Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Cuộc Đại Khủng Hoảng và Giải Pháp của Keynes docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.47 KB, 15 trang )

Cuộc Đại Khủng Hoảng và Giải Pháp
của Keynes-PHẦN2
Bretton Woods: Thuyết Keynes ở Cấp Độ Quốc Tế.
Trước khi chuyển sang giải thích sự sụp đổ của hệ thống Keynes,
trước tiên tôi muốn nhắc lại bảng đối chiếu của Keynes quốc tế
với trong nước. Nhờ vào sự bành trướng quyền lực bá chủ của
Mỹ, giải pháp của Keynes đã được áp dụng ở cả toàn bộ khu vực
phương Tây. (Sự thất bại của chủ nghĩa phát xít đã loại bỏ giải
pháp của chủ nghĩa nghiệp đoàn và Liên Bang Xô Viết, cũng như
những khu vực của nó tại Đông Âu, tồn tại độc lâp với những giải
pháp của Stalin.)
Thuyết kinh tế Keynes đã được áp dụng trong hệ thống tiền tệ
quốc tế thông qua hiệp định được ký tại hội nghị ở Bretton
Woods, New Hampshire năm 1944. Hiệp định Bretton Woods đã
thay thế hệ thống kim bảng vị thời tiền chiến tranh đã sụp đổ
trong suốt cuộc suy thoái toàn cầu thập kỷ 30. Với hiệp định mới
này, các tỷ giá hối đoái tiền tệ giữa các quốc gia sẽ ổn định hơn
hoặc ít ổn định hơn - thay đổi trong những trường hợp ngoại lệ.
Những gì mà hiệp định này được soạn thảo dựa vào thuyết kinh
tế Keynes là giả định cho rằng chính phủ các nước có thể tự điều
chỉnh các mối quan hệ quốc tế.
Với chế độ kim bảng vị, thì thâm hụt hay thặng dư trong cán cân
thanh toán có thể được điều chỉnh bằng những thay đổi tự động
của lưu lượng vàng, mức cung tiền, và các mức giá. Nhưng với
hệ thống tỷ giá hối đoái cố định của Bretton Woods, mặc dù vàng
vẫn được sử dụng trong thanh toán quốc tế, nhưng việc phát
hành tiền trong nước không còn phụ thuộc vào trữ lượng vàng
nữa mà nó chỉ lệ thuộc vào chính phủ dùng phương pháp đo
lường nào mà họ cho là thích hợp để điều chỉnh lại cán cân thanh
toán bị lệch. Ví dụ như trong trường hợp thâm hụt mậu dịch kéo
dài, khi một nước nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, thì chính phủ


