Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Báo cáo "Các loại hình khoáng sản và các phương pháp tìm kiếm và chuẩn đoán khoáng sản thiếc" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.29 MB, 105 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Báo cáo
"Các loại hình khoáng sản và các phương pháp tìm
kiếm và chuẩn đoán khoáng sản thiếc"
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Phần 1: TỔNG QUAN VỀ KHOÁNG SẢN THIẾC
Chương I: Khái quát về lịch sử tìm kiếm – khai thác thiếc
I.1. Khái quát về lịch sử tìm kiếm – khai thác thiếc trên thế giới 6
I.2. Khái quát về lịch sử tìm kiếm – khai thác thiếc ở Việt Nam 6
Chương II: Tổng quan về thiếc
II.1. Tính chất 8
II.2. Đặc điểm khoáng vật 8
II.3. Đặc điểm địa hóa 12
II.4. Kinh tế nguyên liệu khoáng 13
II.5. Công dụng 13
Phần 2: NGUỒN GỐC, ĐIỀU KIỆN THÀNH TẠO VÀ CÁC LOẠI HÌNH
KHOÁNG SẢN THIẾC
Chương III. Các kiểu nguồn gốc và kiểu mỏ công nghiệp của khoáng sản thiếc
III.1. Đặc điểm địa chất các mỏ thiếc 16
III.2. Các kiểu mỏ khoáng. Liên hệ trên thế giới 17
III.3. Các kiểu công nghiệp. Liên hệ trên thế giới 28
III.4. Các kiểu mỏ khoáng và kiểu công nghiệp ở Việt Nam 29
Phần III: CÁC TIỀN ĐỀ, DẤU HIỆU TÌM KIẾM VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP
TÌM KIẾM THIẾC
Chương IV: Các tiền đề tìm kiếm
IV.1. Tiền đề magma 38
IV.2. Tiền đề cấu trúc – kiến tạo 40
IV.3. Tiền đề nguồn biến chất – nhiệt dịch 41
IV.4. Tiền đề địa mạo 42
Chương V. Các dấu hiệu tìm kiếm


V.1. Vết lộ thân quặng 44
V.2. Các vành phân tán tản lăng và trọng sa 44
V.3. Các vành phân tán thạch địa hóa (nguyên sinh và thứ sinh) 45
V.4. Các dấu hiệu địa vật lý 46
V.5. Các đới biến đổi nhiệt dịch 47
Chương VI: Các phương pháp tìm kiếm
VI.1. Phương pháp đo vẽ địa chất 48
VI.2. Phương pháp tảng lăn 49
VI.3. Phương pháp ảnh viễn thám 51
VI.4. Phương pháp địa hóa 51
VI.5. Phương pháp trọng sa 53
VI.6. Phương pháp khoan và khai đào 55
Phần IV: ĐẶC ĐIỂM KHOÁNG SẢN THIẾC VÙNG ĐÔNG NÚI KHOR – LÂM
ĐỒNG VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÌM KIẾM
Chương VII. Mở đầu
Chương VIII. Khái quát đặc điểm địa lý tự nhiên – Kinh tế – Nhân văn
VIII.1. Vị trí địa lý 58
VIII.2. Địa hình 58
VIII.3. Sông suối 58
VIII.4. Giao thông 58
VIII.5. Dân cư, kinh tế 59
Chương IX. KẾT QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU TRA CHI TIẾT
IX.1. Đặc điểm địa chất khu vực 60
IX.1.1. Địa tầng 60
IX.2.2. Magma xâm nhập 71
IX.1.3. Kiến tạo 77
IX.2. Đặc điểm khoáng sản thiếc 77
IX.2.1. Tiểu khu Cap Hirt 77
IX.2.2. Tiểu khu Núi Khor 83
IX.2.3. Nguồn gốc và sự phân bố quặng hóa 94

Chương X. Các tiền đề và dấu hiệu tìm kiếm
X.1. Các tiền đề tìm kiếm 99
X.1.1. Tiền đề magma 99
X.1.2. Tiền đề cấu trúc 99
X.2. Các dấu hiệu tìm kiếm 100
X.2.1. Vết lộ thân quặng 100
X.2.2. Đới đá biến đổi 100
X.2.3. Dị thường địa vật lý 100
X.2.4. Dị thường địa hóa 101
X.2.5. Dị thường trọng sa 103
Chương XI. Các phương pháp tìm kiếm và khối lượng thực hiện
NHẬN XÉT
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ KHOÁNG SẢN THIẾC
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TÌM KIẾM – KHAI THÁC THIẾC
I.1. Khái quát về lịch sử tìm kiếm – khai thác thiếc trên thế giới
Thiếc là một trong những kim loại đầu tiên mà loài người đã phát hiện được. Việc sử
dụng nó làm hợp kim với đồng đã trải qua một thời kì lâu dài và quan trọng trong thời đại đồ
đồng. Đồng đen cổ nhất đã được tìm thấy ở Ơfrat (Messopotania) vào 3500 – 3200 năm
trước Công Nguyên. Vào khoảng 1800 – 1500 năm trước Công Nguyên, ở Trung Quốc đã sử
dụng rộng rãi đồng đen. Ngày xưa, ở Anh (mỏ Coocmuon), nam Trung Quốc, Bolivin, Liên
Xô đã khai thác thiếc với quy mô lớn.
Năm 1940, thế giới khai thác được 240.000 tấn (trừ Liên Xô). Năm 1957, thế giới sản
xuất được 200.000 tấn (không kể Liên Xô và Trung Quốc). Liên Xô đã phát hiện được nhiều
vùng quặng thiếc rất lớn (Zabaical, tiểu Khingan, Xkhote – Albitin và đặc biệt là trên lãnh
thổ rộng lớn miền đông bắc).

