Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.1 KB, 2 trang )
Me rừng - Vị thuốc quay
Me rừng còn gọi là chùm ruột núi, tên
khoa học Phyllanthus emblica L, thuộc
họ thầu dầu Euphorbiaceae. Là loại cây
mọc hoang có nhiều tại các vùng rừng
núi Việt Bắc và Tây Bắc nước ta; cũng
như ở Ấn Độ hay Malaysia Cây
thường mọc ở chỗ sáng, có chiều cao
thông thường từ 5 - 7m, có khi hơn. Lá
nhỏ xếp sít nhau thành hai dãy, trông như lá kép lông chim. Ra hoa vào tháng 4 - 5 hằng
năm, hoa nhỏ màu vàng mọc thành tán ở nách. Quả thịt, hình cầu to bằng quả táo ta và có
khía rất mờ.
Bộ phận dùng làm thuốc là quả, lá, vỏ cây và rễ. Quả thu hái vào mùa đông, dùng tươi
hay phơi khô để dành sử dụng dần. Lá thu hái vào mùa hè thu, vỏ và rễ thu hoạch quanh
năm, sử dụng tươi hay sấy khô dùng dần.
đông y cho rằng quả me rừng có vị chua ngọt, hơi chát, tính mát có công năng sinh tân,
chỉ khát, lợi tiểu, hạ nhiệt, tiêu viêm, nhuận phế hóa đờm Ở Ấn Độ cũng sử dụng nó
làm thuốc mát, lợi tiểu, nhuận tràng. Lá me rừng có vị cay, tính bình, tác dụng lợi tiểu.
Rễ cây có vị đắng chát, tính bình với tác dụng thu liễm, hạ huyết áp. Vỏ cây cũng có tác
dụng thu liễm. Hoa có công dụng làm mát, hạ nhiệt, nhuận tràng.
Ngoài ra ở Ấn Độ người ta còn sử dụng quả me rừng khô để trị xuất huyết, tiêu chảy và
lỵ hoặc phối hợp với sắt để trị thiếu máu, vàng da và chứng khó tiêu. Nước lên men của
quả me rừng cũng dùng làm thuốc trị vàng da, khó tiêu hay trị ho. Dùng bột nước quả me
rừng với dịch chanh trị được lỵ trực khuẩn cấp tính. Khi chích vào quả me rừng, lấy dịch
ứa ra của quả đắp ngoài trị viêm mắt. Hạt được sử dụng để trị hen hay viêm khí quản và
chứng thiểu năng mật. Ở Thái Lan, quả me cũng được chế thành thuốc long đờm, hạ
nhiệt, lợi niệu, trị tiêu chảy, chống bệnh thiếu vitamin C (scorbut).
Cây và quả me rừng.
Trong Đông y, me rừng được sử dụng đơn độc hay phối hợp như lấy quả dùng trong trị