có thể sử dụng chính sách hạn chế tiền tệ và tài chính nhằm giảm
mức tăng lạm phát, và do đó giảm nhu cầu hàng nhập khẩu và
tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. (Nhìn chung người ta
cho rằng nhu cầu hàng nhập khẩu là một hàm tăng trưởng
dương). Ta hãy khảo sát lại những mối quan hệ này kỹ hơn.
Để có được những tỷ giá cố định, nghĩa là mức giá giữa các loại
tiền tệ của các nước phải cố định. Như đồng franc Pháp phải cố
định so với đồng đôla Mỹ. Đồng bảng Anh phải cố định so với
đồng franc. Và vân vân. Lý do để giử cố định tỷ giá là để tránh
đầu cơ và bình ổn quan hệ mua bán trao đổi quốc tế cả hai lý
do này nhằm tạo ra một môi trường ổn định cho mậu dịch và đầu
tư quốc tế. Những quốc gia họp mặt tại Bretton đều không muốn
tỷ giá hối đoái của nước mình thay đổi tuỳ tiện như trong thập kỷ
30. Những thay đổi ấy đã làm cho nền kinh tế quốc tế mất ổn định
và làm phá vở mậu dịch lẫn lưu lượng vốn. Những thay đổi tỷ giá
để tăng tính cạnh tranh diễn ra manh mẽ và hiệp định này nhằm
cố gắng giảm thiểu những sự thay đổi đó.
Ví dụ như, giả sử đồng franc trong thời buổi khó khăn bán hàng
với tỷ giá 5F/đôla. Nếu như một bên thay đổi tỷ giá là 6NF/đôla thì
đồng đôla có mua nhiều hàng của Pháp hơn so với lúc trước và
hàng của Pháp xuất khẩu được nhiều hơn. Tuy nhiên hàng Mỹ sẽ
ít hấp dẫn hơn do phải mua với nhiều đồng franc hơn và vì vậy
hàng xuất của Mỹ sẽ bị giảm. Điều này có thể khiến cho Mỹ sẽ
thay đổi tỷ giá để cạnh tranh. Để tránh được tình trạng như thế thì
một phần nên áp dụng tỷ giá cố định.
Nhưng thậm chí với tỷ giá cố định, thì hiếm khi hàng nhập khẩu
và xuất khẩu đều bằng nhau tuyệt đối được. (Ở đây không đề
cập đến lưu lượng vốn của quốc gia đó). Theo cơ chế lưu lượng
củ thì lượng vào đi vào sẽ tạo nên sự chênh lệch giá. Còn theo
Bretton Woods, thì hiệp định đưa ra một "cơ chế điều chỉnh"

khác. Cơ chế này bao gồm những nhân tố sau. Đầu tiên, để kiểm
soát cán cân lệch trong ngắn hạn thì mỗi nước phải có quỹ dự trữ
ngoại tệ để có thể trả nợ khi cần (tức là chi trả cho mức chênh
lệch khi nhập vượt xuất). Những quỹ dự trữ ngoại tệ này có thể
được tích luỹ từ thặng dư mậu dịch của những năm trước hoặc
có thể do ngân hàng trung ương nắm giữ.
Thứ hai, bởi vì có thể xãy ra trường hợp cán cân thanh toán bị
thâm hụt liên tiếp trong nhiều năm, và quỹ ngoại tệ của nó quá
nhỏ không đủ khả năng thanh toán thâm hụt, thì hiệp định Bretton
Woods đã thiết lập nên một tổ chức đặc biệt để tương trợ các
nước như vậy, đó là Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF). IMF có trách
nhiệm quản lý quỹ vốn tiền tệ chung do tất cả các thành viên
đóng góp tuỳ theo khả năng kinh tế của mỗi nước. (Do vậy, Mỹ là
quốc gia đóng góp nhiều nhất và có quyền bầu cử nhiều nhất
trong IMF). Các nước thành viên có thể trích tiền từ quỹ này (mua
những loại ngoại tệ mà họ cần bằng đồng nội tệ của họ) theo
những quy tắc và điều đã quy định bởi IMF. Bởi quỹ này cũng có
một lượng tiền giới hạn và những quy tắc chỉ cho phép từng
nước thành viên rút ra với một lượng hạn chế mà thôi, nên thông
qua những hành động của chính phủ các nước có liên quan (như
trong trường hợp giảm tốc độ tăng trưởng để giảm nhu cầu hàng
nhập khẩu đã trích dẫn ở trên), nó chỉ có thể giải quyết được
những điều chỉnh sự thiếu cân đối trong mậu dịch ở mức độ vừa
phải mà thôi (hoặc điều chỉnh những tài khoản mất cân đối khác
trong cán cân thanh toán). Trong những trường hợp "mất cân đối
cơ bản" đặc biệt, thì IMF sẽ cho phép thay đổi tỷ giá chính thức
(tức là cho phép phá giá để tăng tính cạnh tranh cho hàng xuất
khẩu). Nói cách khác, IMF cho rằng việc điều chỉnh cơ bản là
nhiệm vụ của từng chính quyền địa phương. Giả định của IMF
như thế cơ bản dựa vào khả năng tiềm tàng và sâu xa rằng

