Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Báo cáo: một số giải pháp nhằm giảm nhập siêu cho 6 tháng cuối năm 2010 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.27 KB, 49 trang )

GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

















1
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân


LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, kinh tế Việt Nam đã có
những bước chuyển mình mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực. Nền kinh tế đã đạt
được những thành tựu đáng kể nhờ vào các chính sách mở cửa kinh tế. Đặc biệc là
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh qua các năm cùng
với sự gia tăng thị trường xuất khẩu không chỉ riêng khu vực ASEAN mà còn trên


khắp các châu.
Điều đó chứng tỏ chúng ta đã tận dụng tốt những ưu thế, phát huy hết năng lực
xuất khẩu hàng hóa trong nước, đưa hàng hóa mang nhãn hiệu “Made in Vietnam”
tiến xa hơn, sâu hơn vào thị trường các nước bạn. Tuy nhiên cùng đồng hành với
việc kim ngạch xuất khẩu tăng qua các năm, thì khim ngạch nhập khẩu cũng tăng,
thậm chí tăng cao hơn so với xuất khẩu do nhu cầu về các mặt hàng nguyên liệu,
máy móc, công nghệ của nền kinh tế ngày càng nhiều.
Chính điều này cũng gây nên tình thế nan giải cho nền kinh tế Việt Nam, luôn
phải đối diện với sự thâm hụt của cán cân thanh toán. Từ năm 2003-2008, tỉ lệ
nhập siêu bình quân của Việt Nam trên 17% , đặc biệc là những năm gần đây tỉ lệ
nhập siêu đang có xu hướng gia tăng. Riêng đối với 6 tháng đầu năm 2010 vừa qua
tỉ lệ nhập siêu đã là 20,9% , giá trị nhập siêu là 6,7 tỉ USD. Đây là vấn đề nan giải
cho các nhà chức trách Việt Nam tìm ra nguyên nhân và các giải pháp hợp lí nhằm
kìm hãm tốc độ tăng nhập siêu cho 6 tháng cuối năm 2010, và cho nền kinh tế
những năm tiếp theo.
Chính vì lí do trên, bài viết xin đề cập về một số giải pháp nhằm giảm nhập siêu
cho 6 tháng cuối năm 2010. Tuy đã tham khảo nhiều tài liệu, và có phân tích chọn
lọc tuy nhiên không tránh khỏi sai sót, mong cô cho ý kiến.
2
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM
QUA
1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của nước ta đã gia tăng nhanh chóng trong
những năm qua.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD trong năm 1990 lên trên 5,4
tỷ USD năm 1995, lên gần 14,5 tỷ USD năm 2000, lên gần 32,5 tỷ USD năm 2005,
lên trên 39,8 tỷ USD trong năm 2006 và đạt 48,38 tỷ USD trong năm 2007, năm
2008 đạt 62,9 tỷ USD, năm 2009 đạt 56,6 tỷ USD.

Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP cũng tăng nhanh từ 30,8% năm 1990 lên
46,5% năm 2000, lên 61,3% năm 2005, lên 65% năm 2006 và 67% năm 2007 -
thuộc loại cao so với các nước (đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, đứng thứ 5 ở
châu á và thứ 8 trên thế giới).
Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người cũng tăng từ 36,4 USD năm 1990, lên
75 USD năm 1995, lên 186,8 USD năm 2000, lên 391 USD năm 2005, lên 473,2
USD năm 2006 và khả năng năm 2007 đạt 557 USD.
Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu những năm gần đây
Trị giá và mặt hàng xuất khẩu sơ bộ năm 2008
Tên hàng ĐVT
Sơ bộ năm 2008
Lượng
Trị giá
(1000 USD)
Gạo Tấn 4 741 858 2 894 441
Dầu thô " 13 752 305 10 356 846
Hàng hải sản 1000 USD 4 510 116
3
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Hàng dệt may " 9 120 418
Giày dép các loại " 4 767 826
Máy vi tính, sản phẩm điện tử &
linh liện " 2 638 378
Gỗ và sản phẩm gỗ " 2 829 283
Sản phẩm đá quý & kim loại
quý " 793 495
Cao su " 658 342 1 603 596
Trị giá và mặt hàng nhập khẩu sơ bộ năm 2008
Tên hàng ĐVT

Sơ bộ năm 2008
Lượng
Trị giá
(1000 USD)
Thức ăn gia súc và nguyên liệu 1000 USD 1 747 296
4
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Xăng dầu các loại " 12 963 948 10 966 111
Hoá chất 1000 USD 1 775 522
Chất dẻo nguyên liệu Tấn 1 751 089 2 945 050
Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày " 2 355 102
Sắt thép các loại Tấn 8 263 582 6 720 637
Kim loại thường khác " 436 772 1 784 691
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh
kiện 1000 USD 3 714 271
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ
tùng " 13 993 753
Vải các loại 1000 USD 4 457 807
Tên hàng ĐVT
Sơ bộ năm 2009
Lượng
Trị giá
(1000 USD)
Hàng hải sản 1000 USD 4251313
5
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Gạo " 5958300 2663877
Dầu thô " 13372877 6194595

