Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.55 KB, 16 trang )

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG
SẠCH VỮNG MẠNH
Nguyễn Đức Duyệt
CN Triết Học K08
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN). Suốt cả cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn kiên định quan điểm
và lập trường xây dựng ĐCSVN theo chủ nghĩa Mác - Lênin và rèn luyện ĐCSVN
theo hướng đó. Đó là "Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là
những thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong
sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân".
Vì vậy muốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, theo Người, trước tiên là
phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đó là nguyên tắc tập
trung dân chủ. Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung trong Đảng là : Thiểu số phải
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, tất cả đảng viên phải chấp hành vô điều
kiện Nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chú ý thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người nói : “ Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất
cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình ".
Ở Hồ Chí Minh, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện
chứng giữa dân chủ và tập trung, tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải
dưới sự chỉ đạo của tập trung. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ ở ngoài xã hội
song dân chủ không phải là vô chính phủ.
Về "nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, theo quan điểm của
Người, chỉ có tập thể lãnh đạo mới huy động được tất cả trí tuệ của đội tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, vì " một người dù
khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, xem
xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả
mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh
nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó,
góp kinh nghiệm và xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi
mặt và có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn đề mới giải quyết chu đáo khỏi sai lầm”.
Nhưng theo Người, “ tập thể lãnh đạo" mới chỉ là một vế. Người cho rằng : " Tập thể


lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau". Bởi lẽ " Nếu
không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này uỷ cho người kia, người kia
uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong.
Tục ngữ có câu " Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa" là như thế".
Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh đây là vũ khí sắc
bén nhất để làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh và là quy luật phát triển của
Đảng. Người nhận thức sâu sắc rằng, tuy Đảng ta gồm những người có tài, có đức,
phần đông là những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất , nhưng "
không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay”, do vậy trong Đảng phải luôn
1
luôn tự phê bình và phê bình, mà phê bình và tự phê bình " phải ráo riết", " triệt để,
thật thà, không nể nang, không thêm bớt". Cách phê bình cũng phải thành thật, giàu
lòng nhân ái, khách quan. Thái độ phê bình phải có văn hoá, mang tính chất xây dựng
chứ không phải nói xấu nhau. Những người bị phê bình thì phải vui vẻ nhìn nhận để
sửa chữa. Được như vậy thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô
cùng.
Thứ hai là tư cách đảng viên và vấn đề cán bộ. Vấn đề tư cách của người đảng
viên, Hồ Chí Minh đề cập thường xuyên trên tất cả các mặt, nhưng bao giờ Người
cũng coi đạo đức là gốc của người cộng sản: Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ
cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Có thể nói cả cuộc đời Hồ Chí
Minh là tấm gương sáng ngời về phấn đấu, rèn luyện cho đạo đức của người cộng sản
- Đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm mà bất cứ
một người đảng viên nào cũng phải phấn đấu học tập và noi theo.
Còn về vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh coi “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc",
" muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Yêu cầu của Hồ Chí
Minh đối với cán bộ cách mạng là : Có đạo đức cách mạng - Đây là yêu cầu đầu tiên
cần phải có của người cán bộ; Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối chủ
trương của Đảng, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi; Có mối liên hệ mật thiết
với nhân dân; Luôn luôn học hỏi lý luận Mác - Lênin, học tập nâng cao trình độ

chuyên môn kỹ thuật. Phải có phong cách công tác tốt, chống bệnh chủ quan, tác
phong quan liêu, đại khái
Đồng thời với những quan điểm về cán bộ, Hồ Chí Minh cũng nêu ra những
yêu cầu đối với công tác cán bộ. Đó là phải " hiểu và đánh giá đúng cán bộ". Muốn
vậy phải có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh
vực, hoàn toàn công minh, khách quan; Phải " khéo dùng cán bộ", tức là đặt người
đúng việc, kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ già; Chống chủ nghĩa biệt phái, địa phương
cục bộ trong chính sách cán bộ, tránh đầu óc phe phái họ hàng; Phải " chiêu hiền đãi
sĩ", " cầu người hiền tài", " có gan cất nhắc cán bộ". Xem xét kỹ trước khi cất nhắc
cán bộ, nhưng sau khi đề bạt cần phải kiểm tra giúp đỡ.
Thứ ba là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh, sức mạnh của Đảng chính là bắt nguồn từ mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và
nhân dân. Đảng ở trong dân, dân trong Đảng. Sự nghiệp cách mạng là của dân, do
dân và vì dân. Mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đều bắt nguồn từ sức mạnh của
nhân dân được Đảng dẫn lối chỉ đường. Đảng là người đại diện trung thành và đầy đủ
nhất lợi ích sống còn và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Đảng lấy phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân làm mục đích cao nhất của mình.
Hồ Chí Minh cũng là người đã sáng lập và rèn luyện Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh. Đặc biệt Người luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng Đoàn, coi đó là một yếu tố
khách quan, một bộ phận quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Người
căn dặn: “ Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất
cần thiết". Chính vì vậy, "Đảng ta luôn coi trọng công tác thanh niên và vấn đề thanh
niên, xác định chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn là làm trước một bước việc xây dựng
Đảng”.
2
II. TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG DI CHÚC CỦA HỒ
CHÍ MINH
Đã 40 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa. Trước lúc đi xa, Người để lại cho
muôn đời sau một bản Di chúc thiêng liêng. Di chúc đã trở thành di sản tinh thần vô
cùng quý giá, kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung tư