những chính quyền đó thực sự có thể đủ khả năng thực hiện nhờ
vào ứng dụng những chính sách kinh tế của Keynes. Điều này
mang ý nghĩa là thuyết kinh tế Keynes đã là một hệ thống toàn
cầu.
Song song với vấn đề "điều chỉnh", thì một trong những vấn đề
cơ bản khác của hệ thống tài chính quốc tế là vấn đề "thanh
khoản". Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của hầu hết,
không phải tất cả, các quốc gia sau Đệ Nhị Thế Chiến. Theo chế
độ kim bảng vị trước đó thì vàng được chấp nhận như một loại
tiền quốc tế (trừ những khu vực thuộc địa, những khu này chỉ sử
dụng tiền của nước chính quốc). Tuy nhiên sau hiệp định Bretton
Woods, mậu dịch quốc tế phát triển với tốc độ nhanh hơn cả tốc
độ cung vàng và kết quả của việc chỉ sử dụng vàng trong thanh
toán các khoản thu chi đã làm xuất hiện giảm phát vì giá vàng
giảm liên tục. Về mặt thuyết định lượng tiền tệ của trường phái
kinh tế cổ điển, thì mối quan hệ M=PQ/V phải được hiểu theo một
hướng khác. Thay vì xem là P thay đổi khi M thay đổi, thì chúng
ta có thể xem là cùng với tình hình phát triển của tài chính thế
giới, M phải gia tăng đủ để tài trợ cho sự gia tăng của Q nếu P
không giảm một cách đều đặn.
Với tỷ giá cố định, đặc biệt là đồng đô la được giữ cố định so với
giá vàng, thì nhiều nước đã có thể dùng vàng để thay thế cho
đôla. Các nuớc cũng có thể giữ đồng đô la trong quỹ dự trữ của
mình và có thể dùng nó để trả các khoản nợ bởi vì đô la cũng "tốt
như vàng". Theo mặt nguyên tắc thì bất kỳ ngoại tệ nào cũng có
thể được sử dụng như thế; nhưng thực tế qua nhiều năm, chỉ có
đồng đô la là vẫn giữ thế ổn định so với giá vàng và do đó người
ta cho nó là loại ngoại tệ an toàn nhất để giữ. Kết quả là đồng đô
la không những đựơc dùng bổ sung cho vàng mà còn đựơc xem
là đồng tiền quốc tế chính, mà rốt cuộc trong quỹ dự trữ người ta

giữ nhiều đô la với số lượng nhiều hơn trữ lượng vàng có giá trị
tương đương. Vì lẽ đó hệ thống Bretton Woods sau này được gọi
là hệ thống "tiêu chuẩn đô la". Vào thập kỷ 60, khi vị trí độc tôn
của đô la gặp phải thử thách bởi xuất hiện những ngoại tệ của
Châu Âu, rõ ràng rằng đồng đôla đã thay thế vàng bởi vì nền kinh
tế Mỹ mạnh nhất thế giới, chứ không vì nó bị mất giá trị hơn so
với vàng. Thật vậy, nhiều nhà kinh tế cho rằng "vàng và đô la đều
ngang ngữa nhau", không cái nào hơn cái nào. Người ta nắm giữ
đôla không phải vì nó đổi được vàng mà vì nó có thể dùng để
mua các loại hàng hoá được sản xuất từ nền kinh tế đáng tin cậy
và quyền lực nhất thế giới.
Việc nắm giữ đồng đô la tăng trưởng nhanh chóng vào thời kỳ
tiền đại nhị thế chiến một phần do mậu dịch đựơc mở rộng, và
một phần vì khả năng luân chuyển vốn trên thế giới. Sau chiến
tranh, vốn của Mỹ luân chuyển ra khỏi nước Mỹ, tách khỏi lực
lượng lao động mạnh mẽ (lực luợng đã giành chiến thắng trong
Đại Nhị Thế Chiến và quay về nước tổ chức cuộc đình công lớn
vào năm 1946) và nguồn vốn đó đã chảy vào Đông Âu để tận
dụng lực lượng lao động tuy yếu nhưng có tay nghề ở đây.
Phương tiện để xâm chiếm này chính là cái gọi là công ty đa
quốc gia. Cái tên này được lấy từ đặc tính sản xuất và tiếp thị đặt
cơ sở tại nhiều nước khác nhau cùng lúc. Hoạt động trong nhiều
nước đã tạo nên những công ty "đa quốc gia" và làm cho họ quan
tâm hơn với vấn để tài chính quốc tế cũng như sản xuất.
Nằm ở nhiều nước cùng lúc và hoạt động thông qua hệ thống
ngân hàng các nước, các công ty đa quốc gia này đang ở trong
ưu thế tận dụng được sự khác biệt về tỷ giá hối đoái, hoặc sự
khác nhau về lãi suất đầu tư. Bởi vì đồng đô la lâu nay được xem
như đồng tiền chung của quốc tế, nên họ chủ yếu dùng đô la để
đầu tư. Kết quả là xuất hiện "thị trường Euro-đôla" rộng lớn của

