Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Quản trị ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.19 KB, 33 trang )

Quản trị Ngân hàng Thương mại 1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động Sáp nhập và mua lại được bắt đầu vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.
Tuy nhiên, phát triển mạnh mẽ nhất là vào những năm 90 của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ
21. Đi đầu trong hoạt động này có thể nói đến là khu vực tài chính ngân hàng ở Mỹ, sau
đó là Châu Âu, Châu Mỹ la tinh và Châu Á. Những cuộc đại sáp nhập ngân hàng diễn
ra trong bối cảnh kinh tế khác nhau theo từng đặc điểm riêng của từng khu vực.
Nhưng mục đích cuối cùng là cải tổ lại hệ thống các ngân hàng, tăng cường tính
cạnh tranh và khai thác các lợi thế kinh tế. Chính vì thế, tính đến thời điểm hiện nay,
quy mô các tổ chức ngân hàng đã thay đổi đáng kể từ phương tây sang phương đông.
Các tập đoàn tài chính ngân hàng khổng lồ được thành lập càng nhiều hơn và quy mô về
mặt tài chính và mạng lưới hoạt động các tập đoàn này ngày một lớn hơn.
Đối với ngành tài chính ngân hàng Việt Nam, vốn dĩ đã có nhiều yếu kém hơn so
với các nước trong khu vực, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các Ngân hàng
thương mại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách mới. Trong khi cả nền
kinh tế đang phải chịu áp lực với tình trạng lạm phát hai con số, thì ngân hàng là ngành
phải gánh chịu những ảnh hưởng đầu tiên.
Đứng trước tình hình đó, ngân hàng Việt Nam muốn tồn tại và cạnh tranh với các
tổ chức tài chính nước ngoài chỉ có phương pháp hiệu quả duy nhất là sáp nhập và mua
lại các ngân hàng nhỏ để tạo thành các ngân hàng lớn hoạt động hiệu quả và tăng năng
lực cạnh tranh. Hoạt động sáp nhập và mua lại ngân hàng là khuynh hướng toàn
cầu, một nhân tố quan trọng trong việc hoàn thiện các ngân hàng địa phương và
Việt Nam không thể loại trừ trong làn sóng ấy.
Vì vậy nhóm chúng tôi chọn đề tài “ Hoạt động sáp nhập, mua lại của các
ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay “ làm đề tài tiểu luận của nhóm. Ngoài phần
mở dầu và kết luận thì ksết cấu tiểu luận gồm 3 phần:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động sáp nhập, mua lại của các ngân
hàng thương mại.
- Chương 2: Thực tiễn hoạt động sáp nhập, mua lại tại ngân hàng thương
mại Việt Nam hiện nay.


GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 2
- Chương 3: GIải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt
Nam thông qua hoạt động M& A.
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP, MUA LẠI CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI NIỆM MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP
Mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là một thuật ngữ mới xuất hiện trong thời gian
gần đây ở Việt Nam. Thuật ngữ này được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “Mergers &
Acquisitions”, viết tắt là M&A, thể hiện hoạt động hai hay nhiều doanh nghiệp kết hợp
lại với nhau nhằm đạt được những mục tiêu đã được xác định trước trong chiến lược
kinh doanh của mình. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên M&A
ngân hàng cũng có bản chất tương tự như M&A doanh nghiệp nói chung: rất đa
dạng, được diễn ra dưới nhiều hình thức và nội dung như sau:
 Sáp nhập (Mergers):
 Phương thức sát nhập là một doanh nghiệp tài chính , trong đó một hoặc nhiều
ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác được sát nhập vào một ngân hàng (gọi là
ngân hàng sát nhập).các ngân hàng được sát nhập chấm dứt hoạt động , toàn bộ
quyền và nghĩa vụ của các ngân hàng được sát nhập chuyển giao cho ngân hàng
sát nhập, tức là tài sản và nợ của ngân hàng được sát nhập cộng vào tài sản và nợ
của ngân hàng sát nhập. Việc giải quyết quyền lợi , nghĩa vụ và quyền lợi của các
cổ đông của các ngân hàng được sát nhập do các bên ngân hàng thoả.
 Mua lại (hay còn gọi là thâu tóm – Acquisitions)
Mua lại là hành động trở thành chủ sở hữu của một tài sản nhất định. Công ty mua
lại gọi là công ty đi mua (acquirer), công ty được mua lại gọi là công ty mục tiêu
(target).
Trong hoạt động mua lại, công ty có thể chọn một trong các cách tiến hành mua lại
như sau:
Mua lại cổ phiếu: Công ty mua lại có thể dùng tiền để mua lại các cổ phiếu biểu
quyết, cổ phần, hoặc các chứng khoán khác của công ty mục tiêu. Khoản tiền này được

chia cho các cổ đông của công ty mục tiêu.
Mua lại tài sản: Một công ty có thể mua tất cả hoặc phần lớn tài sản của công ty
mục tiêu. Trường hợp này công ty mục tiêu sau khi bị mua lại tài sản chỉ còn “cái vỏ”,
do đó trong nhiều trường hợp trên thực tế nó sẽ chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên không
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 3
nhất thiết tất cả công ty mục tiêu được mua lại theo kiểu này đều ngưng hoạt động.
Theo Luật cạnh tranh Việt Nam (ra đời năm 2004), các khái niệm về sáp nhập,
hợp nhất và mua lại được Luật định nghĩa như sau:
• Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
• Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một
doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp
nhất.
• Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
Như vậy, nhìn chung thì khái niệm sáp nhập và mua lại được hiểu theo hệ
thống pháp lý Việt Nam và quan điểm chung của thế giới khá tương đồng. Nói
chung thì sáp nhập và mua lại có cùng bản chất là sự hợp nhất của hai hoặc nhiều hơn
hai chủ thể thành một chủ thể duy nhất còn hoạt động, chủ thể còn lại sẽ chấm dứt hoạt
động.
1.2 CÁC HÌNH THỨC MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP
1.2.1 Dựa trên mức độ liên hệ giữa hai tổ chức
 Sáp nhập theo chiều ngang (horizontal merger)
Sáp nhập và mua lại theo chiều ngang là giao dịch M&A giữa hai ngân hàng hay
doanh nghiệp kinh doanh và cạnh tranh trực tiếp về một dòng sản phẩm và dịch vụ
trong cùng một thị trường. Kết quả của giao dịch này có thể sẽ mang lại cho bên sáp

nhập nhiều lợi ích: mở rộng thị trường, giảm bớt đối thủ cạnh tranh, tận dụng nguồn
lực về con người, hệ thống công nghệ kỹ thuật…
 Sáp nhập theo chiều dọc (vertical merger)
Sáp nhập và mua lại theo chiều dọc là giao dịch M&A giữa một ngân hàng với
một doanh nghiệp là khách hàng của chính ngân hàng đó (M&A tiến - forward) hoặc
giữa một ngân hàng với một doanh nghiệp là nhà cung ứng cho
họ (M&A lùi – backward). M&A theo chiều dọc mang lại cho ngân hàng bên mua các
lợi ích như: kiểm soát được rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng, giảm các chi phí
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 4
trung gian...
 Sáp nhập kết hợp (conglomerate merger)
Sáp nhập kết hợp là giao dịch M&A diễn ra giữa ngân hàng và doanh nghiệp khác
hoạt động ở các lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề không liên quan với nhau. Một tên gọi
khác của giao dịch này là “M&A hình thành tập đoàn”.
1.2.2 Dựa trên phạm vi lãnh thổ
 Sáp nhập và mua lại trong nước(domestic merger): Đây là những thương vụ sáp
nhập, mua lại giữa các công ty trong cùng lãnh thổ một quốc gia.
 Sáp nhập và mua lại xuyên biên (cross-border merger): Sáp nhập và mua lại
xuyên biên được thực hiện giữa các công ty thuộc hai quốc gia khác nhau, là một trong
những hình thức đầu tư trực tiếp phổ biến nhất hiện nay.
1.2.3 Dựa trên chiến lược mua lại công ty
 Mua lại công ty thông qua con đường thương lượng (friendly takeover)
Khi có ý định mua lại “thân thiện”, công ty mua lại đặt vấn đề chào mua trực tiếp
với ban giám đốc và hội đồng quản trị của công ty mục tiêu và nếu mọi việc diễn tiến
tốt đẹp, họ sẽ đạt được mục đích thông qua quá trình thương lượng, thống nhất giữa hai
bên.
 Mua lại có ý đồ thôn tính (hostile takeover)
Mua lại có ý đồ thôn tính diễn ra khi một công ty bằng mọi cách mua lại
công ty khác cho dù công ty mục tiêu có thích hoặc đồng tình hay không.

