Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phòng ngừa còi xương cho trẻ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.93 KB, 7 trang )

Phòng ngừa còi
xương cho trẻ

Còi xương (CX) là bệnh
loạn dưỡng xương do
thiếu vitamin D hoặc do
rối loạn chuyển hóa
vitamin D trong cơ thể.
Là bệnh hay gặp ở trẻ
nhỏ, nhất là trẻ dưới 1
tuổi. Tỷ lệ CX ở trẻ dưới
3 tuổi ở nước ta là 9,4%
(theo Bệnh viện Nhi
Trung ương).






Theo số liệu thống kê tại Trung tâm Khám tư vấn Viện
Dinh dưỡng năm 2007 thì bệnh còi xương là bệnh hay gặp
nhất tại trung tâm, chiếm tới gần một nửa số trẻ, đạt tỷ lệ
45,5%, đáng lo là bệnh còi xương có xu hướng không giảm
qua nhiều năm theo số liệu thống kê từ năm 2003 tại trung
tâm và thậm chí năm 2007 còn đạt tỷ lệ cao hơn những năm
trước.


Vậy chúng ta hãy cùng tìm hiểu nguyên nhân tại sao bệnh
còi xương do thiếu vitamin D lại vẫn tồn tại qua nhiều năm


nay và có xu hướng tăng lên?


Nguồn vitamin D của con người

Có 2 nguồn: ngoại sinh và nội sinh

Ngoại sinh: từ thức ăn. Nguồn này chỉ cung cấp rất ít
vitamin D, khoảng 20-40UI/ngày (10UI/1 lít sữa bò, < 50
UI/lít sữa mẹ). Từ đó cho thấy nồng độ vitamin D trong sữa
mẹ cao hơn hẳn và cũng dễ hấp thu hơn sữa bò, vì vậy tỷ lệ
trẻ còi xương ở trẻ bú mẹ thấp hơn hẳn trẻ bú sữa ngoài.

Nội sinh: Khi da được tiếp xúc với tia cực tím, ví dụ ánh
sáng mặt trời thì 7-dehydro cholesterol ở trong da sẽ
chuyển đổi thành vitamin D3.


Nguyên nhân còi xương

Thiếu ánh nắng mặt trời: đây là nguyên nhân hay gặp nhất
do thói quen kiêng cữ, sợ trẻ tiếp xúc nắng sớm sẽ hay bị
ốm. Điều này rất đáng buồn vì nước ta là nước nhiệt đới,
hầu như quanh năm ánh sáng thừa thãi vậy mà tỷ lệ còi
xương vẫn cao chỉ vì thiếu hiểu biết không cho con trẻ phơi
nắng.

Các bà mẹ cần lưu ý trẻ 2 tuần tuổi đã cần được tắm nắng:
tốt nhất là vào buổi sáng sớm (trước 8 giờ) nếu không có
thời gian thì buổi chiều muộn. Trung bình yêu cầu 2

tiếng/tuần hay 10-15 phút/ngày tùy vào khả năng của trẻ và
mức độ phát triển xương vận động (nếu trẻ ít ốm hoặc trẻ
có biểu hiện của chớm còi xương có thể tắm nắng lâu hơn).

Sai lầm trong chế độ ăn dặm của trẻ: ăn sữa bò ở trẻ dưới 1
tuổi: là lứa tuổi nhu cầu vitamin D đang rất cao và nguồn
dự trữ canxi hay thiếu hụt ở trẻ đẻ nhẹ cân, đẻ non, vì vậy ở
những trẻ này rất thiếu vitamin D dẫn đến còi xương.

Hoặc những trẻ ăn quá nhiều chất bột, đạm (thịt) gây tình
trạng toan chuyển hóa - tăng đào thải canxi ra nước tiểu.
Hoặc do trong chế độ ăn dặm hằng ngày không cho hoặc
cho quá ít dầu/mỡ dẫn đến không có dung môi hòa tan để
hấp thu được vitamin D.

Các yếu tố thuận lợi khác: tuổi (càng nhỏ càng dễ bị còi
xương), đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai, bệnh nhiễm
khuẩn, trẻ rối loạn tiêu hóa kéo dài.

Chẩn đoán

Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.

Triệu chứng lâm sàng:

Các biểu hiện ở hệ thần kinh:

Trẻ ra mồ hôi nhiều kể cả ban đêm (mồ hôi trộm); Trẻ kích
thích khó ngủ, hay giật mình; Rụng tóc gáy (do trẻ ra mồ
hôi nhiều); Đối với CX cấp có thể gặp: tiếng thở rít thanh

quản, cơn khóc lặng, hay nôn, nấc khi ăn. Có thể co giật do
hạ canxi máu; Trẻ chậm phát triển vận động: chậm biết lẫy,
chậm biết bò.

Các biểu hiện ở xương:

Thóp chậm liền, bờ thóp mềm, bướu trán, bướu đỉnh; Chậm
mọc răng, răng hay bị sâu, răng mọc lộn xộn; Lồng ngực
hình gà, chuỗi hạt sườn; Vòng cổ chân, vòng cổ tay, xương
chi cong.

Toàn thân: nếu không được điều trị, trẻ chán ăn, suy dinh
dưỡng, da xanh thiếu máu, lách to.

Xét nghiệm cận lâm sàng:

Phosphatase kiềm tăng (bình thường 40-140UI/l).
Phosphatase kiềm về bình thường khi còi xương điều trị
khỏi.

Canxi máu: bình thường hoặc giảm (hay gặp trong CX cấp,
nếu canxi ion giảm dưới 0,75mmol/l có thể gây co giật).

Phospho máu: giảm nhẹ.

25 (OH) cholecalciferol giảm dưới 25nmol/l (bình thường
25-105nmol/l).

XQ xương:


Xương chi: Xương mất chất vôi. Đầu xương to bè. Đường
cốt hóa nham nhở, lõm. Điểm cốt hóa chậm.

Xương lồng ngực: có hình nút chai.

Điều trị: Nên theo đơn thuốc điều trị của bác sĩ chuyên
khoa, vì vitamin D rất dễ bị quá liều gây ngộ độc thần kinh
nguy hiểm cho trẻ.

Điều trị bằng vitamin D: ergocalciferol, cholecalciferol kéo
dài từ 4-6 tuần (đặc biệt có bệnh cấp tính hoặc nhiễm
khuẩn). Sterogyl (ergocalciferol tan trong cồn) 1 giọt chứa
400UI vitamin D. Infadin (ergocalciferol tan trong dầu) 1
giọt chứa 800UI vitamin D. Vitamin D 200.000UI 1 liều
duy nhất. Dùng theo chỉ định của bác sĩ.

Điều trị phối hợp: uống thêm các loại vitamin, muối canxi.

Nếu có co giật do thiếu canxi: calcium gluconat truyền tĩnh
mạch.

×