán được chính xác
- Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vó mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy
bén và chính xác. Sự tăng giảm giá chứng khoán cho thấy dấu hiệu tăng trưởng
hoặc suy thoái kinh tế của một quốc gia. Vì thế, TTCK được coi là phong vũ
biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế vó mô: chính sách thuế, chính sách lãi suất, quản lý lạm phát,
về thu- chi ngân sách.
Các chức năng của TTCK có phát huy tác dụng còn phụ thuộc vào sự
quản lý, giám sát của nhà nước và vai trò của các chủ thể tham gia thò trường ở
mỗi quốc gia.
1.1.1.4 Các chủ thể tham gia thò trường chứng khoán
Các tổ chức, cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành 3 nhóm sau
Nhà phát hành-Issuer
Nhà phát hành (Tổ chức phát hành) là các tổ chức đã và đang thực hiện
việc phát hành chứng khoán, huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành là
người cung cấp chứng khoán-hàng hóa của TTCK.

- Chính phủ và chính quyền đòa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu đòa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu kho bạc.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty .
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ theo Luật đònh.
Nhà đầu tư -Investor
10

NĐT là những người thực hiện mua và bán chứng khoán trên TTCK. NĐT
có thể được chia thành 2 loại:
- NĐT cá nhân: là những cá nhân và hộ gia đình, có vốn nhàn rỗi tạm
thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tạo lợi nhuận.
- NĐT có tổ chức: hay còn gọi là các đònh chế đầu tư, thường xuyên mua
bán chứng khoán với số lượng lớn trên thò trường. Các tổ chức này thường có các
bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên viên có kinh nghiệm để nghiên cứu
thò trường và đưa ra các quyết đònh đầu tư.
Theo quy đònh Việt Nam, NĐT có tổ chức là: công ty chứng khoán
(CTCK), ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư chứng
khoán, tổ chức khác có kinh nghiệm hoạt động trong lónh vực tài chính đáp ứng
yêu cầu do Bộ Tài chính quy đònh. Mặt khác, các CTCK, các NHTM cũng có thể
trở thành NĐT chuyên nghiệp khi họ mua bán chứng khoán cho chính mình.
Các tổ chức kinh doanh trên TTCK-Dealer
- CTCK: là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, hoạt động trong
lónh vực chứng khoán, có thể thực hiện một hoặc một số các nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư,
bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán. Để có thể được thực
hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được vốn điều lệ
nhất đònh và phải được phép của các cơ quan có thẩm quyền đại diện Nhà nước.
- Các NHTM: một số nước, các NHTM có thể sử dụng vốn tự có để tăng
và đa dạng hóa lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. Tuy nhiên các

ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất đònh để
bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước cho
11

phép NHTM thành lập công ty con độc lập để kinh doanh chứng khoán và thực
hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
- Quỹ đầu tư chứng khoán: là một loại tổ chức tài chính trung gian, quỹ
hình thành từ vốn góp của người đầu tư ủy thác cho công ty quản lý quỹ
(CTQLQ), quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trò tài sản của quỹ vào chứng
khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán do CTQLQ cùng với các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước thành lập. Vốn điều lệ quỹ là số vốn bằng tiền do tất cả
người đầu tư thực góp và được ghi trong điều lệ quỹ.
Các tổ chức có liên quan đến TTCK
_ Các cơ quan quản lý của Chính phủ- Ủy ban chứng khoán Nhà nước
(State securities commission- SSC)
Đây là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt
động về chứng khoán và TTCK. Nhìn chung các cơ quan quản lý thò trường của
Chính phủ chỉ thực hiện các chức năng quản lý chung chứ không trực tiếp điều
hành và giám sát thò trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các qui
đònh điều chỉnh các hoạt động trên TTCK tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự quản
trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thò trường của mình.
Ở Việt Nam, cơ quan này là Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
được thành lập theo nghò đònh 75/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ. Sau hơn 8
năm hoạt động, vào ngày 19/02/2004 Chính phủ ban hành Nghò đònh
66/2004/NĐ-CP chuyển UBCKNN vào Bộ Tài chính. UBCKNN là cơ quan trực
thuộc Bộ Tài chính, thực hiên chức năng tổ chức, quản lý Nhà nước trong lónh
vực chứng khoán và TTCK
Với các chức năng cơ bản của UBCKNN nhằm đảm bảo duy trì TTCK
hoạt động ổn đònh, công bằng và minh bạch-TTCK hiệu quả (Efficient market).
12