Gỗ và sản phẩm gỗ " 2597649
Hàng dệt may " 9065620
Giày dép các loại " 4066761
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm " 2731556
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh
liện " 2763019
Máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng
khác " 2059305
Trị giá và mặt hàng xuất khẩu sơ bộ năm 2009
Trị giá và mặt hàng nhập khẩu sơ bộ năm 2009
Tên hàng ĐVT
Sơ bộ năm 2009
Lượng
Trị giá
(1000 USD)
6
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Xăng dầu các loại " 12705744 6255488
Hóa chất " 1624704
Chất dẻo nguyên liệu Tấn 2192902 2813161
Sản phẩm từ giấy 1000 USD 324287
Vải các loại 1000 USD 4226364
Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày " 1931907
Sắt thép các loại Tấn 9748715 5360907
Kim loại thường khác Tấn 550172 1624965
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh
kiện " 3953966
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng " 12673170
Trị giá và mặt hàng xuất khẩu sơ bộ 03 tháng đầu năm 2010

Tên hàng ĐVT
Sơ bộ 03 tháng
Lượng
Trị giá
(1000 USD)
7
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Hàng hải sản 1000 USD 895256
Gạo " 1442977 792565
Dầu thô " 2237768 1345471
Hàng dệt may " 2224071
Giày dép các loại " 1006087
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm " 49593
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh
liện " 699940
Máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác " 649566
Gỗ và sản phẩm gỗ " 746939
Trị giá và mặt hàng nhập khẩu sơ bộ 03 tháng đầu năm 2010
Tên hàng ĐVT Sơ bộ 03 tháng
8
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Lượng
Trị giá
(1000 USD)
Xăng dầu các loại " 2593429 1576738
Hóa chất " 447228
Chất dẻo nguyên liệu Tấn 493092 765662
Sản phẩm từ chất dẻo 1000 USD 297249

Vải các loại 1000 USD 1000310
Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày " 507497
Sắt thép các loại Tấn 1754350 1118621
Kim loại thường khác Tấn 144191 543156
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện " 987439
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng " 2910497
Sự tăng tốc của xuất khẩu của Việt Nam do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân quan trọng là do mở rộng thị trường xuất khẩu. Vậy từ thị trường xuất
khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay có thể rút ra một số nhận xét
9
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
đáng lưu ý.
Thứ nhất, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ nước ta đã tăng nhanh
trong hơn mười năm qua.
Trước đổi mới, Việt Nam chủ yếu có quan hệ buôn bán với các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước bạn bè có cảm tình với Việt Nam. Từ
sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt
Nam bước đầu được mở rộng. Nhưng do Việt Nam còn là nền kinh tế thiếu hụt, lại
vẫn còn bị bao vây cấm vận, nên số nước và vùng lãnh thổ đầu tư này vẫn còn rất ít
và quy mô xuất khẩu của Việt Nam cũng còn rất nhỏ bé.
Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình
thường, Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh
thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã tăng nhanh.
Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi
Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007,
hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt
Nam. Cũng vì thế mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng.
Thứ hai, trong 200 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam, số đạt

trên 100 triệu USD có 28, số đạt trên 500 triệu USD có 16, số đạt trên 1 tỷ USD có
7, đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản, CHND Trung Hoa, Australia, Singapore,
Đức, Malaysia, Anh. Như vậy, bên cạnh việc mở rộng thị trường, theo phương
châm đa dạng hoá, đa phương hoá, việc xác định các thị trường trọng điểm là hết
sức cần thiết để giảm chi phí vận chuyển, tiếp thị quảng cáo Tuy nhiên, việc "bỏ
trứng vào một giỏ" cũng là điều nên tránh và việc mở rộng thị trường để tăng
lượng tiêu thụ, phòng tránh những rủi ro khi xảy ra ở một thị trường nào đó (chẳng
hạn như việc kiện bán phá giá).
Thứ ba, trong các thị trường trên có một số thị trường truyền thống, thị trường
tiềm năng, thị trường mới, thì kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam còn thấp, như
Indonesia, Mông Cổ, các nước Trung Nam Á, (kể cả Ấn Độ), các nước xã hội chủ
nghĩa cũ, các nước Mỹ La tinh, các nước châu Phi, các nước Châu Đại Dương (trừ
Australia là thị trường lớn).
Thứ tư, trong hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ buôn bán với Việt Nam,
thì: Việt Nam đã có vị thế xuất siêu đối với 159 nước và vùng lãnh thổ, trong đó
10
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
xuất siêu lớn là Mỹ, Australia, Anh, Philippines, Đức, Bỉ, Việt Nam còn ở vị thế
nhập siêu đối với 47 nước và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều nhất là Đài Loan, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Thụy Sĩ, Ấn Độ, Kuwait,
Theo đó, thì nhập siêu của Việt Nam chủ yếu là ở các thị trường gần, chưa phải là
nơi có công nghệ nguồn; còn xuất siêu của Việt Nam lại chủ yếu là ở các thị
trường xa, thị trường có công nghệ nguồn.
Theo kết quả của báo cáo "Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam", tiềm
năng xuất khẩu lớn nhất thuộc về các ngành hàng: hạt điều, dầu lửa, đồ gỗ, than đá,
da giày
phê được đánh giá là một trong những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu Tiếp đó là
sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thuỷ hải sản, cao su, đóng tàu, thuỷ tinh, cà phê, máy
móc nông nghiệp, hạt tiêu, đồ gia dụng, đồ chơi và hàng may mặc.

