Chương 1: VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Tồn tại của thế giới và sự thống nhất của thế giới
1.1. Tồn tại của thế giới là tiền đề của sự thống nhất của thế giới
Vấn đề “tồn tại” và “không tồn tại” đã được đặt ra ngay từ trong triết học cổ
đại phương Đông và phương Tây. Trong việc nhận thức thế giới, vấn đề đầu tiên
nảy sinh với tư duy triết học là: Thế giới quanh ta có thực hay chỉ là sản phẩm
thuần túy của tư duy con người? Thế giới có tồn tại hay không? Và vấn đề mà nhận
thức triết học phải đi tới là quan niệm về sự tồn tại của thế giới. Không thừa nhận
sự tồn tại của thế giới thì không thể nói tới việc nhận thức thế giới.
Chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất
của nó là vật chất. Còn các nhà duy tâm tìm nguồn gốc và bản chất của tồn tại ở cái
tinh thần, cho rằng chỉ thế giới tinh thần mới là tồn tại. Hêghen coi bản chất của
tồn tại là cái tinh thần vì giới tự nhiên cũng chỉ là tồn tại khác của “ý niệm tuyệt
đối” mà thôi.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự
thống nhất của nó, song sự thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó.
Sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không phải ở
việc thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế giới, mà ở chỗ chủ
nghĩa duy vật cho rằng cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của
nó. Quan điểm này thể hiện tính nhất nguyên duy vật triệt để, dựa trên sự tổng kết
những thành tựu nhân loại đã đạt được trong hoạt động thực tiễn, trong triết học
cũng như trong khoa học.
1.2. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Có 2 khuynh hướng cơ bản về vấn đề này:
- Chủ nghĩa duy tâm coi tinh thần, ý thức có trước, quyết định vật chất nên
tính thống nhất của thế giới là ở ý thức, ở các lực lượng tinh thần siêu nhiên.
1
- Chủ nghĩa duy vật coi vật chất có trước, ý thức có sau, ý thức là sự phản ánh
của thế giới vật chất nên sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất. Bằng sự phát
triển lâu dài của triết học và sự phát triển khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng
chứng minh rằng thế giới xung quanh chúng ta dù đa dạng và phong phú đến đâu
thì bản chất của nó vẫn là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Bởi vì:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất, là thế giới vật chất tồn
tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, do vật chất
sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế
giới vật chất.
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh
ra và không tự mất đi; chúng luôn biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc,
nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
2.1. Định nghĩa phạm trù vật chất
Vật chất với tính cách là một phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp
cổ đại. Ngay từ đầu, xung quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh không
khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Nhưng phạm trù vật
chất được hiểu rất khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động nhận thức
và thực tiễn trong từng thời kỳ lịch sử của nhân loại.
2.1.1. Quan điểm duy tâm
Coi thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần
nào đó, có thể là “ý chí của Thượng đế”, là “ý niệm tuyệt đối” hoặc là do ý thức
của chủ thể quyết định.
2.1.2. Quan niệm duy vật
2
Coi vật chất là thực thể, cơ sở đầu tiên, bất biến của tất cả các sự vật, hiện tư-
ợng tồn tại trong thế giới khách quan.
- Quan niệm duy vật cổ đại về vật chất mang tính trực quan, cảm tính, thể hiện
ở sự đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó, tức là những sự vật cụ thể, coi
đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại như: Đất, nước, lửa, không khí, apâyrôn Đỉnh
cao trong quan niệm vật chất cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrit,
thừa nhận thực thể của thế giới là nguyên tử.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát
triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật chất, tạo
cơ sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những
phỏng đoán giả định.
- Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII - XVIII: Việc coi
nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, tách rời
vận động, không gian và thời gian vẫn là một quan niệm phổ biến. Chính Galilê,
Đềcác, Bêcơn, Hôpxơ đã khẳng định và phát triển quan niệm này.
- Sang thế kỷ XIX, các nhà triết học và khoa học tự nhiên do không hiểu phép
biện chứng duy vật vẫn đồng nhất vật chất với nguyên tử, hoặc với một thuộc tính
phổ biến của các vật thể là khối lượng.
- Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong vật lý học hiện đại xuất hiện những
phát minh quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới, sâu sắc về cấu
trúc của thế giới vật chất.