I.2. Khái quát về lịch sử tìm kiếm – khai thác thiếc ở Việt Nam
Ở Việt Nam quặng thiếc có ở 3 khu vực chính Cao Bằng, Sơn Dương và Quỳ Hợp.
Theo kết quả tiềm kiếm – thăm dò trong thời gian qua đã xác định tài nguyên thiếc 80 nghìn
tấn, trữ lượng công nghiệp 50 nghìn tấn, trong đó trữ lượng ở các vùng quặng như sau:
Tĩnh Túc (Cao Bằng): 15 nghìn tấn thiếc
Sơn Dương (Tuyên Quang): 11 nghìn tấn thiếc
Quỳ Hợp (Nghệ An): 23 nghìn tấn thiếc
Tổng TN – TL thiếc Việt Nam được thể hiện ở bảng.
Bảng I.1. Sản lượng khai thác thiếc qua các thời kỳ như sau (nghìn tấn SnO
2
)
Năm 1850 1913 1937 1941 194
5
1950 1955 1960 1966 1971 1981 1991 1995
Sản lượng
tính quặng
84 127 196 244,
5
87 164 170 137 166 185 243 197 250
Từ 1910 đến 1914 thực dân Pháp đã khai thác ở Pia Oac đươc 32.473 tấn Sn kèm
theo 137 kg Au. Từ năm 1950 đến năm 1956 khai thác thủ công được 440 tấn SnO
2
; 1957 –
1980 sản lượng khai thác ở vùng Pia Oac đạt 9.901 tấn SnO
2
với hàm lượng trung bình 1305
g/m
3
. Ở Tam Đảo đạt 3.500 tấn SnO
2

với hàm lượng 1348 g/m
3
. Trước năm 1988, sản lượng
hàng năm chỉ đạt 600 tấn, năm cao nhất 1000 tấn. Ở Sơn Dương khai thác từ 1965 đến 1984
được 4 nghìn tấn, trung bình 210 tấn/năm. Hàm lượng thiếc trung bình 2400 g/m
3
. Ở Quỳ
Hợp khai thác từ 1961 với qui mô nhỏ.
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN VỀ THIẾC
II.1. Tính chất
Thiếc là kim loại mềm, có màu trắng bạc, dễ dát thành lát mỏng 0,005mm. Sn được
ưa chuộng trong kỹ thuật và đời sống do Sn có sức chống ăn mòn cao, muối Sn không độc,
Sn dễ nấu chảy và có thể luyện thành hợp kim cao cấp.
II.2. Đặc điểm khoáng vật
Thiếc tồn tại trong khoáng vật thuộc các nhóm oXt, sulfostanat, surful, silicat, borat
và niobat. Khoáng vật quan trọng nhất của thiếc là cassiterit (SnO
2
) chứa 69-78 % Sn,
stannin (Cu
2
FeSnS
4
) chứa 19-24 % Sn, tilit (PbSnS
2
) chứa 30,4 % Sn, cylinđrit
(Pb
3
Sn
4

Sb
2
S
14
) chứa khoảng 25,12 % Sn, franckeit (Pb
3
Sn
4
Sb
2
S
14
) chứa từ 9,5 - 17,1 % Sn.
Tuy nhiên, chỉ có cassiterit và stannin là tạo thành tụ khoáng. Cassiterit là khoáng vật bền
vững trong điều kiện phong hóa, do vậy có thể tạo nên những mỏ sa khoáng lớn, ngược lại
stannin rất dễ bị phá hủy, cho nên chỉ tồn tại trong quặng gốc.
Cassiterit (SnO
2
) với thành phần: Sn = 78,62%; O = 21,38%; tỷ trọng 6,8 – 7,1; độ
cứng 6 – 7 . Trong thực tế luôn có Fe, Mn, Ư, Ta, Nb, In, Ge, Be, Zr, SiO
2
đôi khi có cả V,
Ni, Sb, Se… Tinh thể có dạng lăng trụ thường hình kim đôi khi có dạng tháp đôi. Các mặt
lăng trụ thường vết thẳng đứng, còn các mặt của hình tháp lại có vết khía song song với các
cạnh của chúng. Rất hay gặp các song tinh cassiterit. Ngoài dạng kết tinh, còn có dạng khác
của cassiterit, đó là dạng thiếc thớ gỗ. Thiếc thớ gỗ thường có dạng nhũ hình quả lê, hình
giọt nước với cấu tạo tỏa tia đồng tâm do các gel SnO
2
đông kết.
Stannin (Cu

2
FeSnS
4
) với thành phần lý thuyết: Cu = 29,6%, Fe = 13%, Sn = 27,6%,
S = 29,8%; tỷ trọng 4,3 – 5,2; độ cứng 3 – 4. Hàm lượng thiếc thực tế biến động từ 24,08 –
29,08%; thường có Zn (đến 8,71%), Cd (đến 0,83%), Bi (đến 0,2%), Sb (0,2%), đôi khi có
Pb và Ag. Stannin thường rất ít gặp so với cassiterit; nó thường chỉ có mặt trong các thành
tạo quặng thiếc thuộc thành hệ cassiterit – surful. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy gần 40
khoáng vật khác nhau có chứa thiếc, tuy nhiên các khoáng vật này ít phổ biến, và nếu có thì
cũng không đủ hàm lượng để khai thác công nghiệp. Hàm lượng thiếc tùy thuộc vào thành
phần hóa học của khoáng vật.
Hình II.1. Tinh thể cassiterit
Hình II.2. Tinh thể stannin
BảngII.1. Bảng thống kê các khoáng vật chứa thiếc
Tên khoáng vật Công thức khoáng vật Tỷ trọng Độ cứng
Hàm lượng thiếc
(%)
Cassiterite SnO
2
6.4 – 7.1 6 – 7 78.77
Oulankaite (Pd,Pt)
5
(Cu,Fe)
4
SnTe
2
S
2
10.27 3.5 – 4 8.94
Canfieldite Ag

8
SnS
6
6.28 2.5 10.11
Kuramite Cu
3
SnS
4
4.56 5 27.13
Ferrokesterite Cu
2
(Fe,Zn)SnS
4
4 27.46
Stannite Cu
2
FeSnS
4
4.3 – 4.5 3.5 – 4 27.61
Kesterite Cu
2
(Zn,Fe)SnS
4
4.54 – 4.59 4.5 32.65
Cernyite Cu
2
CdSnS
4
4.776 4 24.40
Velikite Cu

2
HgSnS
4
5.45 4 20.66
Hocassiteritrtite Ag
2
FeSnS
4
4.77 4 22.89
Pirtquitasite Ag
2
ZnSnS
4
4.822 4 22.48
Sakuraiite (Cu,Zn,Fe,In,Sn)
4
S
4
4 2.8
Petrukite (Cu,Fe,Zn)
2
(Sn,In)S
4
4.61 4.5 25.00
Rhodostannite Cu
2
FeSn
3
S
8

4 41.83
Toyohaite Ag
2
FeSn
3
S
8
4.94 4 40.28
Stannoidite Cu
8
Fe
3
Sn
2
S
12
4.29 4 18.29
Volfsonite Cu
10
Cu
2+
Fe
2+
Fe
3+
2
Sn
3
S
16