Trong đó, các chuyên gia đánh giá những ngành hàng may mặc, giày dép, dầu lửa,
thuỷ hải sản, đồ gỗ và cà phê không chỉ đóng vai trò trụ cột quan trọng nhất của
Việt Nam ở thời điểm hiện tại về mặt doanh thu xuất khẩu mà sẽ vẫn giữ vững vai
trò này trong tương lai, được xếp vào nhóm những ngành hàng có chỉ số tiềm năng
xuất khẩu cao nhất. Kim ngạch xuất khẩu của mỗi ngành hàng này có thể đạt mức
trên 500 triệu USD/năm.
Còn các ngành hàng quy mô trung bình nhưng lại có tiềm năng xuất khẩu cao gồm
cao su, thủ công mỹ nghệ, than đá, đồ gia dụng, hạt tiêu và hạt điều. Đồ chơi, thuỷ
tinh, máy móc nông nghiệp và đóng tàu là những ngành hàng nhỏ về mặt doanh
thu xuất khẩu ở hiện tại nhưng lại có tiềm năng quan trọng hơn trong tương lai.
Ngược lại, tiềm năng xuất khẩu có thể sẽ giới hạn (dưới 100 triệu USD/ năm/
ngành hàng) đối với sản phẩm sữa, sản phẩm từ sợi đay, rau quả, gạo, hoa tươi, ô
tô - xe máy, hàng dệt gia dụng.
1.2 Các thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam
1.2.1 Hoa Kỳ
Với việc Hoa Kỳ thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt
Nam vào cuối năm 2006, quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai nước đã được bình
thường hóa hoàn toàn. Trong những năm qua, quan hệ này đã phát triển rất tốt đẹp.
Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Năm 2009, mặc dù, nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ giảm mạnh do tác động của
khủng hoảng tài chính, song xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ vẫn ước đạt
khoảng 12,5 tỷ USD, tương đương với khoảng 21% tổng kim ngạch xuất khẩu của
11
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
ta. Hiện nay, Hoa Kỳ là một trong những nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam.
Nhiều tập đoàn, công ty lớn của Hoa Kỳ như Intel, IBM, Citi Group, Coca Cola,
Pepsi Cola, Chevron, AES đã hiện diện tại Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu của
ta sang Hoa Kỳ vẫn còn gặp nhiều khó khăn do chưa được hưởng ưu đãi thuế quan
phổ cập chung dành cho các nước đang và kém phát triển (GSP) cũng như một số

mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta đang phải chịu thuế chống bán phá giá của Hoa
Kỳ như cá tra, cá basa và tôm.
Kim ngạch xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ năm 2002 tăng hơn gấp đôi so với năm
2001, năm 2003 tăng gần gấp đôi so với năm 2002 và trong giai đoạn 2001-2008,
xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng hơn mười lần từ con số 1,05 tỷ USD
năm 2001 lên tới 11,9 tỷ USD năm 2008, chủ yếu là các mặt hàng may mặc, giày
dép, đồ gia dụng.
BTA cũng quy định giảm thuế nhập khẩu vào Việt Nam cho một số sản phẩm của
Hoa Kỳ, nhờ đó kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam cũng tăng lên
nhanh chóng.
Quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại đã mang lại những lợi ích to lớn cho nhân
dân hai nước. Ngoài các nội dung về thương mại hàng hóa, BTA còn có các nội
dung về đầu tư, dịch vụ và bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Nhờ những cam kết bảo hộ và mở cửa thị trường đầu tư và bảo hộ sở hữu trí tuệ
của Việt Nam mà các các doanh nghiệp Hoa Kỳ yên tâm hơn và có nhiều cơ hội
đầu tư hơn ở Việt Nam. Kết quả là đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong những
năm qua đã tăng lên nhanh chóng. Hoa Kỳ hiện cũng đã vươn lên trở thành nhà
đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam.
1.2.2 Trung Quốc
Ngày 22-6-2010, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBC) đã nâng tỷ giá giao
dịch chính thức giữa nhân dân tệ và đô la Mỹ thêm 0,43% từ 6,827 lên 6,7980,
đánh dấu lần điều chỉnh đầu tiên kể từ tháng 7-2008 sau khi tăng 21% từ ba năm
trước đó. Quyết định này được đưa ra sau thời gian dài Mỹ và các nước phương
Tây chỉ trích Trung Quốc duy trì giá đồng nhân dân tệ ở mức thấp vô lý, tạo cạnh
tranh không lành mạnh.
Sau ba tuần kể từ khi quyết định trên được ban hành và có hiệu lực, nhân dân tệ đã
tăng 0,8% và đang đổi được 6,7746/đô la Mỹ và có thể lên 6,5/đô la Mỹ vào cuối
năm 2011. Công ty Morgan Stanley tại Hồng Kông cho rằng, nhân dân tệ có thể
12
Quản trị xuất nhập khẩu

GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
tăng 4% trong năm nay và 6% trong năm 2011. Trong khi đó, Tập đoàn Ngân hàng
DBS cho rằng, nhân dân tệ sẽ tăng 1,2% trong năm nay khi PBC hành động để
kiềm chế lạm phát.
Theo thông tin của Chính phủ Trung Quốc, đầu tư trong nước suy giảm đã hạn chế
nhập khẩu, nên xuất siêu của Trung Quốc đã tăng ba tháng liên tiếp và đạt 20 tỉ đô
la Mỹ vào tháng 6, tăng 43,9% so cùng kỳ năm 2009 và có thể tiếp tục tăng cao
trong những tháng cuối năm do tốc độ suy giảm nhập khẩu có thể vượt xuất khẩu
trong những tháng tới. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối trong quí 2 tăng chậm nhất kể
từ năm 1999, chỉ tăng thêm 7,2 tỉ đô la Mỹ lên 2.454 tỉ đô la Mỹ sau khi tăng 47,9
tỉ trong quí 1.
Tăng trưởng công nghiệp Trung Quốc đã giảm liên tiếp trong hai tháng gần đây và
nguyên liệu tồn kho giảm, kể cả dầu và kim loại chế tạo. Theo UBS AG, tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ giảm từ 11,9% trong quí 1 xuống còn khoảng
8,5-9% trong sáu tháng cuối năm, gây bất an cho các nhà đầu tư do nhu cầu hạn
chế tại các nước phát triển đang đẩy kinh tế toàn cầu lệ thuộc vào các nước mới
nổi, dẫn Ngày 22-6-2010, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBC) đã nâng tỷ
giá giao dịch chính thức giữa nhân dân tệ và đô la Mỹ thêm 0,43% từ 6,827 lên
6,7980, đánh dấu lần điều chỉnh đầu tiên kể từ tháng 7-2008 sau khi tăng 21% từ
ba năm trước đó. Quyết định này được đưa ra sau thời gian dài Mỹ và các nước
phương Tây chỉ trích Trung Quốc duy trì giá đồng nhân dân tệ ở mức thấp vô lý,
tạo cạnh tranh không lành mạnh.
Sau ba tuần kể từ khi quyết định trên được ban hành và có hiệu lực, nhân dân tệ đã
tăng 0,8% và đang đổi được 6,7746/đô la Mỹ và có thể lên 6,5/đô la Mỹ vào cuối
năm 2011. Công ty Morgan Stanley tại Hồng Kông cho rằng, nhân dân tệ có thể
tăng 4% trong năm nay và 6% trong năm 2011. Trong khi đó, Tập đoàn Ngân hàng
DBS cho rằng, nhân dân tệ sẽ tăng 1,2% trong năm nay khi PBC hành động để
kiềm chế lạm phát.
Theo thông tin của Chính phủ Trung Quốc, đầu tư trong nước suy giảm đã hạn chế
nhập khẩu, nên xuất siêu của Trung Quốc đã tăng ba tháng liên tiếp và đạt 20 tỉ đô

