Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.05 KB, 6 trang )
Lịch sử:
Trà từ xưa có rất nhiều tên gọi: tu, she, chuan, jia, ming,… ngày nay nó được gọi
cha bên Tàu, cha hay sa bên Nhật, tchai bên Nga, tea bên Anh, tee bên Đức, thé
bên Pháp,…toàn những chữ đồng âm. Lúc ban đầu, cách dùng trà có phần rắc rối
: lá được ẩm hơi nước, cán nghiền nát, vo thành viên rồi đem nấu với hành,
gừng, cam, sữa và nhiều gia vị khác gọi là bánh trà hay đoàn trà. Thêm vào bơ,
kem sữa, lối ăn nầy hiện còn được thông dụng bên Tây Tạng. Trên thế giới ngày
nay ít thấy có nơi khác còn ăn trà như vậy.
Ở Châu Á, trà liên quan mật thiết với Phật giáo. Tăng lữ khi ngồi thiền "cần tịnh
tọa, điều tâm, quán chiếu tự tánh, tiêu từ tạp niệm, để đạt trạnh thái khinh an,
minh tịnh,… Trà lúc thức uống để thần tỉnh não, xua đuổi ma ngủ…."
Từ đấy trong tu viện sinh ra trà đường, nơi thảo luận, trà cổ, nơi đánh trống chiêu
tập tăng ni, trà đầu, vị tăng coi việc nấu trà (Tảo chữ phàm phu, Triệu Châu :
"uống trà đi", Giác Ngộ số 31, 1999). Dần dần, thú uống trà rời chùa chiền lan
qua cung đình, quan lại, sĩ phu, thương gia. Song song với Phật giáo, Lão giáo
lấy trà làm thuốc trường sinh, góp phần phổ biến tục dùng trà vào quần chúng.
Cách dùng trà thể hiện nét văn hóa của người Việt
Người Việt dùng trà dù theo cách truyền thống nào: từ độc ẩm, đối ẩm hay quần
ẩm đều làm toát lên cái nét văn hóa thuần chất của người Việt. Người xưa có câu:
"Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh", đó chính là cái thú "thưởng"
trà thực thụ.
"Nhất thủy": để có một ấm trà ngon,
trước tiên phải chú ý đến nước. Nước
dùng pha trà thường phải là thứ nước
mưa được hứng giữa trời, hay từ các
nguồn suối tự nhiên.
"Nhì trà": đứng thứ hai sau nước là cách
chọn trà
Tiếp đến là dụng cụ pha trà gồm chén
trà và bình trà, "tam bôi, tứ bình"
Và cuối cùng, "ngũ quần anh" chính là "bạn trà".