đồng đô la đượcc nắm giữ bởi các ngân hàng bên ngoài nước
Mỹ. Trong suốt thời gian phát triển loại thị trường này không
những giúp đở về mặt tài chính cho các công ty đa quốc gia mà
còn làm phá vở sự ổn định của hệ thống tỷ giá cố định. Các công
ty đa quốc gia sẽ chuyển một lượng tiền lớn từ loại tiền tệ này
sang một loại tiền tệ khác để đầu cơ mà họ cho rằng có thể làm
phá giá được - và làm như thế sẽ phá giá đồng tiền.
Cuối cùng thì vai trò chi phối của đồng đô la trong cơ chế hiệp
định Bretton Woods rơi vào tình trạng bị công kích , phần lớn bởi
người Châu Âu mà đứng đầu là tổng thống Pháp Charles
DeGaulle. Người Châu Âu buộc tội những công ty đa quốc gia Mỹ
đã dùng tiền mua các nhà máy, thâu tóm cả ngành công nghiệp
Châu Âu. Trong thập kỷ 60 cùng vời cuộc chiến tranh của Mỹ tại
Việt Nam, họ cũng buộc tội Mỹ đã viện trợ tài chính cho chiến
tranh bằng cách tung đồng đô la khắp thế giới, do đó làm cho lạm
phát khắp toàn cầu. Cuối cùng, vai trò trung tâm của đồng đô la bị
cho là đã làm giảm khả năng của các nước để có những chính
sách tiền tệ độc lập bởi ngân hàng trung ương cứ phải bù vào
lượng đô la đi vào thị trường Euro-đôla để tránh hoặc hạn chế
lạm phát.
Sự chống đối thông thường nhất đối với vai trò của đồng đô la là
cán cân thanh toán của Mỹ ngày càng thâm hụt. Tuy nhiên, do
một số nhà kinh tế chỉ ra vào thời gian đó rằng điều đó là không
thể tránh khỏi do những quốc gia khác đang nắm giữ đồng đô la
như một đồng tiền mang tính thanh khoản quốc tế. Và do đó dấy
lên cuộc thảo luận về việc thành lập lại một hệ thống có nhiều
chọn lựa như tỷ giá thả nổi tự do hoặc quay trở về kim bảng vị
(với giá vàng nhiều hơn gấp 3). Cuộc thảo luận này vẫn còn tiếp
diễn cho đến khi hệ thống này thật sự sụp đổ vào năm 1971.
Kết luận