Tính hiệu quả được thể hiện làm thế nào để giao dòch đạt hiệu quả, sinh lời và
ích lợi cho người kinh doanh cũng như người đầu tư. Các vấn đề này bao gồm:
a. Tập hợp và phổ biến các thông tin về giao dòch trên thò trường: khối
lượng giao dòch, giá đóng cửa và mở cửa,..
b. Tập hợp và phổ biến các thông tin thực tại về người phát hành cho các
NĐT mua và bán chứng khoán biết để quyết đònh mức giá thò trường
c. Kiểm tra và đề phòng sự gian lận và thao túng thò trường
d. Phát triển phương pháp giao dòch tốt hơn, hình thức tài trợ hiện đại hơn
e. Cải tiến việc thanh toán bù trừ
f. Thương mại hóa và quảng cáo nhằm mở rộng quyền sở hữu chứng
khoán cho nhiều NĐT trong công chúng
_ Các tổ chức tự quản- Self- Regulatory Organizations (SROs)
Nhìn chung các tổ chức tự quản gồm có Sở giao dòch chứng khoán-Stock
Exchange và Hiệp hội các nhàø kinh doanh chứng khoán- National Association of
securities Dealers.
• Sở giao dòch là tổ chức tự quản bao gồm các CTCK thành viên, trực
tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dòch chứng khoán thực hiện trên
Sở. SGDCK thực hiện vận hành chứng khoán thông qua bộ máy tổ chức và hệ
thống các quy đònh, văn bản pháp luật về giao dòch chứng khoán trên cơ sở phù
hợp với các quy đònh của pháp luật và UBCK. SGDCK là pháp nhân có chức
năng tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động giao dòch chứng khoán niêm yết.
SGDCK chòu sự giám sát của UBCK
Hoạt động trên SGDCK phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản :
• Nguyên tắc trung gian
13

• Nguyên tắc cạnh tranh đấu giá
• Nguyên tắc công khai
Thành viên SGDCK: Tuỳ theo pháp luật của mỗi nước, thành viên Sở có

thể là một pháp nhân, một thể nhân được cấp giấy phép ngành nghề. Trong
SGDCK xét theo tính chất thành viên, có ba loại thành viên sau:
- Thành viên là người môi giới chứng khoán (Broker): là người được cấp
giấy phép hành nghề môi giới. Họ mua bán chứng khoán theo yêu cầu của
khách hàng để hưởng hoa hồng
- Thành viên là người kinh doanh chứng khoán (Dealer): là người được
cấp giấy phép tự doanh. Họ là những người mua bán chứng khoán chính mình
bằng nguồn vốn của họ. Chủ thể kinh doanh chứng khoán tùy theo tính chất,
mục đích có thể là một NĐT (Investor) hay là nhà đầu cơ (Speculator)
- Thành viên vừa là người môi giới chứng khoán vừa là người kinh doanh
chứng khoán: là những CTCK lớn, có quy mô vốn lớn, có uy tín được cấp giấy
phép để thực hiện nghiệp vụ môi giới lẫn tự doanh chứng khoán.Thu nhập là
khoản hoa hồng môi giới và khoản lợi nhuận từ chênh lệch giá chứng khoán.
Ở SGDCK NEWYORK (NYSE) còn có 1 loại thành viên còn gọi là
chuyên gia (Specialist), có vai trò duy trì năng lực TTCK và cân bằng sự mất
cân đối tạm thời trong cung cầu của một loại chứng khoán
• Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của
các CTCK được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn ngành
kinh doanh chứng khoán và đảm bảo các lợi ích chung của các NĐT và TTCK.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện các chức năng điều hành và
giám sát TTCK như sau:
+ Đào tạo nghiên cứu trong lónh vực chứng khoán.
14