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử.
Năm 1901, Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động, khối
lượng của điện tử thay đổi khi vận tốc của nó thay đổi.
3
Những phát minh đó chứng minh rằng sự đồng nhất vật chất với những dạng
cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như quan niệm duy vật trước
Mác đã không còn phù hợp nữa và trở thành căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng
chống lại chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng "vật chất đã tiêu tan", và toàn bộ nền
tảng của chủ nghĩa duy vật đã bị sụp đổ hoàn toàn. Cuộc “khủng hoảng của vật lý
học” xuất hiện.
Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ: Những phát minh có giá trị
to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật mà chỉ bác bỏ
quan niệm cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng về mặt cấu trúc, rằng nguyên tử
hay khối lượng là giới hạn cuối cùng, bất biến của giới tự nhiên. Lênin đã chỉ ra
rằng, không phải "vật chất tiêu tan" mất, mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con ngư-
ời về vật chất là tiêu tan. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc “khủng hoảng
của vật lý học” và phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật
chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất mà cho đến
nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận.
2.1.3. Định nghĩa vật chất của Lênin
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
- Theo Lênin, phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng
nhất mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được” nên không
thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp thông thường, đem quy nó về một vật
thể, một thuộc tính hoặc vào một phạm trù rộng lớn hơn được. Vì vậy, Lênin đã sử
dụng phương pháp mới để định nghĩa vật chất là đem đối lập vật chất với ý thức và
xác định nó “ là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây nên cảm
giác”.
4
Trước tiên, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học
với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của
các dạng vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học chỉ vật chất nói
chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
- Trong định nghĩa, Lênin đã chỉ rõ khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận
thức luận thì cái quan trọng nhất để nhận biết nó chính là thuộc tính khách quan.
"Vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác .và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là cái tồn tại khách quan bên
ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.
2. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; cái gây nên cảm
giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan con người.
3. Cảm giác, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của vật chất. Ý thức con
người là sự phản ánh thực tại khách quan, nghĩa là con người có khả năng nhận
thức được thế giới.
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết
học trên lập trường duy vật biện chứng, thừa nhận trong nhận thức luận thì vật chất
là tính thứ nhất, và con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy,
định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục được tính
chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất.
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn chống lại các quan điểm duy tâm về vật
chất, tạo cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn có vai trò định hướng cho sự phát triển
của nhận thức khoa học.
2.2. Vật chất và vận động.
a. Vận động là gì?
5
Ăngghen viết:"Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi
vị trí đơn giản cho đến tư duy".
Theo quan điểm của triết học macxit, vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, là
sự biến đổi nói chung.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược
lại.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận động;
bởi vì tất cả các dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố, các
mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua lại với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn
đến sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm
duy tâm, siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận động ở thần linh hoặc ở
chủ thể nhận thức.
Vận động là hình thức tồn tại của vật chất nên các dạng vật chất được nhận
thức thông qua sự vận động của chúng.
Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó không do ai sáng tạo ra
và cũng không thể tiêu diệt được. Nguyên lý này được chứng minh bằng định luật
bảo toàn và chuyển hoá năng lượng.
c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen
đã phân loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
- Vận động cơ học.
- Vận động vật lý.
- Vận động hoá học.
6
- Vận động sinh học.
- Vận động xã hội.
Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất
định:
Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện
những trình độ phát triển của các kết cấu vật chất.
Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận
động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.
Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau,
nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại các khoa học, cho khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa
học.
Đồng thời còn chống lại một khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy
hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp hơn.
d. Vận động và đứng im.
Theo Ăngghen, "đứng im tương đối của các vật thể là điều kiện chủ yếu của
sự phân hoá của vật chất". Đó là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các
sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là
tương đối, tạm thời, thể hiện ở các điểm sau:
- Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
- Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ
không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Đứng im là biểu hiện trạng thái vận động trong thăng bằng, ổn định tương
đối.
7
- Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó;
còn vận động nói chung thì làm cho tất cả không ngừng biến đổi.