4 20.52
Chatkalbitite Cu
6
FeSn
2
S
8
5 4.5 25.50
Mawsonite Cu
6
Fe
2
SnS
8
4.66 3.5 – 4 13.67
Hemuscovitsite Cu
6
SnMoS
8
4.47 4 13.93
Kiddcreekite Cu
6
SnWS
8
4 12.62
Vinciennite Cu
10
Fe
4
Sn(As,Sb)S

16
4.29 4.5 7.47
Nekrasovite Cu
26
V
2
(Sn,As,Sb)
6
S
32
4.62 4.5 – 5 10.39
Colusite Cu
12
V(As,Sb,Sn,Ge)
3
S
16
4.2 3 – 4 4.26
Stibiocolusite Cu
13
V(Sb,As,Sn)
3
S
16
4 – 4.5 2.20
Herzenbergite SnS 5.197 2 78.73
Stistaite SnSb 6.91 3 49.37
Mohite Cu
2
SnS

3
4.86 4 34.71
Tealbitlite PbSnS
2
6.4 1.5 – 2 30.44
Surfulredaite PbSnS
3
5.54 – 5.88 2.5 – 3 30.41
Potosiite Pb
6
Sn
2
FeSb
2
S
14
6.2 2.5 10.65
Levyclaudite Pb
8
Sn
7
Cu
3
(Bi,Sb)
3
S
28
2.5 – 3 19.97
Franckeite (Pb,Sn)
6

FeSn
2
Sb
2
S
14
5.5 – 5.9 2.5 13.68
Cylindrite Pb
3
Sn
4
FeSb
2
S
14
5.4 – 5.42 2.5 25.74
Yuanjiangite AuSn 11.7 – 11.9 3.5 – 4 37.60
Ottemannite Sn
2
S
3
4.835 2 71.17
Berndtite SnS
2
4.5 1 – 2 64.92
Vurroite Pb
21
SnAs
11
Bi

11
S
50
Cl
8
Se 1.24
II.3. Đặc điểm địa hóa
Thiếc có tên Latinh là stannum, ký hiệu Sn, là nguyên tố hóa học nhóm IV trong hệ
thống tuần hoàn Mendeleev.
Thiếc kim loại có màu trắng bạc, kết tinh ở dạng tứ diện. Khối lượng nguyên tử
118,69. Trọng lượng riêng 7,3g/cm³. Nhiệt độ chảy 231,9ºC. Nhiệt độ sôi 2270ºC. Thiếc
thuộc kim loại khan hiếm.
Thiếc có hai dạng thụ hình là αSn và βSn. Ở nhiệt độ thường, thiếc tồn tại ở dạng βSn,
đó là một loại thiếc trắng mà mọi người đều biết. Ở nhiệt dộ dưới +13,2 ºC, αSn bền hơn, là
một loại bột dạng tinh thể rất mịn có màu xám. Thiếc trắng (βSn) biến thành thiếc xám (αSn)
xảy ra rất nhanh ở nhiệt độ -33 ºC. Quá trình biến hóa đó mang một cái tên hình tượng là
“bệnh dịch hạch thiếc”.
Sn có trị số Clack 2,5.10
-4
%. Sn có 10 đồng vị với mức độ phổ biến %: Sn
112
- 0,96%;
Sn
114
- 0,66%; Sn
115
- 0,35%; Sn
116
- 14,3%; Sn
117

- 7,61%; Sn
118
- 24,04; Sn
119
- 8,58%; Sn
120
- 32,85%; Sn
122
- 4,72%; Sn
124
- 5,94%.
Thiếc có tính bền hóa học cao, trong đá magma aXt cao hơn đá mafic. Ở nhiệt độ
dưới 100 ºC thiếc không bị oxy hóa, ở bề mặt bị phủ một lớp mỏng SnO
2
. Thiếc đẩy hydro
rất chậm từ dung dịch pha loãng H
2
SO
4
và HCl, tan nhanh trong H
2
SO
4
nóng đậm đặc và
kiềm đậm đặc, tan trong HNO
3
ngay cả trong dung dịch nóng và nguội. Trong các hợp chất,
thiếc có hóa trị Sn
4+
và Sn

2+
. Trong điều kiện nội sinh, thiếc di chuyển được nhờ có F và B
liên quan với hoạt động magma aXt.
Thiếc là nguyên tố linh động, dễ di chuyển vì bản chất hai mặt, vừa là ion dương
trong muối đơn và phức, vừa là ion âm trong stanat và sulfostanat, nên dung dịch chứa thiếc
có thể di chuyển đi xa lên phần trên của vỏ Trái đất. Có lẽ vì thế mà khoáng hoá thiếc liên
quan với magma aXt có thể đi lên phần cao nhất của vỏ Trái đất, tồn tại trong vỏ sial, hoặc
đến phần nóc của thể magma liên quan với chúng. Ở dưới sâu bên dưới vỏ sial, các đá
magma nghèo hoặc không có thiếc (Sn – deficient magma).
Thiếc là nguyên tố lưỡng tính, vừa có tính ưa đá vừa có tính ưa đồng. Kích thước bán
kính ion Sn
4+
(0,074µm) gần với kích thước bán kính ion Nb
5+
, Ta
5+
, và Ti
4+
nên thường tạo
thành những hỗn hợp đồng hình trong các titanat và tatalo – niobat cũng như dưới dạng hỗn
hợp đồng hình của thiếc trong quặng xám (đến 1,5%).
Tính ưa đá của thiếc thể hiện ở sự thường xuyên có mặt trong các khoáng vật tạo đá
như biotit, muscovit, felspat, sphen, hiếm hơn còn gặp trong amphibol, pyroxen, granat.
Trong môi trường aXt tính ưa đồng thể hiện ở sự tham gia của Sn
4+
trong các phức
anion thành tạo stanat và sulfostanat. Ngoài ra thiếc còn có mặt trong các hợp phần của bor
(gunsit, nordensendin…) và các khoáng vật skarn khác.
II.4. Kinh tế nguyên liệu khoáng
Các mỏ rất lớn có trữ lượng >100 ngàn tấn, lớn 25 - 100 ngàn tấn, trung bình 5 - 25