+ Khuyến khích các hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán
+ Ban hành và thực hiện các nguyên tắc tự điều hành trên cơ sở các quy
đònh pháp luật về chứng khoán hiện hành
+ Thu nhận các khiếu nại của khách hàng và điều tra các CTCK thành
viên để tìm ra các vi phạm, sau đó chuyển các kết quả điều tra tới CTCK đó để
giải quyết và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên

+ Tiêu chuẩn hóa các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán
+ Đại diện cho ngành chứng khoán, Hiệp hội đưa ra các đề xuất và gợi ý
với những cơ quan quản lý TTCK của Chính phủ
Ở Mỹ, NASD là Hiệp hội các tổ chức chứng khoán quốc gia duy nhất
được đăng ký tại UBCK tuân theo điều khoản 15A-Luật 1934. NASD có trách
nhiệm chính là quản lý các nhà môi giới- giao dòch hoạt động kinh doanh chứng
khoán trên thò trường OTC
1.1.2. Cơ chế vận hành TTCK
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có cơ chế vận hành của TTCK với các đặc
điểm khác nhau, xuất phát từ các quy đònh pháp lý, đặc điểm kinh tế- chính trò-
xã hội. Tuy nhiên, cơ chế vận hành của TTCK đều thực hiện quy trình về phát
hành và giao dòch mua bán chứng khoán. Ở Việt Nam, TTCK hoạt động trên nền
tảng pháp lý bao gồm các văn bản quy đònh ở Phụ lục số 1 và cơ chế vận hành
trên TTCK sơ cấp và thứ cấp được thể hiện như sau:
1.1.2.1 TTCK sơ cấp:
TTCK sơ cấp là phát hành chứng khoán, thực hiện chức năng cơ bản là tài
trợ vốn cho các nhà phát hành. Như vậy, trên thò trường này không có sự mua đi
bán lại các loại chứng khoán, chỉ thực hiện lần giao dòch đầu tiên
15

Hiện nay, việc phát hành các chứng khoán Việt Nam được thực hiện dưới
nhiều hình thức nhưng cơ bản là phát hành qua hai TTGDCK TP.HCM và Hà
Nội. Các quy đònh về phát hành cổ phiếu, trái phiếu và chứng chứng quỹ được
quy đònh ở Phụ lục số 1.
_ Trái phiếu Chính phủ được phát hành bao gồm: trái phiếu kho bạc,
trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu Chính quyền đòa phương, trái phiếu
ngoại tệ, trái phiếu đầu tư. Hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ có thể là
đấu thầu hoặc phương thức bảo lãnh và đại lý phát hành
+ Đối với hình thức đấu thầu tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ qua
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


Sơ đồ 1.2 Quy trình đấu thầu tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ
Có hai hình thức đấu thầu: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất hoặc kết hợp giữa
đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất qua Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
16

• Đấu thầu cạnh tranh lãi suất là việc các thành viên tham gia đấu
thầu đưa ra các mức lãi suất dự thầu của mình để Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam lựa chọn mức lãi suất trúng thầu
• Đấu thầu không cạnh tranh lãi suất là việc các tổ chức tham gia
đấu thầu không đưa ra các mức lãi suất dự thầu mà đăng ký mua tín phiếu kho
bạc, trái phiếu ngoại tệ theo mức lãi suất trúng thầu được xác đònh theo kết quả
của đấu thầu cạnh tranh lãi suất
Lãi suất trần là lãi suất tối đa của trái phiếu Kho bạc, trái phiếu ngoại tệ
phát hành do Bộ trưởng Bộ Tài chính thông báo trong từng thời kỳ
+ Đối với hình thức bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền đòa
phương
• Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra TTCK, phân phối
trái phiếu cho các NĐT, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu
còn lại chưa phân phối hết. Các loại trái phiếu phát hành theo phương thức bảo
lãnh bao gồm: trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu Chính quyền đòa phương, trái phiếu đầu tư
• Đại lý phát hành là việc tổ chức phát hành ủy thác cho các tổ chức
khác thực hiện bán trái phiếu cho các NĐT. Trường hợp không bán hết, tổ chức
đại lý phát hành được trả lại số trái phiếu còn lại cho tổ chức phát hành.
Các loại trái phiếu phát hành theo phương thức đại lý gồm: trái phiếu kho
bạc, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền đòa phương