Hành động thôn tính này thường được thực hiện thông qua việc âm thầm mua lại các cổ
phiếu của hội đồng quản trị để cuối cùng đạt được tỷ lệ sở hữu đa số và nắm quyền
kiểm soát công ty. Điều này cũng không dễ thực hiện trừ phi cổ phần của công ty mục
tiêu được sở hữu rộng rãi và dễ mua lại (tính thanh khoản cao). Mua lại với ý đồ thôn
tính được coi là hành động “cướp công ty” (corporate raid).
1.2.4 Dựa trên phương pháp tiến hành tài trợ (bằng nợ hoặc vốn tự có)
 Mua công ty sử dụng đòn cân nợ (Leveraged Buyouts – LBOs)
LBOs diễn ra khi có một công ty vay nợ (lên từ 90% đến 100% giá trị
thương vụ) để đi mua một công ty mục tiêu. Cách thức phổ biến là công ty mua lại sẽ sử
dụng phương thức vay ứng trước (prepayable bank facilities), đồng thời phát hành trái
phiếu ra công chúng hoặc cho một số cá nhân để vay tiền (loại trái phiếu này được xếp
vào dạng trái phiếu có lãi suất cao và mang tính rủi ro cũng rất cao). Thông thường,
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 5
công ty đi mua sẽ sử dụng tài sản của mình để thế chấp và sử dụng dòng ngân lưu tự do
của công ty mục tiêu như nguồn hoàn trả các khoản nợ. Cuối cùng, công ty đi mua bán
công ty mục tiêu cho công ty khác dưới hình thức phát hành cổ phiếu lần đầu ra công
chúng (Initial Public Offering) hoặc trả lãi cho chính mình nếu tiếp tục tài trợ.
 Mua công ty sử dụng vốn chủ sở hữu ( Management Buyouts- MBOs)
MBOs là trường hợp mua lại đặc biệt, xảy ra khi các giám đốc của một công ty
mua lại phần lớn cổ phiếu công ty từ những người chủ thực sự để chuyển từ vị trí quản
trị “ làm công ăn lương” sang vị trí trực tiếp làm chủ doanh nghiệp. Mục đích của việc
mua lại này có thể là để gia tăng khả năng kiểm soát công ty, củng cố lợi ích cá nhân
trong niềm tin vào tương lai xán lạn của công ty. Đa số trường hợp, sau khi thực hiện
MBOs, ban quản trị sẽ biến công ty cổ phần thành công ty tư nhân. MBOs đóng vai trò
quan trọng trong việc tái cấu trúc công ty.
1.2.5 Các cách phân loại khác
 Sáp nhập trong cùng thị trường (In-market merger)
Công ty sáp nhập và công ty mục tiêu hoạt động kinh doanh trên các thị
trường địa lý giống nhau. Việc xóa bỏ sự trùng lắp trong bộ máy tổ chức và hoạt động

chức năng giữa hai công ty cho phép tiết kiệm đáng kể chi phí hoạt động và tổng chi
phí.
 Sáp nhập mở rộng thị trường (Market-extensions merger)
Sáp nhập diễn ra giữa các công ty hoạt động trên các thị trường khác biệt, không
trùng nhau. Hình thức sáp nhập này không quá chú trọng đến những cơ hội giảm chi phí
mà nhắm đến nhiều hơn là những cơ hội thâm nhập các thị trường mới, đa dạng hóa
nguồn thu nhập, và tăng doanh thu.
 Ngoài các chiến lược mua lại đã kể trên, hoạt động M&A còn xảy ra dưới các
hình thức:
- Một công ty nhỏ mua lại một công ty lớn hơn.
- Một công ty tư nhân “ mua lại” công ty cổ phần.
+ Sáp nhập tăng thêm EPS (Accretive Mergers): Đây là hình thức một công ty
có P/E cao sáp nhập với một công ty có P/E thấp và tạo ra một công ty mới
có EPS tăng cao.
+ Sáp nhập làm giảm EPS (Delulive merger): Đây là hình thức một công
ty có P/E thấp sáp nhập với một công ty có EPS cao và tạo ra một công ty mới
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 6
có EPS thấp hơn.
1.3 NHỮNG LÝ DO THÚC ĐẨY VIỆC SÁP NHẬP HỢP NHẤT
Làn

sóng

sáp

nhập




mua

lại

đ
ang

diễn

ra

mạnh
mẽ
trên

phạm

vi

toàn

thế
giới,

không

ch


diễn ra




trong

nước



còn



các

cu

c

sáp

nhập

xuyên

biên.

Điều
đ
ó,


càng

khẳng

đ

nh

những

tác

độ
ng

tích

cực

c

a

hoạt

độ
ng

này.


Đ

ng

cơ c

a

hoạt
độ
ng

này

rất

đ
a

dạng,

sau

đ
ây



m


t

s


độ
ng

thường

gặp:
1.3.1
Sát nhập để tránh giải thể hoặc phá sản:

Sự thay đổi về quy chế vốn điều lệ tối thiểu của các nhân hàng theo xu hướng
tăng lên , vì vậy các ngân hàng thành lập theo quy chế cũ buộc phải tăng vốn theo quy
chế mới ,nếu không bắt buộc phải giải thể.Trong trường hợp này nếu các ngân hàng
không thể phát hành them cổ phiếu mới ,phải tìm cách sát nhập vào các ngân hàng khác
Một số ngân hàng đang lâm vào tình trạng rủi ro cao đặc biệt là tổn thất trong
hoạt động cho vay, các cơ quan quản lý ngân hàng thường đứng ra dàn xếp để sát nhạp
vào các ngân hàng khác .Việc can thiệp này nhằm mục đíc ngăn chặn sự sụp đổ ngân
hàng, làm ảnh hưởng đến quỹ bảo hiểm tiền gửi và tình hình ổn định của hệ thống nhân
hàng

1.3.2
Giảm thiểu rủi ro

Việc sát nhập có thể xuất phát từ mục đích giảm thiểu rủi ro, đặc biệt là rủi ro lưu
chuyển tiền và rủi ro lợi nhuận. mức rủi ro thấp hơn có thể là do việc sát nhập làm tăng

quy mô và uy tín của các tổ chức ngân hàng,mở ra thị trường mới với những đặc điểm
kinh tế đa dạng hơn so với thị trường của mỗi ngân hàng hoặc tại điều kiện cung cấp các
dịch vụ mới,đa dạng các sản phẩm tài chính , từ đó sẽ làm ổn định hơn lưu chuyển tiền
tệ

1.3.3 Hợp lực thay cạnh tranh
Hoạt động mua bán sáp nhập diễn ra tất yếu sẽ giảm đi các số lượng người chơi
vốn dĩ là các đối thủ cạnh tranh của nhau trên thương trường cũng có nghĩa sức nóng
cạnh tranh không những giữa các bên liên quan mà cả thị trường nói chung sẽ được hạ
nhiệt.
1.3.4 Nâng cao hiệu quả
Nâng cao năng lực tài chính: thông qua M&A, các công ty có thể tăng vốn chủ
sở hữu, giảm chi phí đi vay, chủ động nguồn vốn cho các dự án đầu tư, tạo lòng tin cho
các chủ nợ chi phí huy động vốn sẽ giảm.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 7
Nâng cao hiệu quả nhờ quy mô khi nhân đôi thị phần, giảm chi phí cố định, chi
phí nhân công, hậu cần, phân phối do loại trừ các yếu tố trùng lắp. Các công ty còn có
thể bổ sung cho nhau về nguồn lực (đầu ra) và các thế mạnh khác của nhau như thương
hiệu, thông tin, bí quyết, dây chuyền công nghệ, cơ sở khách hàng, hay tận dụng những
tài sản mà mỗi công ty chưa sử dụng hết giá trị (chẳng hạn một công ty chứng khoán
sáp nhập với một ngân hàng) nhờ đó mà chất lượng sản phẩm được nâng cao. Ngoài ra,
còn có trường hợp công ty thực hiện M&A với một công ty đang thua lỗ nhằm mục
đích trốn thuế cho phần lợi nhuận của bản thân.
Nâng cao hiệu quả nhờ sự năng động, tăng tính linh hoạt, phản ứng nhanh với
những thay đổi của thị trường do đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro nhờ đa
dạng hóa sản phẩm, nắm bắt thông tin tốt nhờ có mối quan hệ rộng rãi và nắm nhu cầu
thị trường tốt, hạn chế bất lợi về thông tin không cân xứng.
1.3.5 Tham vọng bành trướng tổ chức và tập trung quyền lực thị trường
Các công ty đã thành công thường nuôi tham vọng rất lớn trong việc phát