2.3. Không gian và thời gian
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu hiện những thuộc tính như
cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính như:
Độ lâu của sự biến đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái
khác nhau trong thế giới vật chất
- Không gian và thời gian tồn tại trong sự liên hệ thống nhất với nhau và đều
là hình thức cơ bản của vật chất đang vận động. Quan điểm này đối lập với quan
điểm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất đang vận
động.
Ví dụ: Niutơn coi không gian, thời gian là tuyệt đối, không biến đổi. Không
gian như cái hộp trống rỗng khổng lồ có thể xếp vào, lấy ra các sự vật; thời gian
như dải băng được trải ra một cách đều đặn.
Những phát minh trong toán học và vật lý học đã bác bỏ quan điểm trên. Hình
học phi Ơclít của Lôbasepxki, Riman; thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng
minh rằng không gian và thời gian có sự biến đổi cùng với sự vận động của vật
chất. Khi vật thể vận động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng thì kích thước của
nó rút ngắn lại, thời gian trôi chậm đi.
Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau:
1. Tính khách quan: Vì vật chất là thực tại khách quan nên không gian và thời
gian là những hình thức tồn tại của nó cũng tồn tại khách quan. Điều đó phủ nhận
quan điểm của chủ nghĩa duy tâm coi không gian, thời gian chỉ là sản phẩm của ý
thức con người.
2. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
3. Tính vĩnh cửu và vô tận
8
3. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
3.1. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt
sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần
kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và
điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông
qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
Hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi
bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Ý thức là chức năng của bộ
óc người, là hình ảnh tinh thần phản ánh thế giới khách quan; nhưng ý thức không
diễn ra ở đâu khác ngoài hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc,
thần bí hoá hiện tượng tâm lý, ý thức. Còn chủ nghĩa duy vật tầm thường lại đồng
nhất vật chất với ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh
là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ
thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh
của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao với nhiều hình thức khác nhau.
9
- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
- Phản ánh sinh học trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau
ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật:
+ Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp, đã có sự chọn lọc
trước những tác động của môi trường.
+ Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần kinh, xuất hiện do
những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại. Nó hoàn
thiện hơn tính kích thích, được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều
khiển mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ không điều
kiện.
+ Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với các
quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện, thông qua các cảm giác, tri giác,
biểu tượng ở động vật có hệ thần kinh trung ương.
- Phản ánh ý thức: Gắn liền với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người.
Đó là hình thức phản ánh mới, đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất
là bộ óc con người.
Như vậy, sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người là nguồn gốc
tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội
Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất cần thiết nhưng chưa
đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở
vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
- Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng 2 tay. Điều
này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình
chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc chế tạo ra
10
công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục đích của hoạt
động biến đổi thế giới.
- Trong quá trình lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực,
làm chúng bộc lộ những đặc tính và quy luật vận động của mình qua những hiện
tượng nhất định. Những hiện tượng đó tác động vào bộ óc con người gây nên
những cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nhưng quá trình hình thành ý thức không
phải là do tác động thuần túy tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc con
người, mà chủ yếu là do hoạt động lao động chủ động của con người cải tạo thế
giới khách quan nên ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người hoạt động xã hội.
Quá trình lao động của con người tác động vào thế giới đã làm cho ý thức không
ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con người về những thuộc tính mới của sự
vật. Từ đó, năng lực tư duy trừu tượng của con người dần dần hình thành và phát
triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất
yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng được củng cố và phát triển đến mức
làm nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó", tức là
phương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của chúng. Đó là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Theo Mác, ngôn ngữ
là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng; không có ngôn
ngữ thì con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan
hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
3.2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới
11
khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý
thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con ngư-
ời cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao
động. Vì vậy, ý thức là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái
đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái
không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra
những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu
tượng và có tính khái quát cao.
Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, bởi vì ý thức bao giờ
cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
- Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là có tính
xã hội.
3.3. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm
nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Có thể chia cấu trúc của ý thức theo
hai chiều:
a. Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí , trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
b. Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
4. Vai trò tác dụng của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức.
Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, quyết định ý
thức thì sự nhận thức thế giới không thể xuất phát từ ý thức con người, mà phải
xuất phát từ thế giới khách quan. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan.
12
Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của
mình làm chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế vì như vậy sẽ mắc phải bệnh chủ
quan duy ý chí.
Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật đồng thời vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng to
lớn của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Quan
hệ giữa vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều. Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan
niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và hành động.
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức
tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện
tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có
ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo
hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành động đúng
hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Do đó, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải
tạo thế giới có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã phạm sai lầm trong
việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo
XHCN và quản lý kinh tế, nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần, vi phạm nhiều quy luật khách quan. Cương lĩnh Đại hội VII đã chỉ rõ:"Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan". Từ đó rút ra
bài học quan trọng là: "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan".
Phân tích phạm trù vật chất theo quan điểm của triết học mac-lênin ,rút
ra ý nghĩa phương pháp luận ?
13
- "Vật chất là phạm trù triết học": là những khái niệm chung nhất, phả ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn
bộ thế giới hiện thực nói chung Cần phải phân biệt phạm trù triết học và các khái
niệm khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuọc tính cụ thể của các đối tượng
vật chất khác.
- " Dùng để chỉ thực tại khách quan", " tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác":
Vật chất có vô vàn các thuộc tính khác nhau, vật chất là vô cùng, vô tận. Chung
nhất của mọi dạng khác nhau của vật chất là thuộc tính " Thực tại khách quan" tức
là sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người chính là tiêu chuẩn để
phân biệt những gì là vật chất ( trong tư nhiên & đời sống xã hội), những gì không
phải là vật chất. Tồn tại khách quan tức là khẳng định thế giới vật chất có thực, tồn
tại tự thân, ko phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng nào." Được đem cảm giác";
V/c là nguồn gốc, nguyên nhân của cảm giác, có trước cảm giác( ý thức), quyết
định nội dung của cảm giác c/v là tính thứ nhất. "được cảm phản ánh": V/c tồn
tại, khách KQ nhưng ko phải vô hình, trườu tượng tồn tại cụ thể khi tác động đến
giác quan con người thì tạo nên cảm giác ở con người & ngược lại con người củng
nhận thức về nó. Vậy, đối với thế giới v/c có thể chưa nhận thức được chứ không
thể không nhận thức được thế giới.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Qua định nghĩa c/v của Lenin trên lập trường
chủ nghĩa duy vật biện chứng, có ý nghĩa thế giới quan & phương pháp luận sâu
sắc đối với nhận thức khoa học & thực tiễn, khắc phục tính trực quan, siêu hình
máy móc trong quan niện về c/v của chủ nghĩa duy vật cũ là vũ khí lý luận để
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm khách quan & chủ nghĩa duy tâm chủ quan như
thuyết ko thể biết Góp phần hoàn thiện thế giới quan & phương pháp luận khoa
học cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới V/c vô cùng phong phú
14
BÀN VỀ PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA V.I.LÊNIN (*)
NGUYỄN HUY CANH (**)
Trong bài viết “Phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong
“Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán””, tiến sĩ Phạm Văn
Chung đã cố gắng làm rõ thêm định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, song đó mới chỉ
là sự cảm nhận và khi luận giải đã không tránh khỏi những nhầm lẫn, luẩn quẩn
trong việc thể hiện ý tưởng của mình. Với mục đich trao đổi ý kiến của mình với
tiến sĩ Phạm Văn Chung, trong bài viết này, tác giả đã cố gắng vạch ra những
nhầm lẫn, luẩn quẩn mà tiến sĩ Phạm Văn Chung đã mắc phải khi luận giải định
nghĩa vật chất của V.I.Lênin.
1. Nhận dạng định nghĩa
Trong khi phê phán chủ nghĩa Makhơ có nguồn gốc từ chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng lý luận trong vật lý học, V.I.Lênin đã
bảo vệ và phát triển triết học Mác. Công lao của ông được ghi nhận bởi một phát
hiện nổi tiếng, khi đưa ra quan niệm về vật chất bằng định nghĩa sau: “Vật chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
Quan niệm này của V.I.lênin đã được nhiều học giả mácxít bàn luận và về cơ
bản, là đúng đắn, chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế cần
phải được làm rõ.
Bài viết của tiến sĩ Phạm Văn Chung, theo tôi, là một phát hiện ra những hạn
chế đó, mặc dù phát hiện này mới chỉ là sự cảm nhận.