_ Đối với cổ phiếu chủ yếu phát cổ phiếu của các DNNN thực hiện CPH.
được thực hiện theo các trường hợp sau:
17

• Bán đấu giá trực tiếp tại doanh nghiệp
• Bán cổ phần tại các tổ chức tài chính trung gian
• Bán cổ phần tại TTGDCK
Trong các hình thức bán cổ phần như trên thì hình thức bán cổ phần tại
TTGDCK là hình thức phổ biến nhất và quan trọng nhất hiện nay. UBCKNN đã
ban hành Quyết đònh số 01/2005/QĐ-UBCKNN, ngày 04/01/2005 về quy trình
đấu giá cổ phần tại TTGDCK và Quyết đònh số 491/QĐ-UBCKNN ngày
1/11/2005 về việc ban hành Quy chế mẫu về bán đấu giá cổ phần tại TTGDCK,
Hình thức phát hành cổ phiếu ra bên ngoài đối với các DNNN CPH theo Nghò
đònh 187/2004/NĐ-CP thể hiện quan điểm đổi mới của Chính phủ về việc xác
đònh giá cổ phiếu phát hành, việc đònh giá trò thực tế của phiếu phải do thò
trường xác đònh hoàn toàn phụ thuộc vào các NĐT.

Sơ đồ 1.3 Quy Trình Đấu Giá Cổ Phần
1. Đăng ký tổ chức đấu giá
2. Công bố thông tin trước khi tổ chức đấu giá
3. Đăng ký tham gia đấu giá và đặt cọc tiền
mua cổ phần
4. Bỏ phiếu tham gia đấu giá
5. Thực hiện đấu giá theo quy
đònh
6. Thông báo kết quả đấu giá
7. Thanh toán tiền và phân
phối cổ phần
8. Xử lý một số trường hợp đặt
biệt như cuộc đấu giá không

thành hay NĐT không mua hết
số cổ phần được mua,…
18

Bên cạnh phát hành cổ phiếu các doanh nghiệp cũng có thể phát hành trái
phiếu, các quy đònh phát hành trái phiếu được thể hiện qua Nghò đònh
52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Thông tư
75/2004/TT-BTC ngày 23/07/2004 về phát hành trái phiếu ra công chúng. Tuy
nhiên, thực tế còn rất hạn chế số lượng doanh nghiệp phát hành trái phiếu,
nguồn tài trợ này chưa thực sự phát huy hiệu quả trên TTCK Việt Nam.
1.1.2.2 TTCK thứ cấp
Thò trường thứ cấp là thò trường giao dòch các chứng khoán đã phát hành
trên thò trường sơ cấp, còn gọi là thò trường lưu hành với chức năng cơ bản là
thực hiện tính thanh khoản cho các loại chứng khoán, luân chuyển các nguồn
vốn đầu tư ngắn hạn sang dài hạn hoặc ngược lại. Tuy nhiên, việc mua bán
chứng khoán trên thò trường này không làm thay đổi nguồn vốn của tổ chức phát
hành chỉ mua bán các “quyền sở hữu công cụ tài chính”. Hiện nay, các quy đònh
về giao dòch chứng khoán trên thò trường thứ cấp tuân thủ theo các văn bản sau:
- Thông tư 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn
về thành viên và giao dòch chứng khoán.
- Quyết đònh số 244/2005/ QĐ-BTC, ngày 20/01/2005 về ban hành Quy
chế tạm thời tổ chức giao dòch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội.
- Quyết đònh số 238/2005/QĐ-TTg, ngày 29/09/2005 về tỷ lệ tham gia của
bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam (sẽ được thay thế theo Luật đầu tư)
Quy trình giao dòch trên trung tâm giao dòch chứng khoán xem phụ lục 2

Bên cạnh giao dòch khớp lệnh, TTGDCK còn cho phép các NĐT giao dòch
thỏa thuận (chủ yếu giao dòch trái phiếu Chính phủ), giao dòch mua bán trái
phiếu có kỳ hạn (giao dòch Repo) bước đầu đã tạo ra thò trường thứ cấp trái
phiếu sôi động, góp phần gia tăng quy mô giao dòch trên thò trường thứ cấp.