triển tổ chức của mình ngày một lớn mạnh và thống trị không những trong phân
khúc và dòng sản phẩm hiện tại mà còn lan sang cả những lĩnh vực khác. Hoạt động
sáp nhập này là công cụ để các nhà quản lý thu mua gia tăng quyền lực và thu nhập.
Điều này khiến nhiều khi đưa ra những quyết định sáp nhập và mua lại không cần thiết
gây lãng phí và không hiệu quả.
1.3.6 Giảm chi phí gia nhập thị trường
Ở những thị trường có sự điều tiết mạnh của chính phủ, việc gia nhập thị
trường đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng nhiều điều kiện khắt khe, hoặc chỉ thuận lợi
trong một giai đoạn nhất định, thì những công ty đến sau chỉ có thể gia nhập thị trường
đó thông qua thâu tóm những công ty đã hoạt động trên thị trường. Điều này rất phổ
biến đối với đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, đặc biệt là ngành ngân hàng, tài chính, bảo
hiểm.
Hơn nữa, không những tránh được các rào cản về thủ tục để đăng ký thành lập
(vốn pháp định, giấy phép), bên mua lại còn giảm được cho mình chi phí và rủi ro trong
quá trình xây dựng cở sở vật chất và cơ sở khách hàng ban đầu. Nếu sáp nhập một công
ty đang ở thế yếu trên thị trường, những lợi ích này còn lớn hơn giá trị vụ chuyển
nhượng, và chứng minh quyết định gia nhập thị trường theo cách này của người “đến
sau” là một quyết định đúng đắn. Trong một số trường hợp mục đích chính của
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 8
người thực hiện M&A không chỉ là gia nhập thị trường mà còn nhằm mua lại một ý
tưởng kinh doanh có nhiều triển vọng.
1.3.7 Chiến lược đa dạng hóa và dịch chuyển trong chuỗi giá trị
Nhiều công ty chủ động thực hiện M&A để hiện thực hóa chiến lược đa dạng
hóa sản phẩm hoặc mở rộng thị trường của mình. Khi thực hiện chiến lược này,
công ty sẽ xây dựng được cho mình một danh mục đầu tư cân bằng hơn nhằm tránh rủi
ro phi hệ thống.

1.4 CÁC PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP
Cách thức thực hiện thâu tóm và hợp nhất rất đa dạng và mang tính chuyên biệt

hóa tùy thuộc vào mục tiêu, đặc điểm quản trị, cấu trúc sở hữu và ưu thế so sánh của
các công ty liên quan trong từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, có các cách phổ biến
sau:
1.4.1 Chào thầu (tender offer)
Công ty hoặc một nhóm nhà đầu tư có ý định mua đứt (buyout) toàn bộ công ty
mục tiêu đề nghị cổ đông hiện hữu của công ty đó bán lại cổ phần của họ với một mức
giá cao hơn thị trường rất nhiều (premium price). Giá chào thầu đó phải đủ hấp dẫn để
đa số cổ đông tán thành việc từ bỏ quyền sở hữu cũng như quản lý công ty của mình.
Hình thức chào thầu này thường được áp dụng trong các vụ thôn tính mang tính
thù địch đối thủ cạnh tranh.
1.4.2 Lôi kéo các cổ đông bất mãn (Proxy fights)
Cũng được sử dụng trong các vụ” thôn tính mang tính thù địch”. Khi lâm vào tình
trạng kinh doanh yếu kém và thua lỗ, luôn có một bộ phận không nhỏ cổ đông bất mãn
và muốn thay đổi ban quản trị và điều hành công ty mình. Công ty cạnh tranh có thể lợi
dụng tình cảnh này để lôi kéo bộ phận cổ đông đó. Trước tiên, thông qua thị trường, họ
sẽ mua một số lượng cổ phần tương đối lớn (nhưng chưa đủ để chi phối) cổ phiếu trên
thị trường để trở thành cổ đông của công ty mục tiêu. Sau khi nhận được sử ủng hộ, họ
và các cổ đông bất mãn sẽ triệu tập họp Đại hội cổ đông, hội đủ số lượng cổ phần chi
phối để loại ban quản trị cũ và bầu đại diện của công ty thôn tính vào Hội đồng quản trị
mới. Cảnh giác với hình thức thôn tính này, ban quản trị của công ty bị sáp nhập có thể
sắp đặt các nhiệm kỳ của ban điều hành và ban quản trị xen kẽ nhau ngay từ trong Điều
lệ công ty. Bởi vì mục đích cuối cùng của công ty thôn tính và các cổ đông bất mãn là
thay đổi điều hành.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 9
1.4.3 Thương lượng tự nguyện (friendly mergers)
Với ban quản trị và điều hành là hình thức phổ biến trong các vụ sáp nhập “thân
thiện” (friendly mergers). Nếu cả hai công ty đều nhận thấy lợi ích chung tiềm tàng
trong một vụ sáp nhập và những điểm tương đồng giữa hai công ty (về văn hóa,
hoặc thị phần…) người điều hành sẽ xúc tiến để ban quản trị của hai công ty ngồi lại và

thương thảo cho một hợp đồng sáp nhập.
Ngoài các phương án chuyển nhượng cổ phiếu hay tài sản hay tiền mặt hoặc kết
hợp tiền mặt và nợ, các công ty thực hiện sáp nhập thân thiện còn có thể chọn phương
thức hoán đổi cổ phiếu (stock swap) để biến cổ đông của công ty này trở thành cổ đông
của công ty kia và ngược lại. Hoặc hình thức trao đổi cổ phần, để nắm giữ chéo sở hữu
công ty của nhau.
1.4.4 Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Công ty có ý định thâu tóm sẽ giải ngân để gom dần cổ phiếu của công ty mục
tiêu thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, hoặc mua lại của các cổ đông
chiến lược hiện hữu. Phương án này đòi hỏi thời gian, đồng thời nếu để lộ ý đồ thôn
tính, giá của cổ phiếu đó có thể tăng vọt trên thị trường. Ngược lại, cách thâu tóm này
được thực hiện dần dần và trôi chảy, công ty thâu tóm có thể đạt mục đích cuối cùng
của mình một cách êm thấm, không gây xáo động lớn cho “con mồi” của mình, trong
khi chỉ cần trả một mức giá rẻ hơn so với hình thức chào thầu rất nhiều.
1.4.5 Mua lại tài sản công ty gần giống phương thức chào thầu
Công ty sáp nhập có thể đơn phương hoặc cùng công ty mục tiêu định giá tài sản
của công ty đó (họ thường thuê một công ty tư vấn chuyên định giá tài sản độc lập). Sau
đó, các bên sẽ tiến hành thương thảo để đưa ra mức giá phù hợp (có thể cao hơn hoặc
thấp hơn). Phương thức thanh toán có thể bằng tiền mặt và nợ. Điểm hạn chế của
phương thức này là các tài sản vô hình như thương hiệu, thị phần, bạn hàng, nhân sự,
văn hóa tổ chức rất khó được định giá và được các bên thống nhất. Do đó, phương thức
này thường chỉ áp dụng để tiếp quản lại các công ty nhỏ, mà thực chất là nhắm đến các
cơ sở sản xuất, nhà xưởng máy móc, dây chuyền công nghệ, hệ thống cửa hàng, đại lý
đang thuộc sở hữu của công ty đó.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 10
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP VÀ MUA LẠI TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 SƠ LƯỢC VỀ HOẠT ĐỘNG M&A TRÊN THẾ GIỚI
Hoạt động M&A đã xuất hiện và phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm trên