la Mỹ vào tháng 6, tăng 43,9% so cùng kỳ năm 2009 và có thể tiếp tục tăng cao
trong những tháng cuối năm do tốc độ suy giảm nhập khẩu có thể vượt xuất khẩu
trong những tháng tới. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối trong quí 2 tăng chậm nhất kể
từ năm 1999, chỉ tăng thêm 7,2 tỉ đô la Mỹ lên 2.454 tỉ đô la Mỹ sau khi tăng 47,9
tỉ trong quí 1.
13
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Tăng trưởng công nghiệp Trung Quốc đã giảm liên tiếp trong hai tháng gần đây và
nguyên liệu tồn kho giảm, kể cả dầu và kim loại chế tạo. Theo UBS AG, tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ giảm từ 11,9% trong quí 1 xuống còn khoảng
8,5-9% trong sáu tháng cuối năm, gây bất an cho các nhà đầu tư do nhu cầu hạn
chế tại các nước phát triển đang đẩy kinh tế toàn cầu lệ thuộc vào các nước mới
nổi, dẫn đầu là Trung Quốc.
Nhân dân tệ tăng giá có thể gây tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu
do họ phải đối mặt với nhu cầu yếu ớt ở nước ngoài và yêu cầu tăng lương. Một số
nhà xuất khẩu phải đối mặt với áp lực tăng chi phí lao động khi 20 tỉnh, thành phố
tại Trung Quốc nâng mức lương tối thiểu trong năm nay. Các công ty, bao gồm
Toyota và Honda, phải tăng lương sau các cuộc đình công, làm tăng chi phí do
phải trả lương công nhân bằng nhân dân tệ và thu về bằng đô la Mỹ hoặc euro.
Đối với thương mại và đầu tư quốc tế, nhân dân tệ tăng giá sẽ làm cho hàng hóa
Trung Quốc trở nên đắt hơn, góp phần tăng thêm sức cạnh tranh hàng hóa của
những nước khác, nhất là tại những nước mà hàng nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm
tỷ trọng lớn. Các nền kinh tế xuất khẩu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và
Cộng hòa liên bang Đức sẽ giành lại được đôi chút lợi thế từ các đối thủ Trung
Quốc. Sức cạnh tranh của các nước xuất khẩu vào Trung Quốc cũng gia tăng, nhất
là các nhà sản xuất xe hơi, các mặt hàng công nghệ và xây dựng. Các nhà đầu tư đã
vay đô la, bán lấy nhân dân tệ để mua chứng khoán và bất động sản tại Trung Quốc
cũng có thể bớt lo lắng khi gánh nặng nợ giảm đi.
Tăng trưởng kinh tế chậm dần tại Trung Quốc cùng với các biện pháp thắt chặt chi

tiêu tại châu Âu và các nước phát triển có thể làm chậm quá trình phục hồi toàn
cầu, ảnh hưởng đến châu Á, do kinh tế nhiều nước trong khu vực này phụ thuộc
vào xuất khẩu sang Trung Quốc và các nước phát triển
1.2.3 Châu Âu
Vào năm 2010, hàng thủy sản Việt Nam nhập vào Châu Âu sẽ phải tuân thủ quy
định IUU, yêu cầu chứng nhận là sản phẩm được đánh bắt và khai thác hợp pháp.
Cùng lúc, hàng may mặc Việt Nam vào Mỹ (và một số sản phẩm khác) cũng phải
đạt chuẩn mực do đạo luật CPSIA quy định. Các rào cản kỹ thuật này đang khiến
giới xuất khẩu Việt Nam lo ngại.
Việc áp đặt thuế chống phá giá 10% cho Việt Nam là một trong những khó khăn
mà ngành xuất khẩu Việt Nam đang gặp phải trong bối cảnh các nước nhập khẩu
hàng hoá ngày càng dựng thêm các rào cản để bảo vệ nền sản xuất nội địa. Vấn đề
14
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
lại càng hệ trọng đối với Việt Nam khi mà các chướng ngại vật này lại được các thị
trường chủ yếu của hàng Việt dựng lên, như tại Châu Âu hay Hoa Kỳ.
Tại Châu Âu chẳng hạn, trong lúc mặt hàng giày da dự trù sẽ tiếp tục bị áp thuế
chống phá giá, thì kể từ tháng giêng năm 2010, đến lượt thủy sản bắt đầu gặp khó
khăn về mặt thủ tục khi nhập vào thị trường Liên Hiệp Châu Âu. Vào lúc ấy, Châu
Âu bắt đầu áp dụng những quy định gọi tắt là IUU (Illegal, Unreported and
Unregulated Fishing) nhằm chống các hoạt động khai thác và đánh bắt thủy sản
trái phép trên toàn thế giới.
Theo các quy định này, thì tất cả các lô hải sản từ Việt Nam xuất qua châu Âu đều
phải được chứng nhận về tính hợp pháp, có tên tàu đánh bắt, vùng biển khai thác
vân vân, những vấn đề khó đáp ứng do phương thức đánh cá còn cá thể, manh
múm và thủ công của ngư dân Việt Nam.
Khó khăn cũng có thể đến từ Mỹ, thị trường quan trọng nhất của ngành xuất khẩu
Việt Nam. Trên nguyên tắc, kể từ tháng 2/2010, chính quyền Mỹ sẽ áp dụng đạo
luật có tên là Consumer Product Safety Improvment Act (CPSIA), tạm dịch là Luật