19

1.2 Thò trường chứng khoán và vấn đề tài trợ vốn cho các doanh nghiệp
trong quá trình hội nhập
Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm qua đã
và đang đóng góp đáng kể vào tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. Việt
Nam với tư cách là thành viên AFTA, thành viên ASEAN đã ký kết nhiều thỏa
thuận về tự do hóa khu vực, cũng như các Hiệp đònh Thương mại song phương
Việt-Mỹ, Hiệp đònh kinh tế Việt Nam-EU cho thấy hội nhập kinh tế quốc tế là
quyết tâm mong muốn của Việt Nam trong tiến trình phát triển kinh tế, thực hiện
đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Việc gia nhập
WTO sẽ mở khả năng sử dụng quá trình tự do hóa thương mại thế giới và toàn
cầu hóa sản xuất giúp cho Việt Nam đạt được các mục tiêu kinh tế nhất đònh
mang lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam xem Phụ lục 3
Để hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng phải mở cửa cho các
NĐTNN được tham gia kinh doanh trong nhiều lónh vực với những điều kiện
thông thoáng hơn như: lónh vực dòch vụ tài chính, dòch vụ ngân hàng,…cũng như
hội nhập thò trường tài chính Việt Nam trong đó hội nhập TTCK không thể
không xem xét. Dự đón trước được cơ hội mới, khi Việt Nam trở thành viên
WTO chắc chắn dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ được đổ vào thò trường
tài chính Việt Nam mạnh hơn, Bộ tài chính và UBCKNN đã đề xuất các nội
dung như sau:
• Một là, phối hợp các đơn vò liên quan nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền
chính sách tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam, đảm bảo các
nguyên tắc cam kết khi gia nhập WTO và cũng là để khuyến khích phát triển thò
trường. Tăng cường hợp tác song phương với các nước như Trung Quốc, Hàn
20

Quốc, Thái Lan, Thụy Só, Đức, Nhật Bản,… nhằm trao đổi thông tin và kinh
nghiệm xây dựng, phát triển TTCK và hỗ trợ để hoàn thiện hệ thống pháp lý

• Hai là, tham gia đề án kết nối TTCK trong khu vực để trình Hội nghò cấp
Bộ trưởng Bộ Tài chính ASEAN; trên cơ sở đó có kế hoạch triển khai đề án này
cho thò trường Việt Nam.
• Ba là, tích cực tham gia vào các hoạt động của tổ chức Ủy ban chứng
khoán quốc tế (IOSCO), đặc biệt là xây dựng lộ trình thực hiện các nguyên tắc
quản lý TTCK mà IOSCO đã khuyến cáo chung cho UBCK các nước
1.2.1 Hàng hóa của TTCK Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế
Hàng hóa là các loại chứng khoán. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận
các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản
và vốn của tổ chức phát hành, được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán
ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền
mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương
lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
1.2.1.1 Hàng hóa chứng khoán trên TTCK nội đòa
• Chứng khoán vốn- Cổ phiếu: là chứng chỉ do công ty cổ phần (CTCP) phát
hành xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của cổ đông góp vốn
trong công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên
- Cổ phiếu thường: là cổ phiếu phổ biến nhất và bắt buộc phải có tại
CTCP, nó xác nhận quyền góp vốn khi mua cổ phần của các cổ đông thường (cổ
đông phổ thông)
- Cổ phiếu ưu đãi: là một giấy chứng nhận cổ đông được ưu tiên so với cổ
đông thường về mặt tài chính nhưng bò hạn chế về quyền hạn với CTCP
21

Nhà phát hành có thể phát hành các loại cổ phiếu ưu đãi như sau: cổ
phiếu ưu đãi tích lũy, cổ phiếu ưu đãi không tích lũy, cổ phiếu ưu đãi có chia
phần, cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi
có thể chuộc lại,…
• Chứng khoán nợ- Trái phiếu: là một hợp đồng nợ dài hạn được ký kết giữa
chủ thể phát hành (Chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay (Trái chủ),