ngàn tấn, nhỏ <5 ngàn tấn. Quặng Sn giàu có ở các mỏ nguyên sinh chứa >1% Sn, trung bình
1 - 0,4%, nghèo 0,1- 0,04%. Các mỏ sa khoáng được khai thác khi hàm lượng Sn 100 -
200g/m
3
. Trữ lượng Sn cơ sở của thế giới: 10 triệu tấn. Sản lượng khai thác năm 1993: 175
ngàn tấn. Giá thành: 4.900USD/tấn.
Nước sản xuất chủ yếu (%): Trung Quốc (24), Brazin (10), IndoneXa (14,3), Bolivia
(8,6), Thái Lan (8), Malaysia (8).
II.5. Công dụng
Từ năm 1820 do biết được cách chế tạo sắt tây nên Sn đã trở thành một trong những
nguyên liệu quan trọng bậc nhất. Khoảng 40% tổng lượng thiếc dung vào mục đích này.
Hợp kim batit (Sn-Pb-Sb) dùng để đúc ổ trục máy móc, Sn là kim loại không thể thiếu
được của nhiều ngành kỹ thuật hiện đại. Muối Sn dùng để chế màu, chất men, làm kính,
clorua Sn dùng trong ngành sơn và công nghiệp thủy tinh, surfua Sn dùng trong ngành đúc,
sắt tây dùng làm đồ hộp. Sn dùng trong công nghiệp quốc phòng, là kim loại chiến lược quan
trọng.
Thiếc dùng để sản xuất đồng thanh, hợp kim hàn và babit. Đối với lĩnh vực này yêu
cầu hơn 50% tổng lượng thiếc, trong đó một nửa hàng để sản xuất hợp kim hàn.
Một số lượng thiếc dùng ở dạng lá mỏng để bao gói. Gần đây người ta dùng thiếc trong hợp
kim với nhôm và titian dùng trong kỹ thuật du hành vũ trụ.
Hình II.3. Biểu đồ tiêu thụ thiếc trên thế giới năm 2006
(nguồn www.itri-innovation.com)
PHẦN 2
Hình II.4. Một số ứng dụng của thiếc

Hình III.4a. Hợp kim thiếc


Hình III.4c. Kính nổi


Hình III.4b. Sắt tây
NGUỒN GỐC, ĐIỀU KIỆN THÀNH TẠO VÀ
CÁC LOẠI HÌNH KHOÁNG SẢN THIẾC
CHƯƠNG III
CÁC KIỂU NGUỒN GỐC VÀ KIỂU MỎ CÔNG NGHIỆP CỦA
KHOÁNG SẢN THIẾC
III.1. Đặc điểm địa chất các mỏ thiếc
Khoáng sàng thiếc phát triển ở vùng uốn nếp địa vồng, các địa khối trung tâm và cả
trong các đới hoạt hóa của khiên và của nền. Những công trình nghiên cứu cho rằng vị trí các
đai khoáng hóa thiếc trùng với các nơi dát mỏng của vỏ Trái Đất với bề dày các trầm tích
lớn, nghĩa là phân bố ở những nơi hoạt động mạnh của vỏ Trái Đất, gồm:
- Đới thành tạo võng lâu dài và được lấp đầy bởi các đá phiến – cát kết
- Những đai uốn nếp quanh các địa khối trung tâm (vi lục địa)
- Những nơi nứt tách sâu và những nơi giao nhau của các đứt gãy phá hủy sâu trên
miền nền mà nơi đó xuất hiện các thành tạo xâm nhập.
Các thể granit chứa thiếc và những vùng mỏ quặng thiếc được khống chế bởi các yếu
tố kiến trúc như sau:
- Vùng bản lề của các cấu trúc nếp uốn vồng và những nơi uốn cong của cấu trúc nếp
uốn bị chia cắt nhiều đứt gãy phá hủy có tuổi khác nhau
- Đứt gãy sâu, đặc biệt nơi giao nhau giữa chúng và nếp uốn.
Đôi khi trong những vùng rộng lớn quặng hóa thiếc phân bố ở ven rìa các thể xâm
nhập, và phổ biến là ở vòm các khối xâm nhập. Ngoài ra thành phần thạch học của các đá
vây quanh cũng đóng vai trò quan trọng – nghĩa là quặng hóa (thể quặng) phân bố ở các tầng
trầm tích xen kẽ của đá cát kết và phiến, tại những nơi với các lớp đá dòn, dễ vỡ như cát kết,
quartzit, plagiogneiss amphibol.
Về mặt phân bố, mỏ thạch anh – cassiterit được thành tạo theo hai nhóm chính:
- Trên các thân xâm nhập, phân bố trong các tầng đá phiến – cát kết vây quanh
- Trong các thể xâm nhập granitoit (nơi phần lồi, phần nhô) với khoảng cách quặng
hóa từ 1,5 – 2km
Phụ thuộc vào hình dạng các thể xâm nhập, sự có mặt các đứt gãy phá hủy trước

quặng mà các thể mạch quặng có thể có nhiều dạng khác nhau: hình vòng, kéo dài hoặc là
mạng mạch quặng phức tạp. Các yếu tố kiến tạo địa phương khống chế sự phân bố
quặng hóa:
- Quặng hóa dạng mạng mạch:
• Tại những nơi tiếp giáp của các đứt gãy có nhiều phương khác nhau
• Tại ven rìa các khối xâm nhập nơi mà phổ biến nhiều khe nứt được thành tạo
trong các quá trình kết tinh
• Trong các vùng họng núi lửa
- Các thân quặng trong các khe nứt vỡ vụn
- Các thân quặng trong các hệ thống khe nứt liên hợp và các nứt tách
Tuy nhiên các cấu trúc thuận lợi hơn có giá trị công nghiệp là kiểu quặng hóa mạng
mạch và một phần liên quan với các thành tạo núi lửa. Các mỏ phân bố trong các thành tạo
núi lửa đặc trưng là thường có kích thước lớn và lịch sử phát triển phức tạp, bắt đầu từ lúc
xâm nhập các đai mạch có nhiều tuổi, thành phần khoáng vật các mạch (từ giai đoạn nhiệt độ
cao đến nhiệt độ thấp) rất khác nhau và cuối cùng là các dịch chuyển kiến tạo sau quặng.
III.2. Các kiểu mỏ khoáng. Liên hệ trên thế giới
III.2.1. Mỏ pegmatit
Thiếc gặp trong các kiểu khác nhau của pegmatit, nhưng chỉ có loại natri liti thì hàm
lượng cassiterit cao và có giá trị công nghiệp. Đối với pegmatit chứa thiếc, thường greizen
hóa và albit hóa. Quá trình đó cũng thường xảy ra ở đới nội, ngoại tiếp xúc của các khối
granit chứa thiếc và có khi xa ranh giới tiếp xúc đến 1 – 2 km hoặc hơn.
Nhiều nhà nghiên cứu phân ra thành 2 loại là:
- Pegmatit thạch anh - microlin
- Thạch anh – microlin – spodumen pegmatit chứa thiếc
Phổ biến nhất là pegmatit thạch anh – microlin và chúng bị albit hóa, muscovit hóa
mạnh mẽ. Thành phần khoáng vật là albit và các khoáng vật khác đi kèm có các loại
photphat, tourmalin crom và columbit phát triển nhiều trong mạch. Các thành tạo có greizen
cùng với cassiterit có dạng ổ, thấu kính và các thể méo mó khác ở ven rìa. Đôi khi còn gặp
surful cùng với thạch anh được thành tạo ở giai đoạn sớm. Các khoáng vật thành tạo ở giai
đoạn sau (chồng gối) của pegmatit thạch anh – microlin – spodumen làm cho spodumen bị