Chương này đã cho ta một phác họa sơ lượt về hai thứ: một là
cuộc đại suy thoái và sự sụp đổ của những chu kỳ kinh tế cổ điển
cùng với chính sách tự do kinh doanh, hai là giải pháp của
Keynes áp dụng cả mức độ trong nước lẫn quốc tế.
Hiểu rỏ được những lý do tại sao kinh tế cổ điển không còn khả
thi nữa là một điều rất quan trong trong thời đại ngày nay bởi vì
sự phục sinh gần đây của một số tư tưởng kinh tế cổ điển về
chính phủ của Reagan và Bush. Nếu chúng không còn khả thi
vào thập kỷ 30 nửa thì liệu chúng có khả thi vào thời nay không?
Cùng với những điều kiện đã thay đổi thì liệu chúng có hoạt động
hữu hiệu vào thời này không?
Hiểu được nguồn gốc và những tư tưởng trọng tâm của kinh tế
học Keynes là một điều rất quan trọng, không chỉ bởi chúng đã
tạo nện những nguyên lý kinh tế mà đã được áp dụng và giảng
dạy trong suốt 30 năm qua, mà còn do sự sụp đổ mức tăng
trưởng trong 20 năm qua xảy ra đồng thời với sự suy sụp kinh tế
học Keynes.
Ngày nay, sự suy sụp của thời đại Keynes vẫn còn dai dẳng và
cùng với nó là hàng loạt những tranh luận khác nhau về những
giải pháp và các phương pháp lý thuyết khác. Như chưa từng có
trước đây 2 thập kỷ, hiện nay đang có nhu cầu đặt một nền tảng
lịch sử mới về cả chính sách lẫn lý thuyết.
Câu Hỏi Ôn Tập
1. Tại sao chế độ kim bảng vị lại sụp đổ vào thời kỳ đại suy thoái?
Những quốc gia nào đã sản xuất như thế nào trong tình trạng suy
sụp đó? Đã có những ảnh hưởng nào đến mậu dịch quốc tế và
hoạt động kinh tế?
2. Những thay đổi gì trong suốt thời kỳ đại suy thoái đã tạo nên
khó khăn cho cơ chế chu kỳ truyền thống nhằm phục hồi sự thịnh
vượng trong suốt thập kỷ 30?

3. Giải thích những thuật ngữ: chủ nghĩa Ford (Fordism), sản xuất
hàng loạt, công nhân sản xuất hàng loạt, không kỹ năng (de-
skilling). Giải thích mối quan hệ giữa chúng.
4. Trong khi chúng ta thoả luận về sự tăng trưởng, thì giải pháp
nào của Keynes được áp dụng cho cuộc đại suy thoái và duy trì
sự tăng trưởng? Giải pháp đó có ý nghĩa như thế nào khi được
Roosevelt bổ sung thêm?
5. Thuyết kinh tế Keynes có ý nghĩa gì trong việc phổ biến chủ
nghĩa Ford (Fordism)? Nó mang ý nghĩa như thế nào với tư cách
là một hiện thân của các nguyên tắc của trò chơi tổng-không-
bằng-không?
6. Thế nào là "chính sách năng suất" và nó có quan hệ thế nào
với kinh tế Keynes?
7. Những việc gì chính phủ nên làm để kích thích năng suất tăng
trưởng?
8. Hiệp định Bretton Woods được ký vào 1944 là hiệp định gì? Nó
có cố gắng như thế nào để tránh được những vấn đề của chế độ
kim bảng vị? Nó có ý nghĩa như thế nào khi nó thể hiện cơ chế
kinh tế của Keynes?
9. Giải thích chức năng của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định? Tại
sao bạn phải có quỹ dự trữ ngoại tệ và vai trò mong đợi của IMF
là gì?
10. Những vấn đề gì nổi cộm trong thời kỳ tiền Đệ Nhị Thế Chiến
theo khía cạnh thanh khoản quốc tế? Chúng được giải quyết như
thế nào?
11. Tại sao đồng đô la và vai trò của nó trong nền kinh tế thế giới
rơi vào thế bị công kích vào thập kỷ 60?
12. IMF "ủng hộ gì" cho hiệp định đó? Chúng hoạt động như thế
nào? Thế nào là "có điều kiện" (conditionality)? Những "điều kiện"
tiêu biểu là gì?


×