thị trường thế giới, nhất là ở Mỹ. Giai đoạn khởi đầu tính từ năm 1890 đến năm
2000, hoạt động M&A ở quốc gia này đã trải qua 5 đợt sóng lớn. Tiếp sau Mỹ, thị
trường Anh cũng xuất hiện hoạt động M&A từ thập niên 60 - thế kỷ 20. Thị trường các
nước Châu Âu còn lại cũng xuất hiện loại hình giao dịch này vào những năm 1980. Kể
từ khi các thị trường này đều có hoạt động M&A thì dường như những làn sóng này
diễn ra ở Mỹ sẽ kéo theo những đợt sóng mạnh ở thị trường Anh và Châu Âu; nguyên
nhân là do sự toàn cầu hóa của nền kinh tế, và đây là những nền kinh tế lớn của thế giới
và liên quan mật thiết với nhau trong quá trình phát triển.
Sau khủng hoảng tài chính Châu Á, M&A diễn ra mạnh mẽ hơn, và có phần
trầm lắng trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2003, song lại tiếp tục sôi động từ
năm 2004 đến nay.
Theo thống kê sơ bộ của hãng thông tin tài chính Thomson Financial thì năm
2006 và 2007 là những năm có nhiều kỷ lục mới về giá trị giao dịch ở thị trường M&A
toàn cầu. Năm 2006 là năm thiết lập kỷ lục về tốc độ gia tăng giá trị giao dịch, tổng giá
trị giao dịch tăng đến 34% so với năm 2005. Và năm 2007 tăng hơn 21% so với giá trị
năm 2006. Các chuyên gia kinh tế đánh giá 2007 là năm bùng nổ của thị trường
M&A do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tập trung ở những nước có nền
kinh tế phát triển, đứng đầu là Châu Âu và Mỹ. Những vụ mua lại, sáp nhập trong năm
này tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính, công nghiệp dầu
khí, công nghệ thông tin, công nghiệp ôtô. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng điển
hình nhất là vụ ngân hàng Scotland mua lại ngân hàng ABN Amro của Hà Lan. Bước
sang đầu năm 2008, thị trường M&A toàn cầu có dấu hiệu giảm sút, giá trị giao dịch
giảm đến gần 25% so với cùng kỳ năm trước.
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động mạnh, gây ảnh hưởng đến hoạt
động của doanh nghiệp, thì thông thường tiếp theo đó sẽ là sự phát triển mạnh của thị
trường M&A. Vì thế, theo dự đoán thị trường M&A trên toàn cầu sẽ vẫn giữ được tốc
độ tăng trưởng kỷ lục.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 11
2.2 SÁP NHẬP VÀ MUA LẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT

NAM
2.2.1 Quan điểm của Nhà nước về hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng
Theo Quyết định số 112/QĐ-TTg của Chính Phủ ngày 24/05/2006 về việc phê
duyệt đề án phát triển ngành Ngân hàng tới năm 2010, Ngân hàng Nhà nước sẽ hoạt
động với vị thế độc lập hơn chuẩn bị tiền đề sau năm 2010 chuyển sang điều hành chính
sách tiền tệ theo cơ chế “lạm phát mục tiêu”. Các ngân hàng thương mại cổ phần và các
ngân hàng thương mại Nhà nước đóng vai trò nòng cốt của hệ thống ngân hàng Việt
Nam, nhưng bên cạnh đó vẫn khuyến khích sáp nhập, hợp nhất, mua lại để tăng quy mô
các ngân hàng thương mại ngang tầm khu vực .
Một trong những mục tiêu đối với các ngân hàng thương mại trong giai đoạn này
là nâng cao năng lực tài chính như tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng
cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có. Riêng đối với việc nâng cao vốn điều
lệ, Đề án này đề cập tới hàng loạt giải pháp như phát hành trái phiếu, cổ phiếu, sáp
nhập, hợp nhất, mua lại. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ dừng lại ở việc khuyến khích
chứ không dùng mệnh lệnh buộc các ngân hàng sáp nhập hay hợp nhất, mà phải
dựa trên điều kiện kinh tế và trên cơ sở tự nguyện giữa các ngân hàng.
Kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn chohệ
thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản các NHTMCP theo quy
định pháp luật, song đảm bảo không gây tác động lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tạo điều
kiện cho các NHTM mua, bán, hợp nhất, sáp nhập để tăng khả năng cạnh tranh và quy
mô hoạt động. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài
sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong
dài hạn.
Đưa ra những quan điểm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam
chứng tỏ Ngân hàng Nhà nước đã nhìn thấy những bất cập của việc phát triển tràn lan và
nguy cơ của các tổ chức tín dụng quy mô nhỏ hoạt động không hiệu quả có thể làm ảnh
hưởng đến toàn hệ thống ngân hàng. Đánh giá chủ trương tái cơ cấu, lành mạnh hóa hệ
thống ngân hàng, đặc biệt là cho phép sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các ngân hàng
thương mại cổ phần, có thể thấy đây là một cách đi đúng hướng, phù hợp với xu thế của
ngành ngân hàng ở các nước đang phát triển. Đây cũng là hướng giải quyết phổ biến của

nhiều nước Châu Á cũng đang đối mặt với tình trạng thừa thãi về số lượng ngân hàng
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 12
trong nước như Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia....
2.2.2 THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG M&A TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.2.2.1 Các giao dịch là tiền đề cho hoạt động M&A ngân hàng
Một ví dụ tiêu biểu cho lời nhận định trên là việc Tổng Công ty Bưu chính Việt
Nam (VnPost) góp vốn vào Ngân hàng TMCP Liên Việt (LienViet Bank) bằng giá trị
của Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện. Đây là thương vụ góp vốn đầu tiên trong lĩnh
vực tài chính – ngân hàng Việt Nam khi một Tổng Công ty Nhà nước góp vốn vào một
doanh nghiệp cổ phần bằng cả tiền và cả giá trị của một công ty và bằng tiền mặt.
Thương vụ sáp nhập đầu tiên trong lĩnh vực ngân hàng này đem đến lợi ích cho
cả bốn bên: người dân, xã hội, VnPost, LienViet Bank. Thứ nhất, VnPost sẽ được tham
gia hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng (có thể thực hiện việc cho vay so với chỉ có thể
huy động vốn như trước đây). Thứ hai, LiênViet Bank tăng thêm vốn điều lệ và quan
trọng hơn là mở rộng được mạng lưới giao dịch đến tận vùng sâu vùng xa, trở thành
ngân hàng có số lượng điểm giao dịch lớn nhất nước. Thứ ba, về phía người dân, qua vụ
sáp nhập này, khách hàng không chỉ được hưởng mức lãi suất cạnh tranh trên thị trường
mà còn được sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại mà hệ thống tiết kiệm
bưu điện trước đây không được phép cung cấp như: Các dịch vụ Tiết kiệm có kỳ hạn,
Dịch vụ Tiết kiệm cá nhân, Dịch vụ Chuyển tiền, Dịch vụ Nhờ thu, Dịch vụ Nhờ trả,…
Về phía xã hội, với hệ thống điểm giao dịch rộng khắp, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt
sẽ chung tay cùng Ngân hàng phát triển Nông nghiệp và nông thôn, Ngân hàng Chính
sách xã hội phục vụ người dân, đặc biệt là người nông dân, bà con dân tộc ở các vùng
sâu, vùng xa một cách tốt hơn.
Với những lợi ích từ cuộc “se duyên” giữa VnPost và LienViet Bank, tin rằng các
vụ mua lại và sáp nhập trong hệ thống ngân hàng sẽ sớm trở thành một xu hướng mới ở
Việt Nam.
2.2.2.2 Những giao dịch sáp nhập, mua lại trong lĩnh vực ngân hàng