biến đổi thành tạo tập hợp albit – mica. Các thể pegmatit chứa thiếc có dạng tấm ổ, thấu kính
và hiếm hơn là dạng ống.
Cassiterit đặc trưng cho thành hệ pegmatit có dạng tinh thể tháp đôi 4 phương rất
ngắn (K = 1), tỷ trọng 6,83, màu đen nâu, nâu đen, đa sắc mạnh, chứa nhiều Ta, Nb (khoảng
0,5 – 1%).
Kiểu mỏ pegmatit có quy mô nhỏ, hàm lượng Sn trong quặng nghèo dưới 0,1% nên
không có ý nghĩa công nghiệp
Liên hệ trên thế giới
Kiểu này gặp ở Liên Xô (Trung Á), Ruanda, Zair, Brazin.
Pegmatit chứa thiếc ở Trung Á phân bố thành dãy kéo dài dọc theo đường phân thủy
của dãy núi, trong các đá phiến tuổi Paleozoi trung và các thể xâm nhập granit. Mỏ phân bố
bên trong các thể granit cũng như ở đới cạnh tiếp xúc. Theo Beus A.A (1948) thì pegmatit
chứa thiếc của vùng phát triển cấu tạo đới thuộc giai đoạn kết tinh ban đầu, và cả thành tạo
đới thuộc giai đoạn thay thế. Đối với pegmatit kết tinh ban đầu chia thành 6 đới: 1/ granit
pegmatoit; 2/ dạng aplit; 3/ đới vân chữ (chữ cổ); 4/ đới thạch anh – felspat hạt trung và lớn;
5/ đới felspat dạng khối và 6/ đới thạch anh dạng khối và thạch anh – spodumen. Các đới đó
phân bố định hướng theo độ dày từ ven rìa tới trung tâm của mạch pegmatit và theo cả chiều
thẳng đứng.
Các đới do thay thế như sau: muscovit, albit, lepidomelan và greizen. Đới muscovit
với thành phần khoáng vật là fosfat mangan và sắt, muscovit và thạch anh; đới albit gồm có
albit, tourmalin, fosfat mangan và sắt. Trong đới lepidolit có albit, lepidolit và thạch anh.
Đới g gồm có muscovit, thạch anh, albit và cassiterit. Ngoài ra còn có columbit (Fe, Mn)
(Nb, Ta)
2
O
6
. Hàm lượng thiếc trong pegmatit thay đổi từ 0,1 – 0,2%. Theo Strelkin M.F thì
pegmatit albit chứa thiếc có hai loại: 1/ Klevelandit (albit dạng tấm) – spodumen; 2/ greizen
cassiterit phân bố cộng sinh chặt chẽ với albit và mica greizen.
Ở Châu Phi phổ biến rộng rãi pegmatit liên quan với các thành tạo granit tiền Cambri

và Paleozoi hạ. Tại đó chúng tập trung trong 5 giải cấu trúc. Granit chứa thiếc có tuổi
Paleozoi hạ (800 – 1015 triệu năm) và đi cùng với chúng (về thời gian và không gian) là
pegmatit chứa thiếc thuộc phạm vị giải trung Châu Phi kéo dài đến 1100 km. Ở đây phổ
biến nhiều loại pegmatit mà thành tạo của chúng phụ thuộc vào chế độ kiến tạo cũng như
nhiệt độ kết tinh của dung thể magma. Pegmatit chứa thiếc thường phân bố ở phần ven rìa
của khối granit chứa thiếc và đới ngoại tiếp xúc. Khoáng hóa công nghiệp chủ yếu ở đới
ngoại tiếp xúc, trong đó có mỏ Manono – Kitotolo khá điển hình ở tỉnh Saba, Zair. Ở mỏ này
phát hiện hai thân pegmatit, mỗi thân kéo dài khoảng 5 km với bề rộng 400 m. Pegmatit cấu
tạo đới, theo đó từ ven rìa vào trung tâm gồm các đới sau: 1/ thạch anh với muscovit (hoặc
không có), 2/ a – aplit; 3/ natri – liti. Các khoáng vật quặng trong pegmatit có cassiterit và
tourmalin, rutil, torolit (SnTa
2
O
7
), leningit (acsenit của Fe, Co, Ni-Fe[As
2
], arsenopyrit, pyrit
và ilmenit. Đá vây quanh (rìa) của các thân pegmatit là phiến mica. Cassiterit phân bố không
đồng đều trong đá pegmatit, nhưng thường tập trung ở đới thạch anh – muscovit, thành tạo
những tinh thể lưỡng tháp màu nâu sẫm. Khai thác kèm theo cassiterit là columbit – tantanit.
Hiện nay khai thác quặng gốc còn tươi lấy khoảng 2 kg cassiterit trong khoảng 1m
3
pegmatit.
Tuy mỏ cassiterit pegmatit không có ý nghĩa lớn trong công nghiệp nói chung, nhưng
từ đấy cung cấp cassiterit trong sa khoáng, và khai thác cùng với quặng thiếc còn có Ta, Li
và đôi khi cả Be nữa.
III.2.2. Mỏ Skarn
Kiểu mỏ này đặc trưng bởi sự thành tạo cassiterit trong đới skarn rất giàu magnetit và
surful. Thể quặng dạng lớp có thế nằm dốc hoặc thoải tại nơi tiếp xúc của granitoit với đá
vôi, hoặc dạng ống nơi giao nhau của các đứt gãy, liền kề nhau hoặc nơi uốn võng hoặc dạng