Cải thiện An Toàn Sản phẩm Tiêu dùng. Theo đó luật này, các mặt hàng nhập vào
thị trường Hoa Kỳ phải hội đủ các tiêu chuẩn an toàn nghiêm ngặt.
Để tìm hiểu thêm về rào cản kỹ thuật mới mà đạo luật Cải thiện An Toàn Sản
phẩm Tiêu dùng CSPIA tại Hoa Kỳ đặt ra cho hàng nhập khẩu vào Mỹ, đặc biệt là
đối với hàng Việt Nam, RFI đã phỏng vấn chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa
tại California (Hoa Kỳ). Theo anh Nguyễn Xuân Nghĩa, tình hình không đáng phải
lo ngại quá mức căn cứ vào cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào Mỹ, và
tinh thần của đạo luật Cải thiện An Toàn Sản phẩm Tiêu dùng CPSIA sẽ có hiệu
lực từ tháng 2 năm 2010.
Trước hết, về luồng giao dịch ngoại thương của Việt Nam với Hoa Kỳ thì 15 năm
trước, khi Mỹ bắt đầu bãi bỏ cấm vận với Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa hai nước mới chỉ khoảng hơn 220 triệu đô la, chủ yếu là Mỹ bán cho Việt
Nam hơn 170 triệu và mua hàng của có 50 triệu đô la mà thôi. Bước đột phá bắt
đầu từ năm 2001, khi luồng giao dịch tăng vọt lên hơn một tỷ 400 triệu đô la với
Việt Nam đạt xuất siêu hơn 600 triệu vì bán nhiều hơn mua với Hoa Kỳ.
1.3 Những tồn tại khó khăn
Mặc dù nhiều ngành hàng của Việt Nam đứng thứ hạng cao trong xuất khẩu như
hồ tiêu, điều, gạo, cà phê, cao su, hàng dệt may , nhưng do chưa tham gia được
15
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
vào các khâu có giá trị gia tăng cao, nên buộc phải lệ thuộc vào các trung gian
thương mại nước ngoài, vừa tăng chi phí trung gian, có trường hợp bị ép giá
Các công cụ hỗ trợ tài chính cho tăng cường xuất khẩu dường như đã được Chính
phủ rốt ráo thực thi từ hơn một thập kỷ trước, tuy nhiên, vẫn có những chính sách
không đi cùng mục tiêu kể trên, chẳng hạn như vấn đề tỷ giá.
“Chính sách tỷ giá trong những năm qua đưa ra những thông điệp không rõ ràng
cho các nhà xuất khẩu”, nhóm nghiên cứu từ Depocen nhận xét. “Cho tới nay, định
giá cao đồng VND trong thực tế vẫn là một trong những rào cản đối với việc mở
rộng xuất khẩu của Việt Nam.”

Mặc dù, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu đã khá phong phú, nhưng theo ý kiến của
nhiều chuyên gia, quan điểm khuyến khích xuất khẩu thể hiện trong văn bản pháp
luật vẫn chưa đồng bộ và không thực tế. Thậm chí, có những ý kiến gay gắt cho
rằng, mô hình tăng trưởng của Việt Nam dường như không dựa vào xuất khẩu, nếu
nhìn trên cách thức điều hành và thực thi chính sách gần đây.
“Xuất khẩu chỉ là đầu ra, còn đầu vào sản xuất là đất, là lao động, là công nghệ…
mới là những đại vấn đề của tăng trưởng dài hạn”, TS. Võ Trí Thành (Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương) nói. Việt Nam mới chỉ xuất khẩu những cái chúng
ta có, mà chưa quan tâm đến một chiến lược phát triển xuất khẩu dài hạn và có tầm
nhìn, có trọng tâm, làm thay đổi cơ cấu xuất khẩu.
Ở một góc độ khác, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng khá nhanh trong giai
đoạn 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, vấn đề nhập siêu ngày càng lớn, tác động
mạnh đến cán cân thanh toán tổng thể, tạo nên những bất ổn vĩ mô trong thời gian
gần đây đang xóa nhòa những ảnh hưởng tích cực từ hoạt động này.
Tính toán dựa trên mô hình dự báo sự thay đổi trung bình (dựa vào các yếu tố
tĩnh), nhóm tác giả từ Depocen cũng cho rằng, nếu theo đuổi chính sách tăng
trưởng dựa vào xuất khẩu, Việt Nam có thể sẽ sa vào tình trạng gia tăng thâm hụt
thương mại, có thể xấp xỉ tới 60 tỷ USD vào năm 2015 và trên 85 tỷ USD vào năm
2020, cho dù nhận định này còn gây nhiều tranh cãi.
Nhìn lại đóng góp vào tăng trưởng GDP của hoạt động xuất nhập khẩu, nhiều năm
gần đây, có thể thấy nỗ lực thúc đẩy kim ngạch thương mại quốc tế lại “kéo tụt”
tăng trưởng (trừ năm 2009). Nếu triển vọng xuất nhập khẩu phần nào đó như kịch
bản của Depocen, nhập siêu sẽ tiếp tục kéo dài tác động tiêu cực lên tăng trưởng
GDP những năm sắp tới.
16
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Tình hình xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2010
Số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng trị giá xuất nhập
khẩu hàng hoá của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt 71,23 tỷ USD, tăng