Nhiều bất cập của hệ thống ngân hàng được bộc lộ trong thời gian qua, thanh
khoản yếu kém cùng với tình hình nợ xấu cao có nguy cơ gây rủi ro đến an toàn hệ
thống khiến việc tái cơ cấu, cải tổ toàn bộ hệ thống tài chính, trong đó quan trọng nhất
là hệ thống ngân hàng đã trở thành vấn đề cấp bách và khó có thể trì hoãn lâu hơn nữa.
NHNN cũng thể hiện mong muốn tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thông qua nhiều chính
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 13
sách quan trọng trong năm 2011 để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu. Áp lực sáp nhập
ngân hàng dự kiến lên đến đỉnh điểm vào cuối năm nay và đầu năm 2012 khi nhiều ngân
hàng gặp khó khăn trầm trọng về thanh khoản đang rất cần tiền để trả nợ. NHNN cũng
đã có sẵn hành lang pháp lý dành cho các hoạt động phá sản, sáp nhập ngân hàng thông
qua việc ban hành Thông tư 34/2011/TT-NHNN về trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép và
thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng. Như vậy, sự yếu kém trong nội tại ngân hàng dẫn
đến áp lực phải tái cơ cấu đang đặt ra thách thức cho các tổ chức này trước 2 lựa chọn
hoặc phải tìm đối tác sáp nhập để nâng cao năng lực tài chính hoặc chấp nhận giải thể.
Trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, thực tế cho thấy, khi kinh tế phát triển
ngoài tầm kiểm soát, cơ cấu phức tạp và khó hệ thống hóa, thì nhu cầu cấp thiết cần đặt
ra với Chính phủ mỗi quốc gia là phải tái cơ cấu nền kinh tế. Lúc này, mua bán sáp nhập
doanh nghiệp (M&A) được coi là giải pháp cứu cánh hữu hiệu cho tái cấu trúc nền kinh
tế, trong đó tái cấu trúc hệ thống tài chính ngân hàng được quan tâm hơn cả.
Trong năm 2011, với sự tham gia của một số quỹ đầu tư và các ngân hàng nước
ngoài, một số ngân hàng Việt Nam đã thực hiện thành công việc mua bán cổ phần của
mình, giúp tăng nguồn vốn kinh doanh và cải thiện tình hình quản trị và ứng dụng công
nghệ, điển hình như: Standard Chartered và ACB, Ngân hàng Hồng Kông và Thượng
Hải (HSBC) và Techcombank, OCBC và VPBank, Deutsche Bank và Habubank, Ngân
hàng Singapore (UOB) và Ngân hàng TMCP Phương Nam (PNB), Maybank và
ABBank...
Sau LienVietBank và Tiết kiệm Bưu điện (VPSC), sự kiện sáp nhập của 3 ngân
hàng Ngân hàng TMCP Đệ Nhất (Ficombank), Ngân hàng TMCP Sài Gòn ( SCB) và
Ngân hàng TMCP Tín nghĩa (Tinnghiabank) dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam (BIDV) với vai trò là đại diện vốn Nhà nước tại ngân hàng mới sau
sáp nhập là thương vụ sáp nhập thứ 2 của ngành ngân hàng nhưng là thương vụ đầu tiên
nằm trong lộ trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam do NHNN đặt ra. Sau sáp
nhập, ngân hàng mới được thành lập sẽ có tổng tài sản ước trên 150.000 tỷ đồng với quy
mô vốn điều lệ khoảng 10.600 tỷ đồng và trên 200 đơn vị chi nhánh, phòng giao dịch.
Theo đó, quy mô vốn điều lệ của ngân hàng mới sáp nhập sẽ tương đương với
Eximbank và lớn hơn so với 1 số ngân hàng thương mại cổ phần lớn trong nước như
ACB, MB, Sacombank và Techcombank. Như vậy, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ngoài
việc tạo ra áp lực phải sáp nhập hoặc giải thể đối với các ngân hàng yếu kém, quá trình
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 14
này cũng tạo ra những ngân hàng mới sau sáp nhập và có thể sẽ trở thành thách thức
cạnh tranh mới cho các ngân hàng lớn trong tương lai.
Gần đây Ngân hàng Nhà nước đã chính thức công bố quyết định chấp thuận việc
sáp nhập Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank) vào Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội
(SHB).Sau sáp nhập, SHB “mới” sẽ có vốn điều lệ là 8.865,79 tỷ đồng; tổng tài sản đạt
100.000 tỷ đồng với tổng số nhân viên lên tới 5.000 người tại 54 chi nhánh và 150
phòng giao dịch.
Nếu SHB lập quỹ dự phòng cho cả các khoản lỗ của HBB thì vốn chủ sở hữu của
ngân hàng mới Sahabank sẽ giảm xuống còn 5.872 tỷ đồng, mức thấp hơn vốn điều lệ.
Trên thực tế, SBV đã cho phép SHB lập quỹ dự phòng cho các khoản lỗ lũy kế của
HBB trong vòng 5 năm nếu SHB có thể huy động được nguồn vốn mới trong vài năm
tới.
HBB hiện vẫn chưa công bố kết quả kinh doanh quý 2/2012. Tuy nhiên, theo báo
cáo kiểm toán của HBB trước khi sáp nhập, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng đã lên tới
16,06% tổng dự nợ vào cuối tháng 2/2012. Tuy nhiên, theo báo cáo đánh giá của SBV,
con số này có thể đã lên tới 32,06% nếu tính cả các rủi ro tín dụng.
Theo đánh giá của SSIResearch, các vấn đề tồn tại xung quanh vụ sáp nhập này
bao gồm:
- Tỷ lệ nợ khó đòi của ngân hàng mới khó xác định

- Mức độ hỗ trợ của SBV hiện vẫn chưa rõ ràng
- Trong vài năm tới, SHB có thể sẽ cần bổ sung nguồn vốn nhằm giải quyết vấn
đề nợ xấu và đạt được các yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn
- Khả năng lãnh đạo của SHB với ngân hàng lớn
Được biết, trong bản báo cáo ra ngày 9/7 vừa qua, Moody's vẫn giữ nguyên định
mức B2 đối với tiền gửi và tổ chức phát hành nợ và xếp hạng sức mạnh độc lập tài
chính (BFSR) của SHB vẫn ở mức E +.
Tuy nhiên, hãng này đã hạ triển vọng của ngân hàng xuống mức 'tiêu cực".
Nguyên nhân là do những bất ổn xung quanh việc SHB sát nhập với Habubank, đặc biệt
là khi xét đến chất lượng tài sản khi 2 ngân hàng này đã sát nhập và khả năng liệu lợi
nhuận có đủ để đáp ứng khoản dự phòng cần thiết do chất lượng các khoản vay của
ngân hàng Habubank khá yếu.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 15
Trước khi sáp nhập, Habubank đang lâm vào tình trạng thanh khoản kém và tỷ lệ
nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng từ vụ Vinashin. Việc sáp nhập thành công sẽ mang lại
hiệu ứng tích cực giúp tăng niềm tin vào hệ thống ngân hàng Việt Nam và mở đường
cho những thương vụ tái cấu trúc khác trong hệ thống. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước
đóng vai trò cực kỳ quan trọng đảm bảo thành công trong quá trình tái cấu trúc này.
Theo SSIResearch, với sự hỗ trợ của SBV và Bộ Tài Chính, tỷ lệ lãi biên của ngân hàng
mới Sahabank có thể sẽ tăng, bên cạnh đó, ngân hàng này có thể sẽ lại được tiếp cận với
nguồn vốn mới.
Ngay trong ngày giao dịch đầu tiên sau khi tiến hành sáp nhập (17/8), HNX cho
biết có thể sẽ tăng biên độ của SHB lên +/- 30% từ ngưỡng +/- 7% hiện tại nhằm phản
ánh giá trị thị trường mới của SHB sau khi tiến hành sáp nhập với HBB Ngoài HDBank.
Tính đến nay, đã có trên dưới 10 ngân hàng tuyên bố sẽ tiến hành M&A, nếu tìm
được đối tác thích hợp.
2.2.4 Đánh giá tình hình hoạt động M&A trong ngành ngân hàng tại
Việt Nam
 Phân chia lại miếng bánh thị phần cho ngân hàng lớn:

Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế bao gồm tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng và tái cơ cấu đầu tư công dự kiến sẽ diễn ra mạnh mẽ trong
những năm tới. Quá trình này vừa là thách thức những cũng tạo ra không ít cơ hội cho
việc thâu tóm tài sản giá rẻ, đa dạng hóa đầu tư của các ngân hàng có tình hình tài chính
lành mạnh.
Thách thức bị mua bán sáp nhập của ngân hàng yếu kém cũng chính là cơ hội cho
các ngân hàng lớn trong nước tham gia thâu tóm các ngân hàng khác để nâng cao tiềm
lực tài chính và nhanh chóng mở rộng mạng lưới hoạt động, quy mô khách hàng.
 Cơ hội cho NH nhỏ phát triển đúng thế mạnh:
Mặt khác, quá trình tái cơ cấu cũng có thể là yếu tố tích cực với các ngân hàng
nhỏ nếu xét trên khía cạnh NHNN đưa họ trở về đúng thị trường và lĩnh vực kinh doanh
mà họ có vốn lợi thế. Thị trường hiện nay ít có sự phân biệt rõ ràng giữa các ngân hàng
yếu kém và ngân hàng nhỏ. Do đó, khi các ngân hàng nhỏ thực sự phát huy được thế
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 16
mạnh trong đúng lĩnh vực kinh doanh của mình thay vì đầu tư dàn trải chạy đua phát
triển những sản phẩm tương tự nhau như trên thị trường, thì đây chính là cơ hội để
khẳng định tên tuổi và trụ vững trong cuộc chiến tái cơ cấu toàn hệ thống của các ngân
hàng này.
2.2.5 Những lợi ích đạt được từ hoạt động M&A ngân hàng Việt Nam
Mặc dù, hoạt động M&A các ngân hàng thương mại ở Việt Nam diễn ra
không quá rầm rộ do những đặc trưng kể trên, nhưng các giao dịch M&A trong thời
gian qua cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định:
- Góp phần làm lành mạnh hóa hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần góp
phần thực hiện chủ trương củng cố, sắp xếp lại ngành ngân hàng của Chính Phủ.
Từ khi bắt đầu đề án cơ cấu lại năm 2001 cho đến nay, số lượng các Ngân hàng
thương mại cổ phần giảm từ 50 ngân hàng xuống còn 36 ngân hàng thương mại cổ phần
bao gồm sáp nhập và rút giấy phép hoạt động. Các ngân hàng thương mại cổ phần hoạt
động quá kém hiệu quả tránh được nguy cơ phá sản và nguy cơ đỗ vỡ hệ thống.
- Các ngân hàng thực hiện việc sáp nhập giảm bớt được chi phí đầu tư, và xây dựng