Vì chưa đạt đến trình độ nhận thức triết học về những hạn chế đó, nên tác giả
Phạm Văn Chung đã mắc phải những nhầm lẫn, luẩn quẩn trong việc thể hiện ý
tưởng của mình.
15
Trước hết chúng ta hãy nói một đôi điều về khái niệm.
Khái niệm (phạm trù) là hình thức phản ánh chủ quan, biểu hiện chủ quan tính
bản chất của đối tượng. Những tính chất đặc trưng, những thuộc tính cơ bản có tính
bản chất của đối tượng được phản ánh, được ghi nhận trực tiếp bởi định nghĩa khái
niệm.
Do vậy, có thể nói, định nghĩa khái niệm là nội dung, là bộ mặt của khái niệm,
là lời giải thích trực tiếp cho khái niệm. Nhưng nó cũng đồng thời nhằm trực tiếp
nói về đối tượng mà khái niệm phản ánh. Dù là khái niệm ấy được con người xây
dựng bằng cách nào đi chăng nữa (trực tiếp hay gián tiếp, đường vòng hay đường
thẳng) thì nội dung của nó được chỉ ra trong định nghĩa cũng là nhằm trực tiếp nói
về đối tượng ấy chứ không bao giờ là một sự gián tiếp như tác giả đã hiểu.
Lấy lại một ví dụ trong toán học mà tác giả đã có ý đưa ra – “Hình thang là
một tứ giác có hai cạnh đối song song”.
Ở những loại định nghĩa này, tác giả mới chỉ nhìn thấy khái niệm là sự phản
ánh, biểu hiện trực tiếp, nói trực tiếp, nhằm chính diện vào đối tượng trong hiện
thực mà không thấy rằng, nội dung ấy còn là lời giải thích cho hình thang với tư
cách sản phẩm của quá trình tư duy, quá trình nhận thức. Hai tư cách này của hình
thang (cũng như của vật chất) có một sự khác biệt nhau - đó là điều ai cũng biết.
Nhưng từ đó, không cho phép chúng ta đánh mất đi tính thống nhất, đồng nhất giữa
chúng. Do chỉ nhìn thấy sự khác nhau, sự đối lập không thể vượt qua được, nên tác
giả (P.V.C) đã không nhìn thấy được cái một trong cách phát biểu mà chúng ta sẽ
phân tích dưới đây.
Có một điều xin được bổ sung. Khi phát biểu về định nghĩa hình thang, người
ta không đưa thêm vào cụm từ “một khái niệm toán học dùng để chỉ”. Điều này,
theo tôi, chỉ làm cho định nghĩa thêm dài dòng, rối rắm và không cần thiết. Bởi vì
hình thang là một vật của trừu tượng toán học, là sản phẩm của tư duy trừu tượng
16
hay là một phức hợp cảm giác, cảm tính, kinh nghiệm là điều không quan trọng đối
với họ và đó cũng không phải là nhiệm vụ mà toán học phải quan tâm giải quyết.
Trở lại định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin, chúng ta dẫn ra ở đây hai định
nghĩa:
- “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác… ” (1).
- “Vật chất là một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm
giác” (2).
Tác giả (P.V.C) đã có sự phân chia, tách rời các định nghĩa trên thành hai
dạng. Theo tác giả, ở định nghĩa dạng (1), V.I.Lênin (chỉ) giải thích trực tiếp, nói
trực tiếp về vật chất với tư cách một vật trong tư duy, một trừu tượng triết học. Còn
ở định nghĩa dạng (2) mới là sự giải thích trực tiếp, chính diện về vật chất.
Chúng ta thấy rằng, ở định nghĩa dạng (1), nội dung “… dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác …, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác” sẽ là cái gì nếu không phải là những biểu hiện chủ quan, phản
ánh chủ quan (trực tiếp, chính diện) thuộc tính cơ bản, tính bản chất của đối tượng
vật chất trong hiện thực.
Việc V.I.Lênin khẳng định “vật chất là một phạm trù triết học” là xuất phát từ
tính lịch sử của vấn đề - điều này thì tác giả hiểu rất rõ.