23,2% so với cùng kỳ năm trước (tương đương tăng 13,44 tỷ USD về số tuyệt đối).
Trong đó, xuất khẩu đạt 32,47 tỷ USD, tăng 17% và nhập khẩu là 38,76 tỷ USD,
tăng 29,1%. Thâm hụt thương mại hàng hoá trong hai quý đầu năm 2010 là 6,29 tỷ
USD, bằng 19,4% kim ngạch xuất khẩu.
17
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
2. TÌNH HÌNH VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI ẢNH HƯỞNG ĐẤN NHẬP SIÊU
2.1 Việt Nam
2.1.1 Tình hình chung
Gần 20 năm phát triển (1990-2009) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ
ở mức cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2009 là 7,57%/năm. Tốc độ
tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến mức thu
nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990, GDP trên
đầu người của VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt
835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người ước tính đạt khoảng
1.047 USD/người (xem Bảng 1). Với mức thu nhập này, VN lần đầu tiên thoát ra
khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có thu nhập thấp nhất).
Như vậy, năm 2008 đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế VN chuyển từ nhóm
nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung bình dưới (nhóm 2).
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người của VN giai
đoạn 1990-2008
Năm Qui mô dân số
(nghìn người)
Qui mô GDP -
Giá cố định(tỷ
Tốc độ
tăng
GDP/người(USD)
18

Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
đồng) trưởng
1990 66016,7 131,968.00 5.10 105.00
1995 71995,5 195,567.00 9.54 288.00
2000 77635,4 273,666.00 6.79 391.00
2001 78685,8 292,535.00 6.84 413.00
2002 79727,4 313,247.00 7.20 440.00
2003 80902,4 336,242.00 7.26 492.00
2004 82031,7 362,435.00 7.70 552.00
2005 8316,3 393,031.00 8.43 636.00
2006 84136,8 425,373.00 8.17 723.00
2007 85154,9 461,344.00 8.50 835.00
2008 86210,8 489,833.00 6.36 1,047.00
Bình quân
(1990-
2008)
1.53 7.56 13.60%
19
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF
So với các nước trong khu vực, VN có mức tăng trưởng cao thứ ba, sau Trung
quốc và Ấn độ. Dưới đây là tốc độ tăng trưởng kinh tế VN so với tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới, kinh tế các nước và nhóm nước.
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế VN so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
và nhóm nước theo khu vực ĐVT:%
Nước/Nhóm nước 2006 2007 2008
Thế giới 5.1 5 3.7
Việt Nam 8.17 8.5 6.36

Trung Quốc 11.6 11.9 9.7
Ấn Độ 9.8 9.3 7.8
Mỹ 2.8 2 1.4
Nhóm nước đồng tiền chung
EURO
2.8 2.6 1.2
20
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Nhóm các nước NICS Châu
Á
5.6 5.6 3.9
Nguồn: IMF (năm 2008, số ước tính của IMF)
Do tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao nên xu hướng kinh tế VN là đang dịch
chuyển theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp (khu vực II), giảm tỷ trọng
nông nghiệp (khu vực I), tỷ trọng khu vực dịch vụ (khu vực III) tương đối ổn định
qua các năm gần đây. Kết quả này cũng cho thấy, nền kinh tế VN đang chuyển
theo hướng công nghiệp hóa.
Hình 1: Cơ cấu kinh tế VN theo khu vực ngành kinh tế
Những đóng góp về phát triển kinh tế nêu trên đã góp phần cải thiện mức sống dân
cư và giảm tỷ lệ nghèo đói tại VN. Tỷ lệ nghèo chung và nghèo thực phẩm giai
đoạn 1993-2006 có thể xem hình dưới đây. Chuẩn nghèo thay đổi theo các năm.
Chuẩn nghèo của Chính phủ VN thời kỳ 2006-2010 là 200.000 đồng/người/tháng
đối với khu vực nông thôn và 260.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Chuẩn nghèo thực phẩm là 146.000 đồng/người/tháng đối với nông thôn và
163.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị. Nhìn vào Hình 2, cho thấy, tỷ
lệ nghèo chung và nghèo thực phẩm giảm đáng kể, từ 58,1% nghèo chung năm
1993, xuống còn 16% năm 2006. Tỷ lệ nghèo thực phẩm (đói) từ 24,9% năm 1993,
xuống còn 4,9% năm 2006. Đây là một thành tích đáng khích lệ về giảm nghèo tại
VN đã được các tổ chức quốc tế công nhận. VN là một trong số ít các nước đã và

