Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

BỆNH HỌC PHẾ - ĐẠI TRƯỜNG (Kỳ 1) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.58 KB, 5 trang )

BỆNH HỌC PHẾ - ĐẠI TRƯỜNG
(Kỳ 1)
I. ĐẠI CƯƠNG
Bệnh học và điều trị bệnh Tạng Phế và Phủ Đại trường là phần khởi đầu
của chương thứ 2 của quyển bệnh học và điều trị. Chương này đề cập đến những
bệnh ở tất cả các Tạng Phủ gây bởi nội nhân (rối loạn tình chí), hoặc bởi những
nguyên nhân khác như ăn uống (ẩm thực), lao nhọc, phòng dục, bệnh nội thương
lâu ngày… trong chương này hoàn toàn không đề cập đến những bệnh do ngoại
nhân.
II. NHẮC LẠI CHỨC NĂNG SINH LÝ TẠNG PHẾ VÀ PHỦ ĐẠI
TRƯỜNG
A. DỰA TRÊN CƠ SỞ HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Theo YHCT, tạng Phế ứng với quẻ Đoài.
1. Quẻ Đoài tượng trưng cho ao, hồ nước:
- Tính chất của ao hồ tuy phẳng lặng nhưng cũng rất dễ dao động khi có
ngọn gió thổi qua. Do đó, tính chất của Phế cũng dễ bị tác động của nhân tố bên
ngoài, nên người xưa cho rằng Phế là 1 tạng rất non nớt “Phế vi kiều tạng”, rất dễ
cảm nhiễm ngoại tà.
- Tính chất của ao hồ là đem lại sự tươi mát để điều hòa sự hanh khô và
đem lại sự ấm áp để đối phó với cái lạnh lẽo của khí hậu. Do đó chức năng của
tạng Phế là điều hòa cho bên trong nhân thể. Sách Tố vấn, chương Linh lan bí điển
ghi: “Phế giả tướng phó chi quan, trị tiết xuất yên”, ý nói, Phế như là 1 người phụ
tá cho Vua làm công việc điều tiết.
- Nước hồ là dự trữ của đất để đối phó với khô hạn của thời tiết. Có nghĩa là
ao hồ luôn tạo được sự ẩm thấp cho đất thì mới đối phó được với sự khô hạn của
thời tiết. Ở đây, ý nói đến mối liên hệ giữa Phế (Quẻ Đoài tượng cho ao hồ) và Tỳ
(Quẻ Khôn tượng cho đất).
2. Quẻ Đoài thuộc chính Thu:
- Quẻ Đoài thuộc về chính Thu, cũng là mùa khô ráo, do đó vào mùa này,
các bệnh tật ở tạng Phế đều có thể xảy ra hay biến đổi rõ rệt.
Theo YHCT, phủ Đại trường ứng với quẻ Cấn.


- Quẻ cấn tượng trưng cho núi, tượng trưng cho sự bất động. Do đó, Phủ
Đại trường và tạng Phế cùng có 1 tính chất là yên tĩnh và biểu hiện cho sự yên tĩnh
(Lý/bên trong) là sự bất động(biểu/bên ngoài).
- Đặc điểm của ao, hồ nước là dễ xao động bởi gió, dễ bị khô cạn bởi nắng
nóng. Trong khi đó núi sẽ che chở cho ao, hồ nước. Ngăn được gió sẽ ngăn được
sự bốc hơi khô cạn. Đó cũng là cơ sở để người xưa diễn tả mối liên quan giữa Phế
và Đại trường.
B. DỰA TRÊN CƠ SỞ CỦA NỘI KINH
1. Phế thuộc tính Táo Kim, có liên quan hoặc biểu thị cụ thể bằng những
đặc điểm bên ngoài ở bì mao, tiếng khóc, tiếng ho, mũi, vị cay, sự buồn rầu. Thiên
Âm Dương ứng tượng đại luận viết: “Kỳ tại thiên vi táo, tại địa vị Kim, tại vi thể
vi bì mao, tại tạng vi Phế, tại ắc vi thanh, tại thanh vi khốc, tại biến động vi khái,
tại khiếu vi ti, tại Vị vi tân, tại chí vi ưu”.
2. Mọi thứ khí trong người đều do Phế chủ quản, trong đó cần chú ý đến
chính khí. Ở đây là chỉ nguồn năng lực hoạt động của cơ thể con người. Thiên Ngũ
tạng sinh thành thiên viết: “Chư khí giả giai thuộc vu Phế”. Tính của Phế là làm
cho khí trở nên sạch, làm cho khí giáng xuống “Phế khí túc giáng”. Chức năng này
của Phế có liên quan chặt chẽ đến cơ quan hô hấp. Ngoài ra, Phế không những là
nơi hội tụ của khí mà còn là nơi hội tụ của huyết mạch. Thiên Kinh mạch biệt luận
- sách Tố Vấn viết: “Mạch khí vu kinh, kinh khí quy vu Phế, Phế triều bách
mạch”.
3. Phế có chức năng điều hòa các tạng phủ khác, như 1 người tướng phò
giúp vua. Thiên Linh lan bí điển luận viết: “Phế giả tướng phó chi quan, trị tiết
xuất yên”.
4. Phế có chức năng thông điều thủy đạo, mà Phế là thượng nguồn, “Phế
chủ thông điều thủy đạo. Phế vi thủy chi thượng nguyên”.
5. Những vùng cơ thể và yếu tố tâm thần, tâm lý có liên quan đến tạng Phế.
- Mũi: Kim quỹ chân ngôn luận/Tố Vấn viết: “Khai khiếu ở tỵ, tàng tinh ở
Phế”. Linh khu mạch độ thiên: “Phế khí thông vu tỵ, Phế hòa tắc tỵ năng tri hương
xứ hỷ”. Ý nói tinh thần và khí của Phế mà đầy đủ thì mũi sẽ nhận biết được mùi

thơm thối.
- Da, lông: Lục tiết tạng tượng luận/Tố vấn: “Phế giả… kỳ ba tại mao”. Ý
nói sự tươi tốt của Phế sẽ biểu hiện ra ở da, lông.
- Hồn: Loại kinh tạng/Tạng tượng loại, quyển 3: “Hồn chi vi dụng, năng
động tác, thông dương do chi nghi giác giả”. Ý nói Phế tàng hồn, mà tính của hồn
là năng động. Mọi cảm giác đau hay ngứa cũng đều tri giác được.
6. Chức năng của Đại trường là tống chất cặn bã ra ngoài. Linh lan bí điển
luận/Tố vấn viết: “Đại trường giả tiền đạo chi quan, biến hóa xuất yên”. Lý Diên
chú giải: “Thức ăn trong Vị đã ngấu nát, từ miệng dưới của Vị truyền xuống Tiểu
trường, Tiểu trường phân biệt ra thanh trọc, chất nước vào miệng trên của bàng
quang, cặn bã vào miệng trên của Đại trường, Đại tràng tống chất cặn bã ra
ngoài”.

×