đảm bảo một sự chi trả lợi tức đònh kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người sở hữu trái
phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá của
trái phiếu và lãi suất trái phiếu.
Nhà phát hành có thể phát hành các loại trái phiếu như sau: trái phiếu có
thế chấp, trái phiếu tín chấp, trái phiếu có thể chuyển đổi, trái phiếu có lãi suất
ổn đònh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu chiết khấu,…
• Chứng chỉ quỹ đầu tư: là một loại chứng khoán dưới hình thức chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ do công ty quản lý quỹ thay mặt Quỹ công chúng phát
hành, xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người đầu tư đối với một hoặc một
số đơn vò quỹ của một Quỹ công chúng.
• Chứng khoán dẫn xuất- Derivatives: là các công cụ tài chính có nguồn gốc
từ chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với chứng khoán cơ sở (cổ phiếu, trái
phiếu). Các loại chứng khoán phái sinh bao gồm:
+ Hợp đồng tương lai (Future contract): là hợp đồng mua bán chứng khoán
mà tại ngày giao dòch đôi bên thoả thuận về hàng hóa, số lượng và giá cả nhưng
việc thanh toán và giao hàng sẽ diễn ra ở một thời điểm trong tương lai .
Khác với TTCK mua bán giao ngay (spot market), thò trường tương lai là
loại thò trường mà ở đó việc buôn bán xảy ra không phải đối với bản thân hàng
hóa hay chứng khoán cơ sở mà là các công cụ dẫn xuất (derivatives ) từ hàng
22

hóa hay chứng khoán cơ sở. Hợp đồng tương lai là công cụ cho các NĐT phòng
ngừa rủi ro khi có những biến động bất lợi về giá
+ Hợp đồng quyền chọn (Options): là một hợp đồng giữa hai bên, người
mua quyền chọn và người bán quyền chọn chứ không phải nghóa vụ được phép
mua hay bán một tài sản nào đó vào thời điểm xác đònh trong tương lai với giá
thỏa thuận ở hiện tại.
Người mua quyền chọn sẽ được vò thế dài hạn (Long option) để mua hay
bán hàng hóa hay chứng khoán đã được quy đònh trên hợp đồng với các điều
khoản: ngày đáo hạn (an expiration) là thời điểm quyền chọn hết hạn; Giá thực

hiện (a strike price) là giá mua hay bán tài sản quy đònh trên hợp đồng vào thời
điểm hết hạn; giá quyền chọn còn gọi là phí quyền chọn (premium) là một
khoản phí mà người mua phải trả cho người bán để có quyền chọn. Người bán
quyền chọn có vò thế ngắn hạn (Short option) thực hiện theo yêu cầu của người
mua quyền. Về cơ bản có hai loại quyền chọn: Quyền chọn mua-Call Option;
quyền chọn bán-Put Option.
Việc đònh giá quyền chọn hay phí là một nghệ thuật hơn là khoa học. Sự
thật trong giá hợp đồng quyền chọn hầu như luôn có một phần sự khác biệt về
các giả đònh được xây dựng trong mô hình đònh giá hợp đồng quyền chọn. Có
nhiều mô hình đònh giá hợp đồng quyền chọn như:
- Mô hình Black-Scholes 1973: là mô hình đầu tiên và có ý nghóa về mặt lòch sử
nhất đã được Fisher Black và Myron Scholes trình bày vào tháng 5/1973. Mô
hình Black-Scholes được ứng dụng trên quyền chọn mua hoặc bán cổ phiếu
không trả cổ tức theo kiểu Châu Âu, có 4 giả đònh cần thiết: giá có thể thay đổi
nhanh chóng nhưng không đột ngột; các khoản vay và cho vay với lãi suất phi
23