lớp. Thiếc chủ yếu phân bố trong skarn dưới dạng cassiterit và đi kèm mật thiết với các
khoáng vật magnetit và các khoáng surful khác, trong đó phổ biến là arsenopyrit, pyrotin …
Các nhà nghiên cứu phân chia skarn cassiterit thành hai kiểu khoáng sàng magnetit và
surful. Kiểu đầu trong thành phần của quặng rất giàu magnetit, kiểu này thường gặp nhưng ý
nghĩa công nghiệp lại hạn chế, không lớn. Sự thành tạo khoáng vật của kiểu mỏ này thường
có nhiều giai đoạn, trong đó magnetit thành tạo muộn hơn các khoáng vật skarn nhưng đôi
nơi vẫn thấy có sự xen kẽ giữa magnetit và granat, như vậy có lẽ chúng thành tạo đồng thời
với các khoáng vật alumosilicat. Cassiterit là những hạt rất nhỏ và về cơ bản kết tinh muộn
cùng các surful sắt, kẽm và các kim loại khác. Tuy nhiên trong một vài mỏ thấy có sự
chuyển tiếp từ kiểu cassiterit – magnetit sang kiểu cassiterit – surful. Trong kiểu mỏ skarn –
cassiterit giàu surful thì thường phổ biến các dạng borat, trong đó có danburit (CaB
2
Si
2
O
8
),
datolit {CaB(SiO
4
)(OH)}… hoặc ở một vài mỏ lại có stanoborat. Cassiterit thường đi cùng
với clorit và các loại surful như pyrotin, chalcopyrit, sphalerit, stannin, bornit, kubanit, ngoài
ra còn gặp bismut trong một vài mỏ.
Kiểu mỏ skarn ít phổ biến và có ý nghĩa thứ yếu đối với Sn.
Liên hệ trên thế giới
Mỏ skarn nam Trung Quốc phổ biến ở vùng quặng thiếc Tây Nam như mỏ GenXu.
Vùng mỏ kéo dài dọc theo ven rìa miền nền đến 80 km, nhưng những mỏ thiếc lớn chỉ tập
trung ở phần đông nam trên một diện tích không lớn. Tại vùng GenXu đã khai thác trên 60%
khối lượng thiếc ở Trung Quốc. Về vị trí địa chất thì mỏ phân bố đại trũng (hố trũng) nền
kéo dài theo phương đông bắc và ở phía tây nam thì bị chi phối bởi đứt gãy lớn giới hạn
vùng nền. Vùng có cấu tạo khối tảng uốn nếp và thành tạo những địa lũy, địa hào với những

biến vị tỉnh trong các đá của lớp phủ nền, và chính uốn nếp biến vị đó tạo nên chuyển động
khối tảng của miền nền. Các thành tạo đá vôi Trias là nơi thuận lợi cho việc tạo quặng cũng
bị vò nhàu uốn nếp dạng vòm thoải.
Ở đây các đứt gãy lớn đoạn tầng Genxuxun xuyên surfulốt trung tâm vùng quặng. Các
đá magma gồm có bazan, diabaz, cũng như granitoit với thành phần từ granodiorit và syenit.
Granitoit gây biến chất tiếp xúc với đá vôi thành tạo đá hoa và đá sừng từ phiến – cát kết.
Vùng mỏ có hai nơi lớn nhất là Laostan và Kafan. Cả hai mỏ này kết hợp lại bởi uốn nếp
dạng vòm bị chia cắt phức tạp bởi các đứt gãy. Mỏ Laostan phân bố ở sườn đông bắc nếp
uốn, còn mỏ Kafan thì phân bố ở trung tâm vòm cạnh khối nhỏ granitoit. Một khối khác
tương tự phát hiện ở dưới sâu của vùng mỏ Laostan. Quặng hóa liên quan chặt chẽ với skarn
được thành tạo theo tiếp xúc của granitoit với đá vôi và bị phức tạp hóa bởi các đứt gãy phá
hủy tạo thành lớp tấm trong đá cacbonat ở mái. Phần lớn skarn nghèo quặng. Tuy nhiên ở
những nơi lộ ra hoặc ở những vòm nhỏ của các khối xâm nhập thì quặng surful có cassiterit
xâm tán trên skarn và đá hoa, đôi khi rải rác hoặc tạo thành khối đặc sít bị khống chế bởi đứt
gãy. Dọc theo các đoạn tầng phương đông bắc có các mạch cassiterit – tourmalin. Thể quặng
tương đối lớn Laostan phân bố cạnh đứt gãy vĩ tuyến. Tham gia vào thành phần quặng gồm
có thạch anh, cassiterit, arsenopyrit, cả wolfram và beril.
III.2.3. Mỏ thạch anh - cassiterit
Mỏ thiếc kiểu này liên quan với các thành tạo granit aXt và siêu aXt bị biến đổi hậu
magma cùng với sự thành tạo các khoáng vật như topaz, tourmalin, fluorit, mica fluor và liti.
Các thành tạo xâm nhập đó chủ yếu thành tạo ở dưới sâu, đôi khi độ sâu trung bình. Tuổi của
chúng từ Arkeiozoi, Proterozoi sớm đến Mesozoi muộn và Đệ tam. Leviski O.D chia ra làm
các thành hệ sau:
- Thành hệ greizen chứa thiếc
- Thành hệ cassiterit – topaz – thạch anh
- Thành hệ cassiterit – felspat – thạch anh
- Thành hệ cassiterit – thạch anh
Các mỏ thuộc các kiểu thành hệ này có nhiều đặc điểm chung, chỉ khác ở tỷ lệ giữa
các khoáng vật, trong đó chủ yếu là thạch anh, topaz, muscovit và giữa chúng có sự chuyển
tiếp. Các mỏ kiểu thạch anh – cassiterit liên quan với khối granit lớn thành tạo ở độ sâu lớn