đang thực hiện tốt chiến lược thiên niên kỷ-tăng trưởng và giảm nghèo.
Hình 2: Tỷ lệ nghèo của VN giai đoạn (1993-2006)
2.1.2
Tác động
Đóng góp cho sự phát triển kinh tế VN trong hai thập niên qua, mà tác động chủ
yếu của chính sách mở cửa và hội nhập thông qua hai yếu tố chính đó là tăng
nguồn vốn cho đầu tư phát triển và tăng xuất khẩu, tăng thu nhập và ngoại tệ.
21
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Nhờ có chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập, dòng vốn nước ngoài vào VN
trong những năm qua không ngừng tăng. Tỷ trọng vốn nước ngoài chiếm trên 30%
tổng vốn đầu tư xã hội. Dòng vốn nước ngoài vào VN gồm có vốn đầu tư trực tiếp
(FDI), vốn hỗ trợ phát triển (ODA), kiều hối và vốn đầu tư gián tiếp (FPI) (xem
Hình 3). Đây là yếu tố đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế VN.
Ngoài yếu tố vốn, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế VN còn có yếu tố xuất khẩu
(XK). Trên phương diện tổng cầu, XK đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế VN. Kim ngạch xuất khẩu của VN không ngừng tăng trong những năm qua
cả về qui mô lẫn tốc độ (Hình 4). Từ công thức tính GDP, ta biết XK là một bộ
phận quan trọng trong GDP, mỗi sự thay đổi của XK sẽ kéo theo sự thay đổi của
GDP. Hình 4 cho thấy, tốc độ tăng trưởng XK và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối
tương quan chặt chẽ với nhau. Khi tốc độ tăng trưởng XK cao thì dẫn tới nền kinh
tế tăng trưởng mạnh. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa xuất khẩu (XK) với tăng
trưởng kinh tế, các nhà kinh tế sử dụng công thức:
Từ số liệu thống kê, và áp dụng công thức trên cho kết quả: năm 2001 tốc độ tăng
trưởng GDP là 6,89% thì XK đóng góp 0,97% (chiếm tỷ lệ 14%), năm 2007, GDP
tăng 8,48%, đóng góp của XK là 2,62% (chiếm 24,43%).
Hình 3: Nguồn vốn FDI, ODA, kiều hối, FPI vào VN giai đoạn 1992-2007
22
Quản trị xuất nhập khẩu

GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Nguồn: Tổng cục Thống kê, IMF, WB
23
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Hình 4 : Tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu và tỷ trọng XK/GDP- %
Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê các năm và ADB
Điều này cho thấy XK là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế VN trong 20 năm kể từ khi đổi mới. Đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ châu Á năm 1997, XK nổi lên là một động lực mới giúp tốc độ tăng
trưởng kinh tế VN luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực.
Cùng với tăng cường xuất khẩu, tăng đầu tư nước ngoài, lượng dự trữ ngoại tệ của
VN cũng tăng cao trong các năm gần đây đảm bảo ổn định thị trường ngoại hối,
giữ tỷ giá ổn định trong thời gian dài, chính sách tỷ giá kích thích XK, đây cũng là
điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Số liệu minh chứng cho nhận định này là
dự trữ ngoại tệ của VN tăng từ gần 3,4 tỷ USD, chiếm 10,4% GDP năm 2001, lên
gần 22 tỷ USD, chiếm 30,7% GDP năm 2007(Bảng 3).
Bảng 3: Dự trữ ngoại hối VN
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
24
Quản trị xuất nhập khẩu
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân
Dự trữ ngoại
hối (Tr. USD)
3387 3692 5619 6314 8557 11483 21887
%GDP 10.4 10.5 14.1 13.9 16.1 18.8 30.7
Nguồn: IMF Staff Country Report No 03/382, December 2003 và No 07/338,
December 2007
2.1.3
Những hạn chế của nền kinh tế VN và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng

tài chính thế giới đến các mục tiêu phát triển
Mặc dù đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế nêu trên, nhưng nền kinh tế
VN còn nhiều hạn chế, qui mô nền kinh tế nhỏ, dấu hiệu của phát triển thiếu bền
vững và hiệu quả chưa cao. Mặc dù, năm 2008 là năm đánh dấu VN thoát ra khỏi
nhóm nước nghèo nhưng theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới tháng 10/2008 thì
VN đứng hạng 170 về thu nhập bình quân đầu người tính theo tỷ giá VNĐ/USD,
và đứng thứ 156 về thu nhập bình quân tính đầu người theo phương pháp sức mua
tương đương (PPP) trong tổng số 207 nước, vùng lãnh thổ. Quy mô GDP, qui mô
xuất khẩu chiếm tỷ trọng tương ứng là 0,34% và 0,3% so với tổng giá trị nền kinh
tế và xuất khẩu của toàn thế giới. Các chỉ số xếp hạng về môi trường kinh doanh,
năng lực cạnh tranh, tham nhũng và chỉ số phát triển giáo dục của VN đều có vị trí
xếp hạng thấp trong các nền kinh tế thế giới (xem Bảng 4).
Bảng 4 :Vị trí nền kinh tế VN trong nền kinh tế thế giới qua các chỉ số (2007)
Chỉ số Hạng % so với thế giới Giá Trị
GDP/ người theo tỷ giá 170/207 829 USD
GDP/ người theo PPP 156/207 0.34 2589 USD
Xuất khẩu 54 0.3 48.4 tỷ USD
25
Quản trị xuất nhập khẩu

×