chi nhánh, mạng lưới khách hàng của ngân hàng bị sáp nhập nên dễ dàng gia nhập vào
thị trường mới. Điển hình, là các Ngân hàng TMCP Phương Nam, Ngân hàng TMCP
Đông Á sau hàng loạt các giao dịch sáp nhập và hợp nhất đã có được mạng lưới chi
nhánh rộng khắp, đặc biệt là ở các tỉnh.
- Việc bán cổ phần của các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước cho các tập
đoàn ngân hàng lớn của nước ngoài không chỉ giúp nâng cao năng lực tài chính, nâng
cao uy tín quốc tế, thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị phần mà các đối tác nước
ngoài còn trợ giúp cho các ngân hàng trong nước về mặt kỹ thuật, công nghệ, quản trị
ngân hàng.
- Các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước cũng đang có xu hướng bán cổ
phần cho các nhà đầu tư trong nước là các tổ chức phi tài chính, và các tổ chức tài chính
ngân hàng để nâng vốn điều lệ, thực hiện liên kết, liên danh trên tất cả các lĩnh vực, và
là một trong những dấu hiệu đầu tiên của hoạt động M&A giữa các ngân hàng
thương mại trong nước và thành lập các tập đoàn tài chính ngân hàng trong tương lai.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình khẳng định: “Tái cơ cấu ngân
hàng sẽ là cơ hội thuận lợi để đẩy nhanh quá trình tích tụ tài sản, tăng quy mô tài chính
và hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) thông qua các hoạt động sáp nhập, hợp
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 17
nhất. Trên thực tế, thời gian qua, nhiều nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đã bày tỏ
nguyện vọng và cam kết đầu tư vào các TCTD Việt Nam, kể cả các ngân hàng thương
mại cổ phần yếu kém”.
2.2.6 Những mặt hạn chế.
Hoạt động M&A ở nước ta diễn ra có những đặc trưng riêng, nên còn có rất nhiều
những tồn tại cần được giải quyết
Các vụ mua bán sáp nhập ở nước ta còn khá khiêm tốn so với các nựớc trong khu
vực cùng thời kỳ. Bên cạnh đó, hoạt động mua bán của các Ngân hàng thương mại trong
nước diễn ra theo xu hướng các ngân hàng lành mạnh, đang trên đà phát triển hợp nhất
hoặc sáp nhập với tổ chức tín dụng có nguy cơ phá sản, hầu hết các giao dịch M&A đều
do sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước chứ không phải là do tự nguyện. Giá trị giao

dịch nhỏ, thông tin xung quanh các vụ giao dịch đều được bảo mật rất khó cho việc học
hỏi kinh nghiệm. Vì vậy, bản chất của các hoạt động M&A chỉ là giải pháp để cứu vãn
các ngân hàng đang nguy kịch, tránh sự đổ vỡ hệ thống ngân hàng theo mục tiêu củng
cố, lành mạnh hóa các ngân hàng thương mại.
Chính vì lý do của hoạt động M&A trên, mà thực tế sáp nhập, hợp nhất của các
ngân hàng cũng đã diễn ra “ đụng độ” nhiều mặt giữa các ngân hàng khi tiến hành hoạt
động này.
- Về quyền lợi giữa các nhóm cổ đông của ngân hàng sáp nhập và ngân hàng bị
sáp nhập ví dụ như hoạt động M&A diễn ra giữa Ngân hàng TMCP Phương Nam và
Ngân hàng TMCP Nông thôn Cái Sắn vào năm 2002. Mặc dù đề án đã được
chấp thuận từ phía cơ quan quản lý là Nhà nước nhưng việc mua lại này đã phải kéo dài
khoảng thời gian 2 năm .
- Về vấn đề văn hóa, đó là mâu thuẫn rất lớn ở hầu hết trong các hoạt động
M&A. Do không có sự hoà hợp giữa các nền văn hóa của các ngân hàng với nhau.
Điều này phải cần đến thời gian mới giải quyết được.
- Về hành lang pháp lý: hoạt động M&A còn khá mới mẻ ở Việt Nam nói
chung, và ở lĩnh vực ngân hàng nói riêng nên chưa có luật pháp chính thức điều
chỉnh hoạt động M&A ở Việt Nam.
Đến nay, vẫn chưa có các giao dịch M&A giữa các ngân hàng hoạt động lành
mạnh với nhau cũng như không có các hoạt động sáp nhập xuyên biên nên bản chất thực
sự của hoạt động M&A vẫn chưa được khai thác triệt để đó là sự hợp lực, sự cộng
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 18
hưởng về hoạt động tài chính, công nghệ, thị trường, nhân sự....giảm chi phí nhờ quy
mô như là động lực giúp khai thác kinh tế một cách hiệu quả thị trường tài chính.
Nguyên nhân là do nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua vẫn chưa thực sự cho mở
cửa thị trường tài chính, các ngân hàng TMCP trong nước còn thụ động, chưa hiểu biết
hết các giao dịch M&A, cũng như thiếu kinh nghiệm, tư duy và tầm nhìn về hoạt động
M&A đang diễn ra sôi nổi ở các nước trên thế giới.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7

Quản trị Ngân hàng Thương mại 19
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG M&A
3.1 DỰ ĐOÁN XU HƯỚNG CỦA HOẠT ĐỘNG M&A TRONG
LĨNH VỰC NGÂN HÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1 Những nhân tố góp phần thúc đẩy hoạt động sáp nhập và mua lại ngân
hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh tế Việt Nam đang được đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
việc thực thi các hiệp định tự do hóa thương mại, mở cửa lĩnh vực tài chính ngân hàng
đang đến gần. Thời kỳ “sàng lọc” các ngân hàng đang đến, rất nhiều khó khăn trên thị
trường tiền tệ- tín dụng, các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ đang gặp rất nhiều khó
khăn trong vấn đề quản trị thanh khoản và điều hành kinh doanh trong tình hình thị
trường tiền tệ đang ngày càng phức tạp do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và
tình hình lạm phát gia tăng trong nước. Nhiều chính sách thắt chặt tiền tệ được đưa ra
khiến hoạt động của hệ thống ngân hàng trong nước càng khó khăn. Ngành công nghiệp
ngân hàng trong nước sẽ đối mặt với sự cạnh tranh, được đánh giá là sẽ “gây cấn” nhất
trong lịch sử. Đây là mảnh đất tiềm năng cho hoạt động M&A bắt đầu.
- Thị trường ngày càng xuất hiện thêm nhiều ngân hàng mới, không chỉ có các tập
đoàn tài chính, mà ngay cả những lĩnh vực sản xuất như dệt may (Tập đoàn
Vinatex), viễn thông (VNPT), bảo hiểm, năng lượng… cũng lên kế hoạch thành lập
ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận về nguyên tắc cho
HSBC và Standard Chartered thành lập hai ngân hàng con 100% vốn và có nhiều hồ
sơ của ngân hàng nước ngoài xin thành lập ngân hàng đang chờ được duyệt.
- Các ngân hàng thương mại lớn đang sở hữu một phần vốn điều lệ của các ngân
hàng cổ phần, hoặc thông qua hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng với nhau
để tận dụng các thế mạnh của nhau. Đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh
đang tìm cách có cổ phần ở các ngân hàng thương mại chuẩn bị cho các cuộc sáp nhập
tập đoàn. Ví như, Vietcombank đang có cổ phần trong 10 ngân hàng GiaDinh Bank,
Eximbank,VIBBank,OCB,…