tưởng cốt yếu định hướng phát triển lâu dài cho cách mạng Việt Nam. Đó là những
tình cảm thắm thiết và niềm tin vững chắc của Người đối với nhân loại tiến bộ, mà
trước hết là với Đảng ta, nhân dân ta và các thế hệ mai sau.
Di chúc là một văn kiện lịch sử phản ánh tập trung nhất tư tưởng, đạo đức và
tác phong của Người, thể hiện tinh thần trách nhiệm lớn lao, lo lắng mọi bề đến tương
lai của dân tộc ta, của chế độ xã hội chủ nghĩa và loài người. Tư tưởng trong Di chúc
thể hiện nguyện vọng, ý chí và quyết tâm đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất nước nhà. Với ý nghĩa đặc biệt đó mà “Di chúc của Người hiện nay cũng
như sau này không những chỉ là của nhân dân Việt Nam mà còn dành cho tất cả dân
tộc, các đảng đang đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, dù ở châu Á,
châu Âu hay ở bất cứ nơi nào trên các lục địa”
Trong Di chúc, Người khái quát những nhiệm vụ chiến lược và những vấn đề
mấu chốt mà Đảng và nhân dân ta phải nắm vững để hoàn thành sự nghiệp cách
mạng, trong đó, nội dung bao trùm quan trọng nhất làm nên giá trị cách mạng, giá trị
khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc của Di chúc là tư tưởng xây dựng đảng. Đây là
nét độc đáo trong tư tưởng và đạo đức cách mạng của Người. Tư tưởng xây dựng
đảng trong Di chúc bao gồm những vấn đề rất cơ bản và phong phú mà nội dung
quan trọng là giáo dục, rèn luyện đảng viên, nâng cao trình độ lý luận, nhận thức,
năng lực trí tuệ của đội ngũ; chống giáo điều, chủ nghĩa cá nhân; tuân thủ triệt để và
vận dụng sáng tạo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc tổ chức ra đảng tiền phong để lãnh đạo cách
mạng và sự lãnh đạo đúng đắn của đảng là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của
cách mạng, Người đã sáng lập và lãnh đạo Đảng ta. Công lao to lớn của Người là đã
tiếp thu và truyền bá thành công chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trên cơ sở đó
thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của quá trình lựa
chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và gắn liền với tên tuổi Hồ Chí Minh. Đây là
sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn, đánh dấu bước ngoặt căn bản căn bản không chỉ
trong lịch sử cách mạng nước ta, mà cả lịch sử cách mạng của ba nước Đông Dương.
Nhờ uy tín, tài tổ chức, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo của Người, Đảng ta nhanh

chóng trở thành đội tiền phong duy nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và cả dân tộc - đảng cách mạng duy nhất lãnh đạo cách mạng với đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo.
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là một tư tưởng chiến lược trong Di chúc của
Người. Hồ Chủ tịch luôn chăm lo xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người
coi việc giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình. Với Người, sự đoàn kết, thống nhất của Đảng phải được thể hiện trên tất cả các
3
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tình hình càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề,
sự đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động của Đảng càng quan trọng, nhất
là đối với cán bộ lãnh đạo. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân của khối đại
đoàn kết, nên trong quá trình cách mạng, từ khi sáng lập đảng cho đến trước lúc đi xa,
Người rất coi trọng xây dựng khối đoàn kết, thống nhất, luôn đề cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, thường xuyên quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng Đảng, chăm lo giáo
dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên về phẩm chất đạo đức cách mạng nhằm xây dựng
đảng ta thành một đảng cách mạng, trong sạch, đoàn kết, một lòng một dạ phục vụ
giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Với ý nghĩa như vậy nên trong Di chúc,
khi nói về Đảng, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” .Chính “Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho
nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta
hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng phải là đội tiên phong
của giai cấp và dân tộc, phải hoàn thiện mình để lãnh đạo đất nước. Mỗi khi cách
mạng chuyển giai đoạn chiến lược, Người đều nhắc nhở phải chỉnh đốn Đảng, làm
cho Đảng xứng đáng với yêu cầu nhiệm vụ mới. Người đã nhạy bén thấy trước những
hiện tượng cần phải chỉnh đốn Đảng ngay sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi,
nhưng đáng tiếc, chúng ta chưa làm triệt để như Bác căn dặn trong Di chúc. Trong Di

chúc viết tháng 5-1968, Người nhắc nhở: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn
Đảng”, bởi theo Người xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa là vấn đề thường xuyên, vừa
hết sức cấp bách. Trước lúc đi xa, điều Người quan tâm trước hết cũng là “nói về
Đảng”.
Về chỉnh đốn Đảng, Người không coi đó là biện pháp tình thế mà là nhiệm vụ
tất yếu, thường xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự vận động trong
quá trình phát triển. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng thái độ
bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường, không để rơi vào tình trạng dao động, bi
quan; khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo,
chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu; khi Đảng cầm quyền, đảng viên rất dễ đánh mất
mình, ngày hôm qua vĩ đại, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến
nếu họ không trong sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy lại càng cần coi trọng
chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, trước yêu cầu xây dựng đảng ngang tầm với nhiệm vụ lịch
sử mới và trước thực trạng của Đảng ta hiện nay thì nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng vừa là cơ bản, thường xuyên lại vừa rất cấp bách.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển, là phương
thức giáo dục, rèn luyện đảng viên và xây dựng đảng, làm cho Đảng ta thường xuyên
trong sạch, vững mạnh. Đây là một luận điểm quan trọng của Người, góp phần làm
phong phú thêm lý luận xây dựng đảng. Người cho rằng, tự phê bình và phê bình
trước hết là để soi vào mình và người khác giúp mình thấy rõ mình hơn nhằm phát
huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm; để tư tưởng và hành động đúng hơn, tốt hơn,
tiến bộ hơn; để xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người yêu cầu “Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
4
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”
Muốn thực hiện nguyên tắc này, theo Người, mỗi đảng viên phải tự phê bình mình
trước, sau đó mới phê bình người khác. Người nhắc nhở, cán bộ trọng trách càng cao,
đảng viên trách nhiệm càng lớn càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Bên
cạnh tính kiên quyết trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, Hồ Chủ tịch
rất coi trọng cái tâm trong sáng khi phê bình “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn

nhau”.
Hồ Chí Minh là người kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tham ô,
lãng phí. Người coi đó là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu “phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”. Để thực hiện tốt điều đó, trước hết đội ngũ cán bộ, đảng viên
phải thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo, được nhân dân
tin yêu, xứng đáng là tấm gương, là ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Đồng thời đảng
phải không ngừng đổi mới và chỉnh đốn đội ngũ. Chính vì vậy, điều dặn dò trước lúc
đi xa của Người là “Trước hết nói về Đảng”. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên
phải đoàn kết, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, để xứng đáng là đội
quân tiên phong và người lãnh đạo xuất sắc trong mọi hoàn cảnh.
Sở dĩ trong những năm qua, Đảng ta xây dựng và củng cố được đội ngũ đảng
viên đông đảo vững vàng, từng bước nâng cao năng lực, nhanh chóng đáp ứng yêu
cầu cách mạng, hoàn thành những trọng trách được giao phó, được nhân dân tin cậy
và ủng hộ là do Đảng ta luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng đảng. Cho đến nay, ngay cả sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi
mới thành công, chúng ta càng thấm thía rằng, chỉ có nắm vững và vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta mới có thể xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh.
Đây là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Cùng với cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng thì cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” là thể hiện trách nhiệm và tình cảm của Đảng đối với
Bác. Đó là những cuộc vận động liên quan đến vận mệnh của Đảng, của chế độ, của
dân tộc. Vì vậy, xây dựng, chỉnh đốn đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng và cũng là
nguyện vọng, trách nhiệm của toàn dân.
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, trong những năm qua, từng tổ chức
đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đã không ngừng phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo,
đổi mới phương thức lãnh đạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết
của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tròn 40 năm toàn Đảng, toàn dân thực hiện Di chúc của Người. Đây là dịp để mỗi

người, nhất là cán bộ, đảng viên tự xem xét lại mình một cách cặn kẽ trong việc thực
hiện Di chúc của Người như thế nào. Để tiếp tục thực hiện Di chúc thiêng liêng của
Người, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã nguyện làm theo lời dạy của Người về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo
nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo sự chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm
theo tấm gương đạo đức của Người; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức và các
tệ nạn xã hội, góp phần hiện thực hóa điều mong muốn cuối cùng của Người là:
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
5
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”. Nhìn lại chặng đường 79 năm xây dựng và phát triển của đảng
và của cách mạng nước ta, chúng ta tự hào về đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại. Càng
tự hào, chúng ta càng phải quyết tâm làm theo lời căn dặn trước lúc đi xa của Bác:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VÀ CHỈNH
ĐỐN ĐẢNG – NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỜI ĐẠI MỚI
Từ một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới - con đường giải phóng
dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Bằng những hoạt động thực tiễn của mình,
Hồ Chí Minh đã bền bỉ, dẻo dai và kiên nhẫn trong việc tìm kiếm con đường, biện
pháp để thực hiện mục tiêu "độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi".

Thành công lớn nhất của Hồ Chí Minh trong những năm 30 - 40 của thế kỷ
XX là đã kịp thời tổ chức, xây dựng một chính đảng kiểu mới ở Việt Nam, một lực
lượng tiền phong cách mạng, sát cánh cùng “quần chúng nông dân lạc hậu tiến hành
thắng lợi cuộc chiến tranh cách mạng". Hồ Chí Minh và những đóng góp của Người

trong cách mạng Việt Nam đã làm biến chuyển cả một giai đoạn lịch sử. Đồng thời,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong 76 năm qua đã để lại
những bài học lịch sử vô giá.

1. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành tổ chức cách mạng chân
chính - đại biểu cho lợi ích giai cấp, nhân dân và dân tộc
Vận dụng một cách sáng tạo và thành công những luận điểm của học thuyết
Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận
thức sâu sắc rằng: Mục đích trước mắt của những người cộng sản là tổ chức những
người vô sản thành giai cấp, và “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc” . Vì vậy, trong quá trình
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản
kiểu mới ở Việt Nam, từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm
gốc, phải có Đảng vững bền” và “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”
Đầu năm 1930, như một tất yếu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng của
phong trào cách mạng cả nước về sự cần thiết phải có “Đảng cách mạng, để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi”, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Xây dựng một Đảng cách mạng
chân chính với sứ mệnh lịch sử như vậy, Hồ Chí Minh đã tiên lượng và chuẩn bị chu
6
đáo để Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền. Sau đó, để thực hiện được nhiệm vụ
và mục tiêu đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, kiên định con đường
đã lựa chọn: Độc lập dân tộc và CNXH.
Cùng với việc giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền,
trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong điều kiện có chính quyền. Trong điều kiện lịch sử
mới, Đảng vẫn luôn là đội tiền phong của giai cấp công nhân, tiêu biểu cho trí tuệ,
đạo đức, danh dự và lương tâm của cả dân tộc. Không thay đổi bản chất của Đảng,
không thay đổi mục đích, lý tưởng của mình là: giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng nhân loại, song đã có sự thay đổi căn bản về điều kiện và phương