và vừa. Các thành tạo granit đó thường bị biến đổi sau magma xảy ra tại các đới ngoại tiếp
xúc và ngay trong chính bản thân khối granit. Những granit chứa quặng đó rất gần gũi với
granit liên quan với các thành tạo pegmatit chứa thiếc.
Quặng hóa phân bố ngay trong khối granit và ngay cả trong đới ngoại tiếp xúc. Trong
một vài trường hợp ở ven rìa các trường quặng thường xuất hiện các mạch quặng surful đồng
và chì – kẽm được thành tạo ở giai đoạn khoáng hóa muộn. Đa số các mạch quặng cassiterit
– thạch anh lấp đầy khe nứt tách và phân đoạn. Mỏ kiểu mạng mạch đóng vai trò thứ yếu.
Các mạch kéo dài từ vài chục mét đến hàng trăm mét với bề dày thay đổi từ 0,1 – 1m và dần
dần thay đổi độ dày. Các mạch quặng thường tách rời các thể bướu. Ven rìa mạch (ranh giới)
rõ, chứng tỏ chúng được thành tạo do lấp đầy
Thành phần khoáng vật quặng phổ biến là thạch anh, ít hơn có muscovit và tourmalin.
Đôi khi tourmalin ít phổ biến hoặc không có. Các khoáng vật đóng vai trò phụ gồm có
felspat kali, albit, beryl, topaz, fluorit, ambligonit {LiAl(F,OH)PO
4
}… Khoáng vật quặng
phổ biến là cassiterit, wolframit và arsenopyrit. Hàm lượng các khoáng vật surful không
đáng kể. Khoáng hóa xảy ra ở nhiều giai đoạn, trong đó thạch anh và một vài khoáng vật
khác có nhiều thế hệ. Đôi khi trong một vài mỏ phát hiện canxedoan thành tạo giai đoạn
muộn và cả surful thường cộng sinh với cacbonat sắt. Đá vây quanh bị biến đổi muscovit
hóa, topaz – muscovit và các loại greizen hóa.
Kiểu mỏ thạch anh – cassiterit là nguồn cung cấp thiếc quan trọng có ý nghĩa
công nghiệp.
Liên hệ trên thế giới
Mỏ thạch anh – cassiterit phát triển ở nhiều quốc gia như Malaysia, Trung Phi, Tây
Âu, Đông Úc và Sibiri (Nga).
Mỏ bán đảo Kornuelsk ở Anh quốc đã khai thác được trên 200 năm và lấy được 2
triệu tấn thiếc, trong đó có 750 tấn là sa khoáng. Trong thời gian gần đây đang khai thác hai
mỏ Saus – Krofti và Givor. Cấu trúc địa chất của vùng là miền uốn nếp VariX với các thành
tạo trầm tích phiến – cát kết với các lớp xen kẹp cuội kết tuổi Devon – Cacbon. Ở vùng
Devonsir, các trầm tích Cacbon bị phủ bởi các trầm tích vụn màu đỏ và các thành tạo nguồn

núi lửa tuổi Pecmi. Phía đông của vùng là các thành tạo Mesozoi của bể London. Trầm tích
Devon – Cacbon bị biến vị mạnh mẽ, vò nhàu, uốn nếp theo phương á vĩ tuyến, bị chia cắt
bởi nhiều đứt gãy và bị 5 thể granit tuổi Cacbon – Pecmi xuyên cắt. Granit hai mica, nhiều
pha và đi kèm là các thành tạo pegmatit. Về thạch hóa, granit có hàm lượng K
2
O lớn
hơn Na
2
O.
Các thể quặng phân bố theo các đứt gãy phá hủy trong granit cũng như trong đá phiến
– cát kết vây quanh. Các thể mạch liên quan với các khe nứt thớ chẻ và có kích thước lớn
dọc theo các phá hủy dăm kết. Quặng gồm nhiều khoáng vật (tới hơn 220), trong đó chủ yếu
là cassiterit, stannin, chalcopyrit, arsenopyrit và wolframit. Hiếm hơn có seelit, quặng xám,
sphalerit, bismutin, acxenit của Ni, Co, nhựa Uran, bocnit, galenit Các khoáng vật mạch
chủ yếu là thạch anh, ít hơn clorit, tourmalin và fluorit. Các khoáng vật phân bố theo đới.
Trong các mạch phân bố trong granit, ở dưới sâu 800 – 1200m phổ biến thạch anh với
cassiterit. Ở độ sâu 300 – 800m cùng với cassiterit còn có surful của đồng và wolfram. Cao
hơn (gần mặt đất) chủ yếu là quặng surful. Ngoài ra quặng cũng phân bố theo đới ngang.
Phần lớn các mạch thiếc phân bố trong granit và đá sừng; cách xa granit thì giàu surful, còn
ở sườn của trường quặng thì phân bố quặng chì – kẽm. Tuy nhiên, sự phân đới như vậy
không cố định và đôi khi trong granit cũng phát hiện nhiều quặng surful. Mạch tương đối
lớn, kéo dài 7 km với bề dày khoảng 1 m. Mạch Dolkoaf kéo dài đến 6 km và khai thác đến
độ sâu 950m. Hàm lượng thiếc trong quặng 0,7 – 1,2 %.
Mỏ Saus – Krofti trong phạm vi vùng quặng phân bố các đá biến chất phiến – cát kết
(Kilas). Ở dưới sâu chúng bị granit Kariluri xuyên cắt. Trong đá “Kilas” có thể lớp (sila) đá
lục với bề dày đến 100m. Mặt tiếp xúc của granit với đá “Kilas” nghiêng về hướng bắc và
càng xuống sâu thì thoải hơn. Các đá bị hệ thống đai mạch porphyr thạch anh xuyên cắt theo
phương đông bắc. Nơi bị phá hủy là ở ranh giới tiếp xúc thoải của granit với các đá “Kilas”
và cũng tại đo phát triển nhiều mạch quặng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, vùng quặng phân
bố nhiều đứt gãy phá hủy sau quặng có phương tây bắc, trong đó lớn nhất là đứt gãy