- Các tập đoàn tài chính nước ngoài đang tìm cách trở thành đối tác chiến lược của
các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước đang được chiếm ưu thế. Vì so với thủ
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 20
tục xin thành lập một ngân hàng con 100% vốn ngoại thì việc mua lại một tỷ lệ cổ phần
của ngân hàng trong nước được thực hiện dễ dàng hơn.
- Chủ trương của Ngân hàng Nhà nước là hạn chế việc thành lập các ngân
hàng mới, thay vào đó là việc sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng trong nước
với nhau, các định chế tài chính khác như công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công
ty đầu tư tài chính, công ty thẻ.......hình thành tập đoàn tài chính lớn để tránh đỗ vỡ,
cạnh tranh và tránh được cú sốc không mong muốn. Thực tế, Nhà nước sẽ cho phép
thành lập một tập đoàn tài chính ngân hàng đầu tiên từ việc cổ phần hóa một ngân hàng
thương mại quốc doanh .
Những nhân tố, những động cơ được nghiên cứu ở trên là cơ sở lý luận dựa trên
đúc kết các hiện tượng thực tiễn để tác giả khóa luận có thể dự đoán được xu hướng của
hoạt động M&A ngân hàng trong thời gian tới.
3.1.2 Các hình thức sáp nhập và mua lại ngân hàng thương mại Việt
Nam trong thời gian tới
3.1.2.1 Các ngân hàng nhỏ sẽ “bắt tay” với các ngân hàng nhỏ
Theo thống kê hiện nay, trong số 39 ngân hàng Thương Mại Cổ Phần (NHTM)
đang hoạt động thì có tới 24 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 3000 tỷ đồng. Trong đó có
15 ngân hàng có vốn dưới 2.000 tỉ đồng và 8 ngân hàng có vốn quanh mức 1.000 tỉ
đồng. Như vậy, lượng ngân hàng có vốn điều lệ dưới 3000 tỷ đồng chiếm tỷ lệ lớn trong
các NHTM đang hoạt động trên thị trường. Các ngân hàng nhỏ ở Việt Nam vẫn còn tồn
tại và có đất sống bởi lẻ nó có thị trường riêng, những phân khúc thị trường mà các ngân
hàng lớn hơn và các ngân hàng khác bỏ qua hoặc chưa có điều kiện đáp ứng được. Sự
tồn tại của các ngân hàng nhỏ là cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng cũng
như khai thác triệt để các khe hở của thị trường.
Tuy nhiên, với điều kiện nền kinh tế có nhiều bất ổn như hiện nay, các ngân hàng
nhỏ đã bắt đầu bộc lộ những lúng túng trong cách quản trị điều hành và những yếu kém

trong vấn đề thanh khoản. Để nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh buộc các
ngân hàng phải nghĩ đến việc liên kết thành một khối.
 Hình thức liên kết, sáp nhập các ngân hàng nhỏ có thể được thực hiện
như sau:
- Thành lập các liên hiệp ngân hàng gồm 3-5 ngân hàng nhỏ: vẫn duy trì tư cách
pháp nhân riêng của từng ngân hàng, chỉ thành lập hội đồng tín dụng thống nhất, chính
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 21
sách tín dụng thống nhất, đường lối chiến lược thống nhất, sáp nhập các
bộ phận dịch vụ, hệ thống thanh toán thẻ, tiếp thị, quảng cáo, thông tin……
- Sau giai đoạn đầu, khi các ngân hàng đạt đến mức độ “hòa hợp” các ngân hàng sẽ
tiến tới sáp nhập hoàn toàn thành một khối thống nhất hình thành một pháp nhân mới.
 Những ưu điểm và những khó khăn khi thực hiện:
- Ưu điểm:
Các ngân hàng nhỏ có chiến lược kinh doanh, phương pháp quản lý tương đồng,
đối tượng khách hàng có đặc điểm giống nhau…ban đầu có sự liên kết sẽ cho phép các
ngân hàng nhỏ vẫn tiếp tục tự chủ phát huy thế mạnh của mình bằng cách khai thác đối
tượng khách hàng truyền thống đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh và đa
dạng hóa sản phẩm bằng cách liên minh, liên kết với các ngân hàng nhỏ khác. Sau một
thời gian, các ngân hàng nhỏ tiến hành sáp nhập thành một pháp nhân mới sẽ tiết
kiệm được nhiều chi phí và tránh tình trạng “cú sốc” văn hóa giữa các ngân hàng với
nhau.
- Giá trị cộng hưởng sau giao dịch M&A:
+ Giá trị cộng hưởng hoạt động: lợi thế kinh tế nhờ quy mô, tiết kiệm được chi
phí do loại trừ được những yếu tố trùng lắp như giảm bớt số lượng các chi nhánh, nhân
sự, đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao chất lượng phục vụ.
+ Giá trị cộng hưởng tài chính: Tăng cường tính thanh khoản do tăng vốn điều lệ,
nguồn huy động, và đặc biệt là năng lực cho vay các dự án lớn, góp vốn mua cổ phần
vào các doanh nghiệp, đầu tư nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới mà vẫn đảm bảo
theo tỷ lệ an toàn vốn theo quy định.

- Những khó khăn khi thực hiện:
Mô hình này sẽ khó thực hiện bởi tâm lý sợ sự thay đổi của các nhà quản trị ngân
hàng và vì vấn đề phân chia lợi ích khi liên kết với các ngân hàng nhỏ cùng cấp.
Các ngân hàng nhỏ sáp nhập với nhau không có yếu tố “cú hích kỹ thuật” từ các
ngân hàng lớn hơn, do các ngân hàng nhỏ cơ sở kỹ thuật như nhau và không có điểm nổi
trội nên phải tốn thời gian và chi phí cho hoạt động R&D và tìm chiến lược kinh
doanh mới, quản lý mới cho ngân hàng sau sáp nhập.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 22
3.1.2.2 Ngân hàng lớn sáp nhập và mua lại ngân hàng nhỏ
Đây sẽ là xu hướng sẽ có nhiều khả năng xảy ra nhất trong giai đoạn sắp tới, khi
các ngân hàng nhỏ bị “đuối” trong điều kiện kinh tế khắt nghiệt như hiện nay và trong
thời gian sắp tới. Các ngân hàng lớn cũng đang ngấm ngầm chạy đua chuẩn bị chiến
lược mua lại các ngân hàng nhỏ hơn để mở rộng thị trường.
‹ Hình thức sáp nhập các ngân hàng lớn với các ngân hàng nhỏ diễn ra như sau:
+ Giai đoạn đầu, các ngân hàng lớn sẽ tham gia góp vốn, liên doanh, liên kết và trở
thành cổ đông chiến lược với các ngân hàng nhỏ hơn.
+ Giai đoạn tiếp theo, các ngân hàng lớn sẽ tiến hành sáp nhập, mua lại các
ngân hàng nhỏ hơn .
‹ Những ưu điểm và những khó khăn khi thực hiện:
- Ưu điểm
Các ngân hàng lớn trước hết sẽ trở thành cổ đông chiến lược trong các ngân hàng
nhỏ hơn để nâng cao năng lực điều hành và tài chính đồng thời trợ giúp kỹ thuật trong
các lĩnh vực như quản trị ngân hàng, dịch vụ ngân hàng bán lẻ, bán buôn, quản lý
rủi ro, công nghệ thông tin và nguồn nhân lực. Vì các ngân hàng nhỏ vẫn còn đất sống
và phát triển, chưa khai thác hết tiềm năng cũng như lợi thế của mình thì các ngân hàng
lớn sẽ chưa tính đến việc sáp nhập hay mua lại. Các ngân hàng lớn sẽ nghĩ đến việc
mua lại, sáp nhập khi các ngân hàng nhỏ không còn nguồn lực để khai thác thị
trường cũng như tiềm năng của mình.
- Giá trị cộng hưởng sau hoạt động M&A