thức hoạt động của Đảng. Trước những thử thách mới, với vị thế và quyền lực mới,
Đảng cũng đồng thời đứng trước vấn đề mới, đó là làm thế nào để quyền lực cùng
những đặc quyền không làm tha hoá Đảng, không làm biến chất đảng viên.
Hồ Chí Minh đã hơn một lần khẳng định rằng, Đảng không phải là một tổ chức
để làm quan phát tài. Những người cộng sản Việt Nam không một chút nào được
quên lý tưởng cao cả của mình là; hết lòng, hết sức phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn
độc lập, cho CNXH hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới. Do vậy,
hơn bao giờ hết Đảng cầm quyền càng phải phấn đấu, rèn luyện để trở thành một
Đảng thật trong sạch vững mạnh, phải xây dựng Đảng trên cơ sở “lấy dân làm gốc”.
Nhận thức được vị trí và vai trò của Đảng đối với vận mệnh của dân tộc, để Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của
nhân dân.

2. Thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng luôn trong sạch
vững mạnh, luôn là bộ chỉ huy tối cao của toàn dân tộc
Sau thành công của cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản từ hoạt động bất
hợp pháp chuyển sang hoạt động hợp pháp. Nhiều cán bộ, đảng viên nắm giữ những
cương vị chủ chốt trong các cơ quan công quyền của Đảng và Nhà nước. Tâm lý thời
bình và vị thế mới đã khiến một số “cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tư tưởng
chưa thông suốt. Do đó mà mắc nhiều khuyết điểm, mắc nhiều bệnh. Đó là chủ nghĩa
cá nhân, là đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích
chung của dân tộc. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh nêu rõ, phải chỉnh huấn, phải
chỉnh đốn lại nội bộ Đảng. Phải thông qua chỉnh đốn Đảng để tăng cường xây dựng
Đảng, để cán bộ ngoài

IV. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CẦM
QUYỀN
(ĐCSVN)- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo
Đảng ta vượt qua bao thử thách để trở thành một chính đảng Mác-Lênin vững mạnh.
Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng và từ khi Đảng ra đời cho đến khi Người đi

7
xa, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định, luôn làm cho toàn Đảng quán triệt: Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, Đảng phải luôn luôn giữ vững
và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Ngay trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” viết năm 1927 Người đã chỉ rõ
“Đảng muốn vững thì phải lấy chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có
trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”.
Trong Chính cương vắt tắt, Sách lược vắn tắt, được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã khẳng định “Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân
cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo
làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”
Khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, sau cách mạng Tháng Tám năm 1945,
Người đã sớm giáo dục toàn Đảng nguy cơ thoái hóa về bản chất giai cấp công nhân,
sa vào tệ quan liêu hóa, xa rời quần chúng, trở thành tổ chức “làm quan” vi phạm
quyền làm chủ của dân, xa rời mục tiêu cách mạng của Đảng. Người đã chỉ rõ 12
điều về “tư cách của Đảng chân chính cách mạng”. Trong 12 điều đó thì điều đầu tiên
là “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.Cũng trong
tác phẩm này Người đã nhấn mạnh về tính đảng - tức là bản chất giai cấp công nhân
của Đảng.
Năm 1951, khi Đảng ra hoạt động công khai và đổi tên thành Đảng Lao động
Việt Nam, Người khẳng định bản chất giai cấp công nhân của một Đảng cầm quyền
và chỉ rõ trong điều kiện lịch sử mới quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động và của cả dân tộc là một. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, cho nên Đảng cũng là Đảng của dân tộc.

Cũng có người ngại nói Đảng của dân tộc và sợ trái với bản chất giai cấp công
nhân, Đảng luôn luôn là Đảng của giai cấp công nhân theo hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân nhưng khi đã trở thành Đảng cầm quyền, khi Đảng thực sự là người vừa
đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, vừa đại diện cho lợi ích cả dân tộc, được
cả dân tộc thừa nhận thì việc khẳng định Đảng cũng là Đảng của dân tộc là hoàn toàn
đúng, theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, là Đảng của giai cấp công nhân nên Đảng củng
phải đặc biệt chú trọng đến thành phần công nhân trong công tác đảng viên và công
tác cán bộ. Nhưng Đảng cũng tránh “chủ nghĩa thành phần” mà hẹp hòi không dám
kết nạp và đề bạt những người ưu tú xuất thân từ các thành phần xã hội khác. Hồ Chí
Minh thường xuyên nhấn mạnh bản chất giai cấp công nhân của Đảng làm chi mọi
đảng viên du xuất thân cho đúng để suy nghĩ và hành động theo hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân. Nhưng Người cũng luôn luôn nhắc nhở toàn Đảng về sự thống nhất
lợi ích của Đảng và của dân tộc. Trong lời khai mạc lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành
lập Đảng, Người đã chỉ rõ “Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân,
của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
8
Thực tiễn lịch sử của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đã chỉ rõ, đã
là Đảng Cộng sản thì Đảng nào cũng phải coi trọng việc giữ vững bản chất giai cấp
công nhân. Đảng Cộng sản ra đời và hoạt động ở một nước mà kinh tế còn kém phát
triển, giai cấp công nhân hiện đại còn ít như ở Việt Nam thì việc không ngừng nâng
cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng lại càng quan trọng. Trong mọi giai đoạn
và mọi thời kỳ cách mạng, bản chất công nhân, sự vững mạnh của Đảng cũng phải
được thể hiện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Về đường lối chính trị. Người coi Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp
công nhân và khi đã trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng đồng thời là đội tiên phong
chính trị của cả dân tộc.
Đường lối chính trị là vấn đề cốt tử đầu tiên quyết định vận mệnh của Đảng và
cả vận mệnh của dân tộc. Hồ Chí Minh đã xác định cho Đảng ta một đường lối chính
trị đúng đắn; làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong Cương lĩnh đầu tiên, Người viết