Ở định nghĩa dạng (2), tác giả cho rằng, đây mới là định nghĩa trực tiếp, rõ
ràng về vật chất với tư cách nó là những sự vật vật chất hữu hình, cụ thể trong hiện
thực khách quan. Nhưng tác giả đã không thấy ra một điều là, nội dung “thực tại
khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác” cũng là một sự giải thích
trực tiếp cho vật chất được hiểu như là một vật tư duy, một trừu tượng triết học,
một khái niệm.
17
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng, các định nghĩa trên,
dù là cách phát biểu khác nhau, nhưng nội dung của chúng, về thực chất, chỉ là
một.
Việc phân chia thành hai dạng định nghĩa có thể dẫn đến một hậu quả ngoài ý
muốn: người ta có thể ngộ nhận ở định nghĩa (1), vật chất mới là một khái niệm,
phạm trù. Còn vật chất là chủ từ trong định nghĩa dạng (2) không phải là một trừu
tượng triết học, một phạm trù, mà là vật tồn tại trong hiện thực khách quan. Nhưng
đáng tiếc rằng, trong hiện thực khách quan không có cái vật chất như thế tồn tại,
mà chỉ có những vật cụ thể, hữu hình tồn tại mà thôi.
2. Về những thuộc tính của vật chất
Ở phần một, chúng ta đã hiểu rằng, khái niệm là một hình thức phản ánh chủ
quan những thuộc tính cơ bản, bản chất của đối tượng, sự vật. Nội dung phản ánh
này được ghi nhận đầy đủ vào trong định nghĩa. Qua đó, chúng ta nhận biết được
đối tượng ấy trong sự khác biệt với những cái khác; hiểu được sự hình thành,
những hình thái tồn tại và khuynh hướng phát triển của nó.
Nhưng, sự hiểu biết của khái niệm, những nội dung mà nó vạch ra có “lấp
đầy” những thuộc tính cơ bản nhất, bản chất nhất của đối tượng hay không?
Chúng ta biết rằng, để có một bức tranh đầy đủ, hoàn chỉnh (dĩ nhiên còn
tương đối) về sự vật trong vận động, biến đổi thì phải cần đến sự tổng hợp của
nhiều trừu tượng, nhiều khái niệm về chúng. Điều này giải thích vì sao có những
thuộc tính cơ bản của đối tượng không được phản ánh vào trong khái niệm, mà nó
lại phản ánh, biểu hiện vào trong những khái niệm khác, những trừu tượng khác
được thực hiện bằng những con đường khác nhau của quá trình nhận thức.
Ví dụ, trong toán học, khái niệm hình thang đã chỉ ra hai thuộc tính cơ bản của
nó: a) là một tứ giác (lồi); b) hai cạnh đối song song. Nhưng hình thang không chỉ
có hai thuộc tính cơ bản đó. Người ta đã chỉ ra được nhiều thuộc tính có tính bản
18
chất khác, như tính chất về góc, đường trung bình, diện tích của nó được phản ánh
ở trong các định lý.
Trở lại định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin. Có một điều rõ ràng ở định nghĩa
này: nó là sự biểu hiện chủ quan hai thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của vật chất.
Thế nhưng, có lẽ, tác giả (P.V.C) đã có một sự nhầm lẫn nào đó giữa định
nghĩa của khái niệm với tính chất của đối tượng, nên từ định nghĩa này, tác giả đã
đi tới một kết luận chưa đúng: “vật chất có hai thuộc tính căn bản, phổ biến…”.
Chúng ta đã biết, vận động, phát triển, không gian và thời gian cùng nhiều
thuộc tính khác đều là những thuộc tính cố hữu của vật chất mà tính căn bản, phổ
biến của nó cũng chẳng kém gì hai thuộc tính trên.
Vật chất là vô cùng, vô tận và luôn biến đổi. Việc tác giả khuôn chúng lại chỉ
vẻn vẹn có hai phẩm chất thôi là kết quả của một tư duy triết học cứng nhắc. Hậu
quả của việc làm này là đã đem lại cho chúng ta một bức tranh quá nghèo nàn về
thế giới. Nhưng thực ra, sự tìm tòi, sự nhận thức triết học của chúng ta về nó là một
quá trình đầy gian khổ và lâu dài như bản thân sự tồn tại của chúng ta vậy.
() Nhân bài viết của TS. Phạm Văn Chung đăng trên Tạp chí Triết học, số 7,
2007, tr. 49 - 57.
19