Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.16 KB, 5 trang )
Mãn tính chi khí quản viêm
(Viêm phế quản mạn tính)
(Kỳ 1)
1. Đại cương:
1.1 Theo YHHĐ.
+ Viêm phế quản mạn tính là tình trạng tăng tiết dịch nhày của niêm mạc
phế quản gây ho và khạc đờm liên tục hoặc tái phát từng đợt (khoảng 3 tuần lễ), ít
nhất là 3 tháng trong một năm và ít nhất là 2 năm liền.
Cho đến nay ,Tổ chức Y tế thế giới và các nhà nghiên cứu viêm phế quản
mạn tính vẫn dùng định nghĩa này và cũng là tiêu chuẩn chẩn đoán vì lợi ích của
nó trong nghiên cứu dịch tễ học. Theo Laenac (1986) xếp bệnh viêm phế quản
mạn tính vào nhóm bệnh phổi không đặc hiệu. Ngày nay, các tác giả Mỹ thay
viêm phế quản mạn bằng bệnh danh: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (chronic
obstructive pulmonary dusease). Viêm phế quản mạn tính là nguyên nhân hàng
đầu dẫn đến tâm phế mạn.
+ Chẩn đoán xác định dựa vào:
- Hỏi bệnh: phần lớn là nam giới từ 44 – 50 tuổi có nghiện thuốc lá, thuốc
lào; ho và khạc đờm thường về buổi sáng, từng đợt khoảng 3 tuần liền, mỗi năm 3
tháng và ít nhất là 2 năm liền.
- Có từng đợt kịch phát nặng: ho, khạc đờm có mủ; khó thở như cơn hen;
nghe phổi có ran rít, ran ngáy và ran ẩm, rì rào phế nang giảm. Thường do bội
nhiễm, triệu chứng nhiễm khuẩn có khi rõ rệt nhưng phần nhiều là kín đáo. Bệnh
nhân có thể tử vong do suy hô hấp cấp.
- XQ: rốn phổi 2 bên đậm.
Cần chẩn đoán phân biệt với: lao phổi, hen phế quản, ung thư phế quản,
giãn phế quản, giãn phế nang.
1.2. Theo YHCT
Y học Cổ truyền cho rằng, bản chất bệnh thuộc các phạm trù “khái thấu,