rủi ro từ thời điểm hiện tại cho đến đáo hạn; không có phí giao dòch và thuế; kết
hợp tỷ suất sinh lời trên tài sản là phân phối chuẩn.
- Mô hình đònh giá của Robert Merton: mô hình này là sự cải tiến của mô hình
Black-Scholes để hình thành phí quyền chọn trên cổ phiếu có trả cổ tức và chỉ số
chứng khoán theo kiểu Châu Âu của Robert Merton.
- Mô hình đònh giá quyền chọn Binomial-1978: kỹ thuật hữu dụng và rất phổ
biến để đònh giá Option chứng khoán là cấu trúc cây Binomial của William
F.Sharpe. Đây là một dạng sơ đồ được trình bày theo lối nhò phân của giá chứng
khoán có khả năng xảy ra trong suốt vòng đời của Option.
+ Hợp đồng kỳ hạn-Forward là một thỏa thuận giữa người mua và người
bán thực hiện một giao dòch hàng hóa ở thời điểm chắc chắn trong tương lai với
khối lượng và mức giá xác đònh. Tuy nhiên, không giống như hợp đồng tương lai,
hợp đồng kỳ hạn không trao đổi trên thò trường, không được đònh giá hàng ngày.

Hợp đồng kỳ hạn không phải theo tiêu chuẩn của thò trường riêng biệt, ngày thực
hiện hợp đồng được xác đònh tuỳ theo từng hợp đồng. Giá trong hợp đồng kỳ hạn
là giá giao hàng, tại thời điểm ký hợp đồng, giá chuyển giao được chọn để giá trò
của hai bên mua bán là bằng không. Điều này có nghóa không có chi phí khi mua
bán hợp đồng kỳ hạn.
+ Quyền mua cổ phần-Right là loại chứng khoán ghi nhận quyền dành
cho các cổ đông hiện tại của CTCP được mua trước một số lượng cổ phần trong
đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của
họ trong công ty. Giá mua cổ phần thường thấp hơn mức giá chào bán ra công
chúng trong một thời hạn nhất đònh. Các chủ sở hữu Right có thể chuyển nhượng
Right trên TTCK. Thông thường, quyền mua cổ phần có thời hạn ngắn hạn (từ 2-
4 tuần), việc phát hành quyền được quy đònh trong điều lệ tổ chức của CTCP
24

+ Chứng quyền-Warrant là loại chứng khoán được phát hành kèm theo
trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người nắm giữ chứng khoán được
quyền mua một khối lượng cổ phiếu phổ thông nhất đònh theo mức giá được xác
đònh trước trong thời kỳ nhất đònh, thời hạn của chứng quyền là dài hạn, thường
là một vài năm có khi là vónh viễn. Người sở hữu chứng quyền không có tư cách
là cổ đông phổ thông trong công ty, không nhận cổ tức, không có quyền biểu
quyết cho tới khi thật sự chuyển chứng quyền thành cổ phiếu phổ thông.
Trong giai đoạn đầu thành lập TTCK chủ yếu giao dòch các chứng khoán
nêu trên nhưng trong xu thế toàn cầu hóa thì hàng hóa của thò trường phải được
đa dạng hóa hơn theo thông lệ quốc tế .
1.2.1.2 Hàng hóa chứng khoán trên thò trường chứng khoán quốc tế
Từ những năm 1980, các NĐT ngày càng đầu tư mạnh vào chứng khoán
nước ngoài, việc đầu tư đó sẽ còn tăng lên do các tiến bộ khoa học kỹ thuật và
các sáng kiến quản lý thúc đẩy toàn cầu hóa thò trường chứng khoán. Các chứng
khoán nước ngoài có thể giao dòch là:
• Chứng chỉ lưu ký chứng khoán toàn cầu-GDR

Một trong những công cụ chủ yếu được các NĐT Mỹ sử dụng để nắm giữ
cổ phiếu của nước ngoài là giấy chứng nhận lưu ký chứng khoán Mỹ-DDR
American Depositart Receipt. Từ năm 1983, các quy chế của UBCK Mỹ quy
đònh phân biệt giữa ADR và các cổ phiếu lưu ký Mỹ “ADS”. Theo đó, ADR là
chứng chỉ vật chất chứng nhận ADS (tương tự chứng chỉ cổ phiếu chứng nhận
các cổ phần). ADR có thể biểu thò một loại chứng khoán của công ty phát hành
nước ngoài hay các phần chia nhỏ hoặc phần gộp một loại chứng khoán của
công ty phát hành nước ngoài. Tỷ lệ các chứng khoán đó biểu thò bằng một ADR
được sử dụng để khắc phục sự khác biệt giữa các mức đònh giá truyền thống của

×