Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Dề cương ôn thi TN mới soạn theo chuẩn 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 29 trang )

NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Câu 1: Nêu xuất xứ hoàn cảnh ra đời và tóm tắt truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài?
1) Xuất xứ-hoàn cảnh ra đời:
+ Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt
Nam 1954- 1955. VCAP gồm hai phần. Đoạn trích trong SGK là phần một.
+ Là kết quả chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952 của Tô Hoài.
2) Tóm tắt: Cần đảm bảo một số ý chính:
+ Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá
Tra.
+ Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".
+ Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà
+ Vì bất bình, A Phủ đã đánh A Sử nên bị bắt, bị phạt vạ và trở thành đứa ở trừ nợ cho nhà Thống lí.
+ Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết.
+ Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, 2 người chạy trốn đến Phiềng Sa.
+ Mị và A Phủthành vợ chồng, được giác ngộ, trở thành du kích.
Câu 2: Nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
1) Giá trị hiện thực:
- Bức tranh chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo miền núi Tây Bắc- một thành công có ý nghĩa khai phá
của Tô Hoài ở đề tài miền núi.
- Bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi: khắc nghiệt, tàn ác với những cảnh tượng hãi hùng như địa ngục
giữa trần gian.
2) Giá trị nhân đạo:
- Yêu thương, đồng cảm sâu sắc với số phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước CM.
- Tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai cấp thống trị
- Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng CM của nhân dân Tây Bắc.
Câu 3: Nêu ý nghĩa của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài?
- Tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến;
- Thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi;
- Phản ánh con đường giải phóng và ca ngợi vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.
Luyện tập:
Đề: Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài . (Ngữ văn 12, tập II)


a) Cách giới thiệu n/vật Mị của tác giả:
"Ai ở xa về …"
+ Mị xuất hiện không phải ở phía chân dung ngoại hình mà ở phía thân phận- một thân phận quá nghiệt ngã- một con
người bị xếp lẫn với những vật vô tri giác (tảng đá, tàu ngựa,…)- một thân phận đau khổ, éo le.
+ Mị không nói, chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Người đàn bà ấy bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, nơi
lui vào lui ra chỉ là "một căn buồng kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay". Đã bao năm rồi, người đàn
bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết…
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
1
VỢ CHỒNG A PHỦ (trích)
- Tô Hoài -
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
+ "Sống lâu trong cái khổ Mị cũng đã quen rồi", "Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa", Mị chỉ
"cúi mặt, không nghĩ ngợi", chỉ "nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau". Mị không còn ý thức được về thời gian, tuổi tác và
cuộc sống. Mị sống như một cỗ máy, một thói quen vô thức. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát vọng, thậm chí không
còn biết đến khổ đau. Điều đó có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người những nỗi xót thương.
b) Mị - một sức sống tiềm tàng:
+ Nhưng đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng và cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa,
một cô Mị trẻ đẹp như đóa hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị
gửi vào tiếng sáo "Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".
+ Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ
thành hiện thực bởi "trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị". Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người
yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tinh yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.
+ Bị bắt về nhà Thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có
sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. "Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc", Mị trốn về nhà
cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một cuộc sống đúng nghĩa của nó khiến Mị không muốn chấp
nhận cuộc sống bị chà đạp, lầm than, tủi cực, bị đối xử bất công như một con vật.
+ Tất cả những phẩm chất trên đây là tiền đề cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị
khiến cho câu chuyện phát triển theo một lô gích tự nhiên. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có
thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất

người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bừng lên.
c) M ị - sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc:
+ Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:
- "Những chiếc váy hoa đó đem phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi
ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác".
- "Đám trẻ đợi Tết chơi quay cười ầm trên sàn chơi trước nhà" cũng có những tác động nhất định đến tâm lí của Mị.
- Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát vọng sống của Mị trỗi dậy. "Mị đã lấy hũ rượu uống ừng
ực từng bát một". Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đó dẫu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.
- Tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng.:
* "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hỏt của người đang thổi". "Ngày trước,
Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi
sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác".
* "Tiếng sáo gọi bạn cứ thiết tha, bồi hồi", "ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo", "tai Mị vẳng tiếng sáo gọi
bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo",…
* Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của
khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bừng lên đốm lửa tưởng đã nguội tắt. Thoạt
tiên, tiếng sáo còn "lấp lú", "lửng lơ" đầu núi, ngoài đường. Sau đó, tiếng sáo ấy thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và
cuối cùng nó trở thành lời mời gọi tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo.
+ Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:
- Phản ứng đầu tiên của Mị là: "nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết". Mị đã ý thức được tình cảnh đau
xót của mình. Những giọt nước mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài.
- Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ
của mình và niềm ham sống trở lại "Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước".
"Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi".
- Từ những sôi sục trong tâm tư đó dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu". Mị
muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
- Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách".
- Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói, tiếng sáo vẫn đang dẫn tâm hồn Mị "đi theo những
cuộc chơi, những đám chơi".

ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
2
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
=> Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt- hiện thực phũ phàng khiến cho
sức sống ở Mị càng thêm phần dữ dội. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu một tư tưởng: sức sống của con người cho dù bị
giẫm đạp. bị trói chặt vẫn không thể chết mà luôn luôn âm ỉ, chỉ gặp dịp là bùng lên.
d) Mị - trước cảnh A Phủ bị trói:
+ Ban đầu, Mị hoàn toàn vô cảm: "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay".
+ Thế rồi, "Mị lé mắt trông sang thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hỏm má đá xạm đen lại của A Phủ".
Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đó giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình. Thương người và thương
mình đồng thời nhận ra tất cả sự tàn ác của nhà Thống lí, tất cả đã khiến cho hành động của Mị mang tính tất yếu.
+ Tất nhiên, Mị cũng rất lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay vào cái cọc ấy, "phải chết trên cái cọc ấy". Khi đã
chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đuổi theo Mị: "ở đây thì chết mất". Nỗi lo lắng của Mị cũng là một khía cạnh của
lòng ham sống, nó đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh vùng thoát khỏi số phận mình.
e) Kết luận về n/v Mị:
Mị là cô gái trẻ đẹp, bị đẩy vào tình cảnh bi đát, triền miên trong kiếp sống nô lệ, Mị dần dần bị tê liệt. Nhưng trong Mị
vẫn tiềm tàng sức sống. Sức sống ấy trỗi dậy, cho Mị sức mạnh dẫn tới hành động quyết liệt, táo bạo. Điều đó cho thấy Mị
là cô gái có đời sống nội tâm âm thầm mà mạnh mẽ.
Nhà văn đã dày công miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Mị. Qua đó để thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, lớn lao /.
HÌNH ẢNH MỊ VÀ APHỦ TRONG PHIM “VỢ CHỒNG A PHỦ”
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
3
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Câu 1: Trình bày xuất xứ - hoàn cảnh ra đời , và tóm tắt truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân?
1) Xuất xứ : Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, in trong tập truyện
Con chó xấu xí (1962).
2) Hoàn cảnh sáng tác: Truyện viết về bối cảnh xã hội Việt Nam
năm 1945:
Phát xít Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay nên tháng 3 năm
1945, nạn đói khủng khiếp đã diễn ra. Chỉ trong vòng vài tháng, từ

Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Kim Lân
viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” ngay sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 nhưng sau đó bị thất lạc bản thảo. Đến khi hoà bình lập lại
ở Miền Bắc năm 1954, dựa vào một chương trong tiểu thuyết ấy,
Kim Lân viết lại thành truyện ngắn “Vợ nhặt” .
3)Tóm tắt cốt truyện với những chi tiết chính:
+ Tràng là một thanh niên nghèo ở xóm ngụ cư với mẹ già, làm nghề kéo xe thuê.
+ Trong nạn đói, một lần kéo thóc lên tỉnh, anh gặp một người con gái ngồi lượm thóc ở nhà kho. Qua vài câu đưa đẩy,
họ quen nhau.Thời gian sau anh gặp lại cô gái nhưng đói rách tả tơi thảm thương. Tràng đãi cô ta một bữa bốn bát bánh
đúc và chỉ một câu nói đùa của Tràng mà cô sẵn sàng theo anh về làm vợ.
+ Tràng đưa vợ về nhà trong sự ngỡ ngàng của dân xóm ngụ cư cũng như sự ngạc nhiên buồn tủi của bà cụ Tứ- mẹ
Tràng. Nhưng khi hiểu ra, thương xót cho hoàn cảnh của mình, của Tràng và cả người đàn bà ấy, bà đã vui vẻ chấp nhận
con dâu mới.
+ Đêm tân hôn của Tràng diễn ra trong không khí tái tê của nạn đói. Hôm sau, căn nhà thay đổi hẳn dưới bàn tay quét
dọn của hai người đàn bà. Riêng Tràng, anh cảm thấy mình “nên người”, thấy gắn bó và có trách nhiệm hơn với gia đình.
+ Bữa cơm ngày cưới có tiếng cười và cả sự hiện diện của nạn đói qua niêu cháo lõng bõng và nồi “chè khoán”, miếng
cám chát đắng nhưng họ cùng hướng về cuộc đổi đời. Trong óc Tràng hiện lên đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ
phấp phới.
Câu 2: Trình bày ý nghĩa nhan đề truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân?
+ Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. "Nhặt" thường đi với những thứ không ra gì. Thân
phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kì lúc nào.
+ Nhưng "vợ" lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm.
+ Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng "nhặt" vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
=> Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945, vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm
bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
Câu 3 : Trình bày tình huống đặc sắc của truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân?
+ Tràng là một nhân vật có ngoại hình xấu. Đã thế còn dở người. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như
chính ngoại hình của anh ta. Gia cảnh của Tràng cũng rất đáng ái ngại. Nguy cơ "ế vợ" đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói
khủng khiếp, cái chết luôn đeo bám. Trong lúc không một ai (kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện vợ con của anh ta, thì đột nhiên
Tràng có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng "nhặt" được vợ là nhặt thêm một miệng ăn cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa

cho mình, đẩy mình đến gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra
nước mắt.
+ Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ: "biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì
này không?”, cùng nín lặng.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
4
VỢ NHẶT (trích)
- Kim Lân -
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
+ Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi "cúi đầu nín lặng" với nỗi lo riêng mà rất
chung: "Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?"
+ Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình: "Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn
ngờ ngợ". Thậm chí sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
=> Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Qua đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị
hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.
Giá trị hiện thực:
- Tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
- Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
- Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn.
Giá trị nhân đạo:
- Đề cao tình người, lòng nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc.
- Đặc biệt, sự cưu mang đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt qua cái chết.
Giá trị nghệ thuật:
Tình huống truyện khiến diễn biến truyện phát triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh đời, những thân phận
đồng thời nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.
Câu 4: Nêu ý nghĩa truyện Vợ nhặt của Kim Lân?
- Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếpnăm 1945
- Thể hiện được thảm cảnh của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945.
- Khẳng định: ngay bên bờ vực của cái chết con người vẫn hướng về sự sống và khát khao tổ ấm gia đình.
Luyện tập:

Đề : Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân. Từ đó, nêu lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
của tác phẩm.
Gợi ý bài làm:
1) Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống
nông thôn.
- Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ. Trong đó có Vợ nhặt của Kim Lân.
+ Nhận xét khái quát:
- Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Qua tình huống truyện, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
2) Thân bài:
1. Bối cảnh xây dựng tình huống truyện.
+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
+ Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết
đe dọa.
2. Trong bối cảnh ấy, Tràng - nhân vật chính của tác phẩm - "nhặt" được vợ. Đó là một tình huống độc
đáo:
+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:
- Ngoại hình xấu, thô.
- Tính tình có phần không bình thường.
- Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
- Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
- Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gích tự nhiên).
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
5
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ
- Cả xúm ngụ cư ngạc nhiên.

- Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
- Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn " ngờ ngợ".
+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí:
- Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như Tràng.
- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.
3. Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
+ Cái đói dồn đuổi con người.
+ Cái đói bóp méo cả nhân cách.
+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
4. Giá trị nhân đạo:
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
- Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
- Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
- Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người huôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
- Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
- Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con
vào một cuộc sống tốt đẹp.
- Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.
3) Kết bài:
+ Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
+ Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm./.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
6
RỪNG XÀ NU (trích)
-Nguyễn Trung Thành-
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
“Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm”(NGUYÊN NGỌC)
Câu 1: Nêu xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành)

1) Xuất xứ:
Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau
đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2) Hoàn cảnh ra đời:
+ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp
định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối.
+ Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Nguyễn Trung Thành và
các nhà văn miền Nam lúc đó muốn viết "hịch thời đánh Mĩ". Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta
trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.
+ Mặc dù Rừng xà nu viết về sự kiện nổi dậy của buôn làng Tây Nguyên trong thời kì đồng khởi trước 1960 nhưng chủ
đề tư tưởng của tác phẩm vẫn có quan hệ mật thiết với tình hình thời sự của cuộc kháng chiến lúc tác phẩm ra đời.
Câu 2: Tóm tắt truyện , nhận xét cốt truyện và cách bố cục của truyện ngắn “Rừng xà nu” (Nguyễn Tr. Thành)?
+ Tóm tắt tác phẩm: Cần đảm bảo những chi tiết chính:
- Làng Xô-man ở trong tầm đại bác của giặc, đạn đại bác tàn phá rừng xà nu nhưng cũng như những người Xô-man,
rừng xà nu vẫn kiên cường bất khuất. Tnú về thăm làng sau ba năm đi lực lượng. Nhân Tnú trở về, cụ Mết đã kể cho dân
làng nghe về cuộc đời của anh.
- Hồi đó, Mĩ-Diệm khủng bố dã man nhưng dân làng vẫn tìm cách nuôi giấu cán bộ. Tnú được anh Quyết-cán bộ
cách mạng dìu dắt. Tnú học chữ và làm liên lạc. Tnú bị bắt và bị giam cầm, tra tấn. Anh vượt ngục trở về, cùng dân làng
chuẩn bị vũ khí chiến đấu. Bọn giặc do thằng Dụcác ôn cầm đầu ập tới khủng bố. Mai và đứa con vừa tròn tháng tuổi bị
giặc bắt. Trước cảnh vợ con anh bị hành hạ dã man, từ nơi ẩn nấp, Tnú lao ra với sức mạnh của lòng căm thù. Tnú bị bắt,
vợ con anh bị giết chết, giặc đốt mười đầu ngón tay anh. Dân làng vùng lên cứu anh và giết thằng Dụ cvà bọn ác ôn. Rồi
Tnú gia nhập lực lượng vũ trang với mười ngón tay cụt.
- Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít đưa tiễn Tnú đi trước cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời.
+ Cốt truyện và cách tổ chức bố cục tác phẩm:
- Rừng xà nu được kể theo một lần về thăm làng của Tnú sau 3 năm đi bộ đội. Đêm ấy, dân làng quây quần bên bếp
lửa nhà rông nghe cụ Mết kể lại câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú và cuộc đời làng Xô-Man.
- Rừng xà nu là sự lồng quyện hai cuộc đời: cuộc đời Tnú và cuộc đời làng Xô Man. Hai cuộc đời ấy đều đi từ bóng
tối đau thương ra ánh sáng của chiến đấu và chiến thắng, đi từ hai bàn tay không đến hai bàn tay cầm vũ khí đứng lên dùng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng.
- Cốt truyện Rừng xà nu căng ra trong xung đột quyết liệt một mất một còn giữa một bên là nhân dân, một bên là kẻ