Dolkoatsk làm dịch chuyển mạch quặng đến 100 – 120 m. Tuy nhiên, nơi giao nhau của đứt
gãy với mạch quặng có phương đông bắc rất giàu quặng. Điều đó có thể cho rằng đứt gãy
được thành tạo ngay cả trước tạo quặng.
Quặng hóa thiếc phân bố trong các mạch hoặc một phần của chúng nằm trong granit.
Các mạch quặng trong granit thường ranh giới không rõ ràng và phân tách ra hàng loạt
những vi mạch phân bố cạnh nhau và lấp đầy clorit, thạch anh và các khoáng vật khác. Bề
dày của mạch thay đổi từ 0,3 – 1,5 m, các mạch đều kèm theo biến đổi nhiệt dịch với bề dày
đạt đến 3 m. Đá vây quanh bị biến đổi thạch anh hóa, sericit hóa, clorit hóa và tourmalin với
tỷ lệ khác nhau. Trong các đá bị biến đổi hầu như đều có cassiterit xâm tán. Trong chính các
mạch đó, cassiterit thành tạo từng đám, cụm ở những nơi tập trung tourmalin màu xanh da
trời thành tạo muộn và cũng chính trong các mạch ấy, nơi nào không có tourmalin màu xanh
da trời thì không có cassiterit. Ở một vài nơi của các mạch đặc trưng trong mỏ đã xuất hiện
những vi mạch thạch anh – fluorit được thành tạo muộn hơn quặng thiếc. Ở những nơi đó
hàm lượng thiếc không cao, nhưng trong đá vây quanh lại thấy khoáng vật jilbertit và hiếm
hơn là rybelit. Ở Nga, mỏ thạch anh – cassiterit phát hiện ở Zabaical và một vài nơi khác.
Mỏ kiểu này ở Zabaical thuộc kiểu mạng mạch. Diện tích vùng quặng phân bố các đá phiến
tuổi Paleozoi hạ bị vò nhàu, cà ép và uốn nếp mạnh mẽ, bị chia cắt bởi nhiều đứt gãy. Một
vài đứt gãy phá hủy có phương tây bắc được lấp đầy bởi các đai mạch lamprofir. Ngay chính
mỏ quặng lại có vùng các đá phiến bị dập vỡ mạnh mẽ, có nhiều chỗ giao nhau của đứt gãy
có phương vĩ tuyến và kinh tuyến. Nơi giao nhau – nút quặng phát triển nhiều mạng mạch
thiếc với những vi mạch thạch anh hoặc những vùng có diện lộ méo mó giàu thạch anh,
cassiterit và một ít surful.
III.2.4. Mỏ cassiterit – surful
Mỏ kiểu này có trị công nghiệp và cassiterit luôn đi cùng với các khoáng vật surful
của sắt, đồng, chì, kẽm và các kim loại khác. Các mỏ cassiterit – surful được thành tạo liên
quan với các đá xâm nhập aXt – granitoit có tính bazơ cao hơn như granodiorit và cả diorit
thạch anh. Về đặc điểm địa chất phân bố thì các mỏ này tương tự như các mỏ surful và mỏ
quặng vàng. Các mỏ surful – cassiterit thành tạo ở độ sâu không lớn so với mặt đất; trong các
miền uốn nếp thì độ sâu khoảng 1000 m theo chiều đứng. Dung dịch quặng tạo mỏ thường
có hàm lượng lưu huỳnh ít. Vì vậy mà khoáng surful sắt trong quặng chủ yếu là

pegmatitirotin và phổ biến nhiều clorit sắt. Biến đổi cạnh quặng thường là clorit, tourmalin
hóa, sericit hóa và propylit hóa.
Theo Smirnov S.S và Rakevits E.A thì kiểu này có thể chia thành các thành hệ
quặng sau:
- Thành hệ cassiterit – tourmalin – surful
- Thành hệ cassiterit – surful trong đó phổ biến surful sắt
- Thành hệ cassiterit – surful trong đó phổ biến surful chì, kẽm
- Thành hệ cassiterit – surful trong đó phổ biến muối surful (surfulsol) của bạc
 Thành hệ cassiterit – tourmalin – surful
Các thành tạo xâm nhập granit có mặt trong các vùng mỏ cassiterit – tourmalin –
surful thường có hàm lượng B (bor) cao. Trong hàng loạt các vùng mỏ, quá trình trao đổi
biến chất sau magma đã làm cho B thải ra và thành tạo đá greizen giàu tourmalin, sừng
tourmalin trong các đá phiến vây quanh (ngoại tiếp xúc), cũng như skarn tourmalin –
corundum và cuối cùng là các mạch thạch anh – tourmalin có cassiterit và surful. Trong các
mỏ kiểu này, các đới khoáng hóa thường phân bố tại nơi dập vỡ và các mạch trong granit chỉ
ở trong các đá của mái.
Các khoáng vật điển hình của mỏ: tourmalin, thạch anh và cassiterit. Cùng với chúng
có muscovit, clorit, wolframit, arsenopyrit, pyrit và một vài khoáng vật khoáng vật khác như
trong các mỏ thạch anh – cassiterit. Tourmalin được thành tạo thay thế các khoáng vật tạo đá
của đá vây quanh và thường đi kèm thạch anh. Ngoài ra đôi khi còn gặp tourmalin cộng sinh
với topaz là khoáng vật luôn thành tạo trước tourmalin. Tourmalin được thành tạo trong
nhiều giai đoạn khoáng hóa, tourmalin thành tạo ở giai đoạn muộn đi cùng với cassiterit và
thường có arsenopyrit. Các khoáng surful khác thành tạo sau chồng gối so với cassiterit.
Liên hệ trên thế giới
Mỏ kiểu thành hệ này tương đối khá phổ biến và đã phát hiện ở các nước Anh quốc,
Úc, đảo Tasmania. Ở Nam Phi đã phát hiện hàng loạt mỏ kiểu này trong granit khối
Butsveld, ở Nga phát hiện ở vùng Zabaical, Lacutia, vùng thượng Kolum, Tsukhot
Mỏ Maunt – Bisof (đảo Tasmania) là mỏ thiếc lớn nhất ở Úc. Mỏ phân bố trong các
thành tạo biến chất trước Cambri (loạt Dundas) bị vò nhàu, uốn nếp mạnh. Chúng bị phủ bởi
đá trầm tích Đệ tam (cát, gravelit) và bazan olivin. Loạt Dundas bị các đai mạch cổ gabro,

pyroxenit, pegmatoit và granit trẻ xuyên cắt. Cùng với granit có các đai mạch porphyr thạch
anh phân bố theo hệ tống đứt gãy cắt nhau thẳng góc. Khoáng hóa thiếc liên quan với các đai
mạch porphyr thạch anh bị biến đổi chuyển sang loại đá khác (pitiknit – là khoáng topaz
dạng cột lăng trụ) có topaz, tourmalin, cassiterit và các khoáng surful thành tạo sau. Tại
những nơi giao nhau của mạch thạch anh với những đứt gãy đoạn tầng hàm lượng quặng
tương đối giàu hơn. Ngoài ra còn gặp các mạch thạch anh – cassiterit. Các thể quặng gặp
nhiều surful (pyrotin, pyrit và mackazit) có khi đến 50%, phần còn lại là thạch anh, talc,
cacbonat magie – canX – mangan và cassiterit.

×