“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”.
Nhờ đường lối chính trị đúng đắn của Hồ Chí Minh ngay từ đầu, Đảng ta đã
đoàn kết các giai cấp, tầng lớp cách mạng, các lực lượng yêu nước trên cơ sở liên
minh công nông. Đó là yếu tố quan trọng đầu tiên giúp Đảng ta nắm được độc quyền
lãnh đạo. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của quần
chúng lao động nên đã nhanh chóng phát động được cao trào trong những năm 1930-
1931 và đã định hướng đúng cho sự phát triển của các thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Trung thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta qua mọi giai đoạn
và mọi thời kỳ cách mạng đều coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Để xác định được đường lối đúng, Đảng luôn luôn coi trọng việc
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức đồng
thời xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam để vận dụng sáng tạo trên tinh thần độc
lập tự chủ, tự lực, tự cường. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta bắt nguồn từ
đường lối đổi mới đúng đắn, có nguyên tắc của Đảng ta. Bí quyết thành công đầu tiên
của Đảng ta là không ngừng nâng cao trình độ lý luận trong toàn Đảng, trước hết là
trong cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, bám sát thực tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn
thiện đường lối theo mục tiêu con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ khi bắt đầu thành lập Đảng cho đến khi từ giã cuộc đời, khi hoạt động bí
mật cũng như khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đều đặc biệt
quan tâm đến việc giáo dục và xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tổng kết
lịch sử Đảng và toàn bộ cuộc đời hoạt động của mình, trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã
dành phần quan trọng nói về truyền thống đoàn kết của Đảng: “Nhờ đoàn kết chặt
chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên
từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng
hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là truyền thống cực
kỳ quí báu của Đảng ta và của dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình” .
Đoàn kết thống nhất trong Đảng, theo Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đoàn kết có
nguyên tắc trên cơ sở mục tiêu lý tưởng của Đảng, trên nguyên tắc tổ chức cơ bản của

Đảng là tập trung dân chủ. Đây là sự đoàn kết để tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến
9
đấu của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Đồng thời đây cũng là sự đoàn kết
có lý, có tình. Trong Di chúc, không phải ngẫu nhiên mà Người đã nhấn mạnh đó là
cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Suốt cả
cuộc đời Người đã hành động như vậy. Người là trung tâm của sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Nhân dân ta ai cũng nhớ câu nói nổi tiếng của Người: Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công.
Những lời căn dặn của Người trong Di chúc còn có giá trị lâu dài đối với mọi
thế hệ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân.
Từ khi thành lập Đảng cho đến khi qua đời Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
công tác cán bộ và như Người đã viết trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”: Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Người đòi hỏi cán bộ nào
cũng phải vừa “hồng” vừa “chuyên”, giữa “hồng” và “chuyên” không được xem nhẹ
mặt nào nhưng luôn luôn phải lấy đức làm gốc, người cán bộ phải vững về chính trị,
giỏi về chuyên môn, phải lời nói đi đôi với việc làm. Vì vậy, cán bộ phải hiểu biết lý
luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
Cán bộ không phải tự nhiên mà có. Đảng và Nhà nước phải có chính sách cán
bộ đúng để lựa chọn đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng, sử dụng, đối xử đúng với cán bộ.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Người đã nhấn mạnh “phải chú ý mấy việc
dưới đây: Hiểu biết cán bộ; khéo dùng cán bộ; cất nhắc cán bộ; thương yêu cán bộ;
phê bình cán bộ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là một nguồn tài sản vô giá của
Đảng ta và của cả dân tộc ta, đã soi sáng và chỉ đạo Đảng ta vượt qua muôn vàn thử
thách hơn 77 năm qua, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi có
ý nghĩa lịch sử và thời đại. Tư tưởng của Người về Đảng tiếp tục là bó đuốc soi
đường cho Đảng ta trưởng thành, phát huy được thời cơ, khắc phục được nguy cơ