+ Giá trị cộng hưởng hoạt động: Khả năng làm giá lớn hơn xuất phát từ việc giảm
bớt cạnh tranh và nâng cao thị phần, dẫn tới thu nhập từ hoạt động và lợi nhuận
cao hơn. Đặc biệt, các ngân hàng lớn có được nguồn khách hàng, các chi
nhánh, nhân sự ở những phân đoạn thị trường mà các ngân hàng nhỏ đã xây dựng.
+ Giá trị cộng hưởng tài chính: thể hiện dưới dạng luồng tiền lớn hơn và chi phí huy
động vốn thấp hơn hoặc cả hai. Cụ thể, có thể khai thác nguồn tiền gửi dư thừa từ các
ngân hàng nhỏ để thực hiện các dự án cho vay của mình, đồng thời ngược lại,
ngân hàng lớn sẽ đầu tư vào các dự án mà các ngân hàng nhỏ không đủ vốn để đầu tư
hoặc bị khống chế các tỷ lệ an toàn về vốn của Ngân hàng Nhà Nước.
Các ngân hàng lớn tiến hành mua các ngân hàng nhỏ vì các lợi ích về
thuế , ví dụ các ngân hàng lớn tận dụng các lợi thế về thuế để ghi tăng tài sản của ngân
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 23
hàng bị mua hoặc sử dụng được khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh thuần để giảm bớt
thu nhập. Các ngân hàng có lãi mua một ngân hàng đang thua lỗ để giảm bớt gánh nặng
về thuế, hoặc tăng mức khấu hao tài sản nhờ đó tiết kiệm chi phí thuế và tăng giá trị
doanh nghiệp.
- Những khó khăn khi thực hiện:
Các ngân hàng nhỏ và các ngân hàng lớn có những dòng sản phẩm khác
nhau, phân khúc thị trường không đồng nhất, văn hóa làm việc khác nhau, việc về sống
“chung dưới một mái nhà” giai đoạn đầu sẽ rất khó khăn để tạo ra sự hòa hợp
và đạt được những giá trị như mong muốn.
3.1.2.3 Các ngân hàng cùng quy mô (lớn, trung bình) và cùng chiến lược phát
triển sáp nhập với nhau
Theo mô hình này, các ngân hàng cùng quy mô ( trung bình, lớn) sẽ bắt tay hợp
tác với nhau, xu hướng này đã xảy ra ở các nước Châu Mỹ, Châu Âu, và hiện nay bắt
đầu ở Châu Á. Khi mà thị trường tài chính ngân hàng đạt được mức phát triển tương đối
ổn định, các nguồn lực được khai thác một cách tương đối toàn diện thì xu hướng sáp
nhập các ngân hàng cùng quy mô xảy ra.
‹ Các ngân hàng cùng quy mô, cùng chiến lược phát triển trong hoạt động sáp

nhập M&A được thực hiện như sau:
+ Giữ cổ phiếu chéo với nhau thông qua hoạt động góp vốn liên doanh, đầu tư
mua cổ phần và hợp tác liên kết trong nhiều lĩnh vực như tín dụng, sản phẩm thẻ, công
nghệ thông tin….
+ Tiến hành sáp nhập các ngân hàng với nhau để hình thành các ngân
hàng mạnh hơn.
‹ Những ưu điểm và những khó khăn khi thực hiện này:
- Ưu điểm
Sản phẩm của các ngân hàng này khá đồng nhất, văn hóa và quy trình làm việc
tương đồng, việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng giống nhau nên việc sáp nhập các
ngân hàng cùng quy mô sẽ thuận lợi, tốn ít thời gian và chi phí cho hoạt động sáp nhập.
* Giá trị cộng hưởng sau hoạt động M&A
+ Giá trị cộng hưởng hoạt động: Tiết kiệm được chi phí nhờ tăng quy mô do cắt
giảm được các yếu tố trùng lắp như mạng lưới chi nhánh như hiện nay, cắt giảm chi phí,
do giảm nhân sự, tập trung nguồn lực cho nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ, xây
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 24
dựng thương hiệu, đào tạo nguồn nhân lực tốt hơn. Tăng cường khả năng khai thác thị
trường, bành trướng và tập trung quyền lực.
+ Giá trị cộng hưởng tài chính: Tăng lợi thế về quy mô do đó tăng cường khả
năng đầu tư vào các dự án lớn, nguồn tài chính dồi dào từ nguồn vốn tự có và khả năng
khai thác thị trường lớn từ đó tăng cường tính cạnh tranh, tính linh hoạt và năng
động, phản ứng kịp thời với những thay đổi của thị trường.
- Những khó khăn khi thực hiện
Mô hình này có khả năng thực hiện, khi nền tài chính phát triển khá cao và ổn
định. Các nguồn lực được khai thác triệt để, thị trường đã khai thác hiệu quả và đạt đến
mức bảo hòa cần có sự sáp nhập của các ngân hàng để giảm chi phí hoặc tăng cường
khả năng bành trướng sang những thị trường mới hơn để khai thác.
Việc ngồi vào bàn đàm phán cho hoạt động sáp nhập ngân hàng giữa các nhà
quản trị và điều hành sẽ khó khăn hơn do ai cũng có thế mạnh của mình và không muốn

đánh mất vị trí hiện tại.
3.1.2.4 Sáp nhập xuyên biên giữa các tổ chức tài chính nước ngoài với
các ngân hàng trong nước
Trong giai đoạn vừa qua, một số các ngân hàng nước ngoài đã mua cổ phần của
các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước để trở thành cổ đông chiến lược, điều
này hoàn toàn phù hợp với xu hướng quốc tế. Các nước trong khu vực như Ấn Độ, Đài
Loan, Hàn Quốc, Indonesia, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan đều đã bước giai vào giai
đoạn thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp thông qua hình thức các ngân hàng nước ngoài
mua phần lớn cổ phần của các ngân hàng trong nước, trong đó Indonesia, Hàn
Quốc, Thái Lan đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ 100% cổ phiếu
của các ngân hàng trong nước, Philippines là 50% và Malaysia là 30%. Các quốc gia
này khẳng định sự ảnh hưởng tích cực đối với sự đóng góp của các ngân hàng nước
ngoài, tuy nhiên ngân hàng trong nước vẫn là hạt nhân cho sự phát triển một nền tài
chính ổn định bởi các ngân hàng trong nước sẽ thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ
của quốc gia, các ngân hàng nước ngoài chỉ vì một mục đích duy nhất là tìm kiếm lợi
nhuận một cách cao nhất. Để tự do hóa tài chính hoàn toàn, chỉ có một phương pháp
duy nhất là các ngân hàng trong nước phải chiếm phần lớn các thị trường trong
nước và đủ mạnh để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, thông qua một con
đường duy nhất là hợp nhất các ngân hàng trong nước lại với nhau.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7
Quản trị Ngân hàng Thương mại 25
Trong bối cảnh tự do hóa tài chính theo lộ trình của WTO, Việt Nam cũng sẽ
không tránh khỏi sự cạnh tranh khốc liệt đó và xu hướng sáp nhập xuyên biên là kết quả
tất yếu bởi vì các ngân hàng nước ngoài ưu chuộng việc mua lại các ngân hàng trong
nước thay vì thành lập ngân hàng mới để tiết kiệm chi phí và thời gian gia nhập thị
trường khi luật pháp Việt Nam cho phép.
‹ Hình thức sáp nhập xuyên biên được thực hiện như sau:
+ Trở thành cổ đông chiến lược của các ngân hàng trong nước theo tỷ lệ tối đa
mà Nhà nước Việt Nam khống chế.
+ Tiến hành mua đứt các ngân hàng trong nước khi lộ trình tự do hóa được mở

ra hoàn toàn.
‹ Những ưu điểm và những khó khăn khi thực hiện mô hình này:
- Ưu điểm
Các ngân hàng nước ngoài tiến hành mua đứt các ngân hàng trong nước sẽ tận
dụng được nguồn lực sẵn có của các ngân hàng trong nước như sản phẩm, thị trưởng
sẵn có, cơ sở vật chất sẵn có. Các ngân hàng nước ngoài sẽ đỡ tốn thời gian để có được
giấy phép thành lập ngân hàng, đỡ tốn chi phí tiếp thị, tìm kiếm thị trường. Thay
vào đó, sẽ thay thế cách quản lý mới, phong cách phục vụ mới, quy trình mới hiệu quả,
ứng dụng các thành tựu công nghệ, kỹ thuật.
Đối với thị trường tài chính trong nước, các ngân hàng nhỏ hoạt động kém hiệu
quả sẽ được các ngân hàng nước ngoài mua lại, tái cơ cấu lại hoạt động và tài chính,
nâng cao chất lượng phục vụ, chuyên nghiệp hơn, có mạng lưới toàn cầu, đa dạng hóa
sản phẩm phục vụ nhu cầu đa dạng của thị trường nội địa. Đặc biệt, hoạt động sáp nhập
xuyên biên sẽ là một cứu cánh cho hệ thống ngân hàng trong nước tránh tình trạng vỡ
nợ và phá sản hàng loạt trong tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra, tạo ra sân
chơi cạnh tranh, buộc các ngân hàng trong nước không còn tâm lý ỷ lại mà phải liên tục
cải tiến hoàn thiện mình nếu không muốn bị thâu tóm.
- Những khó khăn khi thực hiện
Sáp nhập xuyên biên sẽ có trở ngại lớn nhất là văn hóa làm việc khác nhau sẽ
khiến cho các nhân viên bị xáo trộn đồng thời các khách hàng truyền thống sẽ khó thích
ứng ngay với phong cách phục vụ mới, quy trình mới.
Sự thay đổi chính sách vĩ mô của chính phủ đối với hoạt động của các ngân hàng
nước ngoài nói riêng và các chính sách tài chính tiền tệ nói chung.
GVHD: Trần Thị Ngọc Bích Nhóm SVTH: Nhóm 7

×