trong thời kỳ mới, để đưa nước ta phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh.
V. XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH DƯỚI
ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng có vững cách mạng mới thành
công”. Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trước mỗi bước ngoặt lịch sử,
Người luôn nêu bật nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Hiện nay, cách mạng nước
ta đã chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH-HĐH) theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo đúng nguyện ước của Bác Hồ. Vì vậy, càng
đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh đốn, xây dựng
Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và
10
sức chiến đấu, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình
hình mới.
Thời gian qua, Đảng ta có rất nhiều nghị quyết về xây dựng Đảng và coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Công tác xây dựng Đảng ở các tổ chức cơ sở Đảng
đã có nhiều chuyển biến, tuy nhiên, nhìn chung việc thực hiện chưa đạt được kết quả
như mong muốn. Để đạt được hiệu quả cao trong công tác này, trước hết, phải làm
cho các tổ chức Đảng thật sự tiên phong về đạo đức cách mạng. Toàn Đảng và mỗi
đảng viên phải kiên định mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, luôn đặt lợi ích của dân tộc, của giai cấp lên trên
hết, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng là phải giáo dục đảng viên, cán bộ nêu cao đạo đức “cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư”, làm cho Đảng thật sự trong sạch. Bên cạnh đó,
phải làm cho Đảng thật sự tiên phong về trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, thật sự
tiêu biểu cho đỉnh cao trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Tình
hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt.
Phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở nắm vững lý luận với tư cách là kim chỉ nam ấy, cần coi trọng nâng cao

kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, nhất là khoa học quản lý, khoa học kinh tế,
lịch sử nước ta và thế giới, tình hình và xu thế của thời đại. Đồng thời, nâng cao kiến
thức về khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn
cần thiết cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Kết hợp nâng cao trình độ lý luận, nhận
thức với tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nước ta và tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của thế giới để tiếp tục hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng
đắn, sáng tạo, đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: Muốn Đảng mạnh, phải thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần nhận thức rõ dân chủ là bản chất của Đảng, Nhà
nước và chế độ ta. Chúng ta phải nắm vững ngọn cờ dân chủ, nêu cao dân chủ, không
để các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc chống phá ta.
Đảng ta cần hoàn thiện cơ chế dân chủ trong Đảng để phát huy trí tuệ của toàn Đảng,
tạo sự đồng thuận và động viên được nhiệt tình, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Đồng thời, trên cơ sở phát huy dân chủ, phải thực hiện thật nghiêm vấn đề tập
trung, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động, làm cho mỗi tổ chức Đảng đủ sức
mạnh để biến chỉ thị, nghị quyết, biến ý kiến nguyện vọng của đại đa số thành hiện
thực. Về phương thức lãnh đạo, phải đặc biệt coi trọng mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với quần chúng nhân dân; xây dựng tác phong sâu sát, gần gũi nhân dân; trên
mọi lĩnh vực cần nêu cao vai trò đầu tàu gương mẫu của đảng viên; thực hiện đúng tư
tưởng của Bác “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “nói đi đôi với làm”.
Một vấn đề vừa cơ bản vừa cấp thiết hiện nay là chống tham nhũng, lãng phí,
làm trong sạch bộ máy Nhà nước. Bởi vì, tham nhũng, hối lộ là căn bệnh của quyền
lực. Đảng và Nhà nước đã có nghị quyết, có luật về phòng, chống tham nhũng và
bước đầu hình thành bộ máy chống tham nhũng từ Trung ương xuống cơ sở; song kết
quả đạt được chưa đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân
dân. Trên cơ sở kinh nghiệm của Đảng ta và các nước trên thế giới cũng như tư tưởng
của Bác Hồ là phải dựa vào dân để chống tham nhũng, những người được chọn làm
công tác chống tham nhũng phải là người thật sự trong sạch, công tâm, có uy tín
11
trước quần chúng, phải có cách chống tham nhũng thật sự dựa vào dân, huy động

toàn dân tham gia phòng, chống tham nhũng; đồng thời phát động phong trào toàn xã
hội làm theo lời Bác, sống “cần kiệm, liêm chính”, “cần kiệm xây dựng đất nước”,
huy động toàn dân tham gia chống “giặc nội xâm”.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân
ta nhất định sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để lãnh đạo nhân dân thực
hiện thành công nhiệm vụ vẻ vang nhưng muôn vàn khó khăn đó. Việc quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu
cầu mới của cách mạng là nhiệm vụ then chốt, quyết định.
VI. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ MÁU
THỊT GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh
trường kỳ giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội và thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam.
Đảng ta do Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đã xuất phát từ học
thuyết Mác - Lê nin, từ tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, từ chủ nghĩa
yêu nước truyền thống, từ thực tiễn phát triển của thế giới và Việt Nam mà hình
thành nên đường lối cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đi lên chủ nghĩa xã hội và đang thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Một nhân tố quyết định sự thắng lợi
đó là Đảng ta đã phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện được
mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
1. Gắn bó máu thịt với nhân dân là vấn đề thuộc bản chất cách mạng của
Đảng.
Xuất phát từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ kinh
nghiệm của thế giới và từ thực tiễn đất nước ta, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm
sáng tạo về Dân và về Đảng - tổ chức tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc
và của toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, dân tộc ta.

Quan niệm về Dân của Hồ Chí Minh.
Một là, dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Người nói: "Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân” ."ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời,
địa lợi và nhân hòa.
Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng
địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa.
Nhân hòa là thế nào
Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”
12
Hai là, dân là gốc của nước, củacách mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh,
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: công nông là gốc của cách mệnh". Trong quá trình phát
triển của cách mạng, Người thường nhắc nhủ: “dân chúng đồng lòng, việc gì cũng
làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không làm nên”. "Nước lấy dân
làm gốc”. "Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"
Ba là, dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người nói: "Chế
độ của ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân", "bao nhiêu quyền hạn đều là của dân". ‘Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung
ương do dân bầu cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã, do dân tổ chức". Dân bầu ra
người đại diện và có quyền kiểm sát, giám sát và bãi miễn khi không làm tròn sự uỷ
thác. Người còn nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là nhờ ở dân
hết”. “Công việc đổi mới là trách nhiệm của dân”, Nhà nước muốn điều hành, quản lý
xã hội có hiệu lực, hiệu quả nhất định phải dựa vào dân. Người yêu cầu : “Đem tài
dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân ”
Bốn là, dân có quyền, nhưng phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đất nước.
Người từng chỉ ra rằng: "Nhân dân có quyền làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn
bổn phận công dân". Trong bài phát biểu với Đoàn đại biểu nhân dân Thủ đô Hà Nội,
ngày 16-10-1954, Người nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính
phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ.
Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì

vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ
và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân
đã giao phó cho”
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khái niệm "Dân" trong Tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện và được sử dụng là toàn dân tộc, bao gồm mọi người
thuộc các dân tộc (đa số và thiểu số) sống trên dải đất Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, chỉ trừ những kẻ phản bội, tay sai cho đế quốc,
đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của dân tộc, đi ngược lại độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Tất nhiên, Hồ Chí Minh không coi “dân”, “nhân dân” là một khối đồng nhất,
mà là một cộng đồng, bao gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp. Các nhóm xã hội ấy
có lợi ích chung và lợi ích riêng, có vai trò và thái độ khác nhau đối với sự phát triển
xã hội và cách mạng. Công nhân, nông dân và trí thức luôn luôn được Hồ Chí Minh
coi là lực lượng cách mạng to lớn nhất, là nền tảng của khối đoàn kết dân tộc, đoàn
kết toàn dân. Điều này được thể hiện rõ trong các bài nói và viết của Người, trong
Chính cương, Điều lệ, trong các văn kiện của Đảng do Người chỉ đạo xây dựng nên,
như trong Chính cương của Đảng lao động Việt Nam (tháng 2-1951) đã ghi rõ:
“Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ nhân dân
nghĩa là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc
và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước tiến bộ; những tầng lớp nhân dân ấy chuyên chính
với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc, cho nên nội dung chính quyền đó là nhân
dân dân chủ chuyên chính. Chính quyền đó dựa vào mặt trận dân tộc thống nhất, lấy
liên minh công nhân, nông dân lao động, trí thức làm nền tảng, do giai cấp công nhân
lãnh đạo”.
13
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp do
Người chủ trì biên soạn năm 1959 lại khẳng định: "Tất cả quyền lực trong nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân ”. Có thể nói, trong mỗi thời kỳ cách
mạng, thời kỳ phát triển chế độ dân chủ nhân dân và đi lên chủ nghĩa xã hội, chức
năng, nhiệm vụ cách mạng, tổ chức Nhà nước cũng phát triển và thay đổi theo. ở một

số nước, khi cách mạng tiến lên, một số giai cấp, tầng lớp có lợi ích riêng đối lập với
mục tiêu cách mạng và có khi trở thành đối tượng cách mạng. Còn ở Việt Nam tính
chất cơ bản của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Cơ sở xã hội - giai cấp của Nhà nước vẫn là khối đại đoàn kết dân tộc,
trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, lao động trí óc do Đảng ta lãnh đạo. Cơ
sở xã hội ấy không thu hẹp mà còn phát triển về chất lượng. Cách mạng không gạt bỏ
một giai cấp, một tầng lớp nào đã đứng trong hàng ngũ Mặt trận dân tộc thống nhất,
mà còn hết sức bồi dưỡng, cải tạo, dìu dắt để mọi giai cấp, tầng lớp và mọi người tiếp
tục đi theo con đường cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch ra, tiếp tục góp
phần cống hiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới vì lợi
ích của cá nhân, của cộng đồng và của toàn dân tộc. Khép lại qúa khứ, nhìn về tương
lai, miễn là tán thành đường lối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là một sáng tạo lớn trong quan niệm
về Dân của Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, song nhân dân cần Đảng dẫn đường,
lãnh đạo.
Hồ Chí Minh đã từng dạy “cách mệnh là công việc của dân chúng”, "Công
nông là gốc cách mệnh". Song "cách mạng phải có tổ chức bền vững, sức cách mạng
phải tập trung, muốn tập trung phải có Đảng lãnh đạo". Ngay trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Người đã chỉ rõ: "Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy” . Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặc biệt
quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng. Trong những năm 1925-1927, Người đã tổ
chức việc đào tạo, huấn luyện cán bộ, chuẩn bị thành lập Đảng, Người chủ trì hợp
nhất 3 tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng xuất hiện. Trong quá trình phát triển của Đảng, mặc dù Đảng ta có lần thay đổi
tên gọi, nhưng bản chất của Đảng không thay đổi và Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta,
dân tộc ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giành được những
thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước

Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải
phóng dận tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với những thắng lợi vĩ đại đó, nước ta từ một nước
thuộc địa, nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, định hướng xã
hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu
vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đã bước vào
thời kỳ đẩy
14
Sở dĩ Đảng ta thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, vì Đảng ta là một
Đảng Mác - Lênin, Đảng của Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng và rèn luyện.
Một là, Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Song xuất phát từ thực tiễn nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, một nước
ngoài sự phát triển của phong trào công nhân đầu thế kỷ XX, thì phong trào yêu nước
được kế thừa từ truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước tạo nên, phát
triển sôi nổi. Con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội đòi hỏi phải có một hệ
tư tưởng khoa học tiên tiến thay thế cho hệ tư tưởng phong kiến lỗi thời, hướng dẫn,
chỉ đạo con đường phát triển. Song hệ tư tưởng ấy phải có một tổ chức tiên phong
cách mạng tập hợp quần chúng nhân dân đông đảo, biến hệ tư tưởng khoa học đó
thành hiện thực. Hồ Chí Minh coi “công nông là gốc cách mạng”, song công nông và
dân chúng nói chung phải giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự phát đến tự giác,
thì phải có Đảng cách mạng dẫn đường. Đảng như người cầm lái, người cầm lái có
vững, thuyền mới chạy. Và trong tiến trình cách mạng, mọi Cương lĩnh, chính sách,
chủ trương của Đảng đều bắt nguồn từ hệ tư tưởng đó: chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách
mạng càng khó khăn, gian khổ càng phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Xa rời hệ
tư tưởng Mác - Lênin thì cách mạng đi vào ngõ cụt và không tránh khỏi sự thất bại
thảm hại.
Hai là, Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời Đảng của dân tộc

Việt Nam, Đảng của toàn dân Việt Nam.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta thể hiện ở chỗ Đảng ta lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng; Đảng ta lấy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
lấy dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu lý tưởng
của mình. Đảng tuân thủ nguyên tắc tổ chức của Đảng là Đảng kiểu mới, Đảng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, giai cấp công nhân là một bộ phận trong dân tộc. Vấn
đề dân tộc và giai cấp có quan hệ khăng khít với nhau.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong
giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc
là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt nam” . Trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nói : “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là
của dân tộc, không thiên tư, thiên vị” . Ngay phạm trù giai cấp công nhân cũng cần
được nhận thức cho đầy đủ. Mác từng nói đến giai cấp công nhân đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất của thời đại. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ mới, nội hàm của giai cấp công nhân cũng phải được mở
rộng đến các lực lượng lao động trí óc rộng lớn, thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Trong thực tiễn, Đảng ta gắn bó máu thịt với dân tộc, với nhân dân và được
nhân dân thừa nhận. Toàn bộ nghị lực của Đảng, toàn bộ sự phấn đấu, hy sinh của
các thế hệ đảng viên đều hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân, giành tự do, độc lập, hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài mục tiêu đó, Đảng ta không
có mục tiêu nào khác. “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có
lợi ích gì khác” . Trong những khúc quanh co của lịch sử, Đảng ta luôn thể hiện bản
15
lĩnh chính trị vững vàng, trách nhiệm to lớn đối với nhân dân, đối với vận mệnh của
dân tộc. Trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta
luôn thể hiện là người chiến sĩ tiên phong, hoàn thành sứ mệnh lịch sử cao cả mà dân
tộc, nhân dân giao cho, giải phóng dân tộc, thống nhất giang sơn về một mối, bảo vệ
từng tấc núi, thước sông, bầu trời, biển cả bao la của Tổ quốc. Trong cuộc xây dựng
đất nước, có những lúc chúng ta đã mắc sai lầm khuyết điểm như chủ quan, duy ý

chí, áp dụng mô hình của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, và cả
những khuyết điểm sai lầm khác, song Đảng ta thẳng thắn nhận lấy sai lầm thiếu sót
về mình, đã kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm lãnh đạo nhân dân
vượt qua khó khăn thử thách, trụ được trong bão táp và đi lên. Thành tựu hơn 18 năm
đổi mới vừa qua là một bằng chứng hùng hồn Đảng ta thực sự là lực lượng tiên phong
của dân tộc, của nhân dân. Chúng ta quyết tâm đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường định lướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển. Thành tựu vĩ đại của sự nghiệp đổi mới có nhiều nguyên nhân tạo nên,
trong đó nguyên nhân hết sức quan trọng, mang tính quyết định là đường lối độc lập
tự chủ đúng đắn của Đảng ta, đường lối xuất phát từ lợi ích của nhân dân ta, của dân
tộc ta, đường lối của một Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân - đường lối của Đảng
của Hồ Chí Minh.
Ngày nay, sau 18 năm đổi mới, với những thành tựu về kinh tế, xã hội và vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế, chúng ta có thể lấy lời của Lênin nói về đất nước
Nga khi thực hiện chính sách kinh tế mới để nói về nước Việt Nam chúng ta: “Ngày
nay, chúng ta có quyền nói toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã
thay đổi về căn bản”. Chúng ta đang đứng trước vận hội và thách thức mới. Cuộc đổi
mới tư duy lớn mới mang tính bước ngoặt đang phát triển kể từ Đại hội IX đòi hỏi
phải được đẩy mạnh hơn nữa đáp ứng những thách thức mới để bứt lên phía trước,
phá bỏ mọi rào cản, tiến kịp thời đại.
Ba là, một khi Đảng trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền thì Đảng cầm quyền,
dân là chủ, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ. Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Song,
Đảng cầm quyền, dân là chủ: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” . Đây là vấn
đề nguyên tắc, là bản chất của chế độ mới. Đảng lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết
lập quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân, làm trái
nguyên tắc đó Đảng sẽ thoái hóa, biến chất. Bởi vậy, phải xây dựng cơ chế Đảng cầm
quyền mà cái cốt lõi của cơ chế này là mối quan hệ giữa Đảng, nhân dân.

16

×