thù Mĩ-Diệm. Xung đột ấy đi theo tình thế đảo ngược mà thời điểm đánh dấu là lúc ngọn lửa của lòng căm thù ngùn ngụt
cháy trên 10 đầu ngón tay Tnú.
Câu 3: Nêu ý nghĩa nhan đề của truyện ngắn “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành)
+ Nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm của mình là "Làng Xô Man" hay đơn giản hơn là "Tnú"- nhân vật chính của
truyện. Nhưng nếu như vậy tác phẩm sẽ mất đi sức khái quát và sự gợi mở.
+ Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu dường như đã chứa đựng được cảm xúc của nhà văn và linh hồn tư tưởng chủ
đề tác phẩm.
+ Hơn nữa, Rừng xà nu còn ẩn chứa cái khí vị khó quên của đất rừng Tây Nguyên, gợi lên vẻ đẹp hùng tráng, man dại-
một sức sống bất diệt của cây xà nu và tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
7
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
+ Bởi vậy, Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả ý nghĩa tả thực lẫn ý nghĩa tượng trưng. Hai lớp ý nghĩa này
xuyên thấm vào nhau toát lên hình tượng sinh động của xà nu, đưa lại không khí Tây Nguyên rất đậm đà cho tác phẩm.
Câu 4: Nêu ý nghĩa của văn bản “ Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành)
- Ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng và đất nước, con người
VN nói chung trong cuộc đấu tranh GPDT ;
- Khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không có cách nào khác là phải cùng nhau
đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.
Thông qua câu chuyện về những con người ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận,
tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi
mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
1. Hình tượng rừng xà nu:
+ Mở đầu tác phẩm, nhà văn tập trung giới thiệu về
rừng xà nu, một rừng xà nu cụ thể được xác định rõ vị trí:
"nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", nằm trong sự
hủy diệt bạo tàn: "Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi
xà nu cạnh con nước lớn".
Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt
giữa làng Xô- man với bọn Mĩ-Diệm. Rừng xà nu cũng

nằm trong cuộc đụng độ ấy. Từ chỗ tả thực, rất tự nhiên,
hình ảnh xà nu đã trở thành một biểu tượng. Xà nu hiện
ra với tư thế của sự sống đang đối diện với cái chết, sự
trường sinh đối diện với sự hủy diệt.
-> Cách mở đầu của câu chuyện thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi ,tầm vóc.
+ Tựa như quay phim, với kĩ thuật quay toàn cảnh, Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ra: "cả rừng xà nu hàng vạn
cây không cây nào là không bị thương". Tác giả đã chứng kiến nỗi đau của xà nu: "có những cây bị chặt đứt ngang
nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão".
Rồi "có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn
trong, chất dầu còn loóng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết".
Các từ ngữ: vết thương, cục máu lớn, loét mãi ra, chết,… là những từ ngữ diễn tả nỗi đau của con người. Nhà văn đó
mang nỗi đau của con người để biểu đạt cho nỗi đau của cây. Do vậy, nỗi đau của cây tác động đến da thịt con người gợi lên
cảm giác đau đớn.
+ Nhưng tác giả đã phát hiện được sức sống mãnh liệt của cây xà nu: "trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe
như vậy". Đây là yếu tố cơ bản để xà nu vượt qua giới hạn của sự sống và cái chết. Sự sống tồn tại ngay trong sự hủy diệt:
"Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đó có bốn năm cây con mọc lên". Tác giả sử dụng cách nói đối lập (ngã gục><
mọc lên; một><bốn năm) để khẳng định một khát vọng thật của sự sống. Cây xà nu đã tự đứng lên bằng sức sống mãnh
liệt của chính mình: "…cây con mọc lên, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Xà nu đẹp một vẻ đẹp hùng tráng,
man dại, đẫm tố chất núi rừng.
Xà nu không những tự biết bảo vệ mình mà còn bảo vệ sự sống, bảo vệ làng Xô Man: "Cứ thế hai ba năm nay, rừng
xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”. Hình tượng xà nu chứa đựng tinh thần quả cảm, một sự kiêu hãnh của vị
trí đứng đầu trong bão táp chiến tranh.
+ Trong quá trình miêu tả rừng xà nu, cây xà nu, nhà văn đã sử dụng nhân hóa như một phép tu từ chủ đạo. Ông luôn
lấy nỗi đau và vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực để nói về xà nu, khiến xà nu trở thành một ẩn dụ cho con người, một
biểu tượng của Tây Nguyên bất khuất, kiên cường.
Các thế hệ con người làng Xô-Man cũng tương ứng với các thế hệ cây xà nu.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
Câu 5: Phân tích ý nghĩa của văn bản “ Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành)
8
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA

+ Cụ Mết có bộ ngực "căng như một cây xà nu lớn", tay "sần sùi như vỏ cây xà nu". -> Cụ Mết chính là cây xà nu
cổ thụ, hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu.
+ Tnú cường tráng như một cây xà nu được tôi luyện trong đau thương đã trưởng thành mà không đại bác nào giết nổi.
+ Dít trưởng thành trong thử thách với bản lĩnh và nghị lực phi thường cũng giống như xà nu phóng lên rất nhanh tiếp
lấy ánh mặt trời.
+ Còn bé Heng là mầm xà nu đang được các thế hệ xà nu trao cho những tố chất cần thiết để sẵn sàng thay thế trong
cuộc chiến cam go còn có thể phải kéo dài "năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa".
* Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm (đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không
thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời) gợi ra cảnh rừng xà nu hùng tráng, kiêu dũng và bất diệt, gợi ra
sự bất diệt, kiêu dũng và hùng tráng của con người Tây Nguyên núi rừng và con người Việt Nam nói chung trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. Ấn tượng đọng lại trong kí ức người đọc mãi mãi chính là cái bát ngát của cánh
rừng xà nu kiêu dũng đó.
2 - Cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô-Man:
Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô-man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này.
Tnú có cuộc đời tư nhưng không được quan sát từ cái nhìn đời tư. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư
của Tnú.
+ Phẩm chất, tính cách của người anh hùng:
- Gan góc, táo bạo, dũng cảm, trung thực (khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết).
- Lòng trung thành với cách mạng được bộc lộ qua thử thách (bị giặc bắt, tra tấn, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém
của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành).
- Số phận đau thương: không cứu được vợ con, bản thân bị bắt, bị tra tấn (bị đốt 10 đầu ngón tay).
- Quật khởi đứng dậy cầm vũ khí tiêu diệt bọn ác ôn.
+ "Tnú không cứu được vợ con"- cụ Mết nhắc tới 4 lần để nhấn mạnh: khi chưa cầm vũ khí, Tnú chỉ có hai bàn tay
không, thì ngay cả những người thương yêu nhất, Tnú cũng không cứu được. Câu nói : “Chúng nó đã cầm súng, mình
phải cầm giáo!” của cụ Mết đã khắc sâu một chân lí: chỉ có cầm vũ khí đứng lên mới là con đường sống duy nhất, mới
bảo vệ được những gì thân yêu, thiêng liêng nhất. Chân lí cách mạng đi ra từ chính thực tế máu xương, tính mạng của dân
tộc, của những người thương yêu nên chân lí ấy phải ghi tạc vào xương cốt, tâm khảm và truyền lại cho các thế hệ tiếp nối.
+ Số phận của người anh hùng gắn liền với số phận cộng đồng. Cuộc đời Tnú đi từ đau thương đến cầm vũ khí thì
cuộc đời của làng Xô-man cũng vậy.
- Khi chưa cầm vũ khí, làng Xô Man cũng đầy đau thương: Bọn giặc đi lùng như hùm beo, tiếng cười "sằng sặc" của

những thằng ác ôn, tiếng gậy sắt nện "hự hự" xuống thân người. Anh Xút bị treo cổ. Bà Nhan bị chặt đầu. Mẹ con Mai bị
chết rất thảm. Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay.
- Cuộc sống ngột ngạt dồn nén đau thương, căm thù. Đêm Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay, làng Xô Man đã nổi dậy "ào
ào rung động", "xác mười tên giặc ngổn ngang", tiếng cụ Mết như mệnh lệnh chiến đấu: "Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên!"
Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng. Câu chuyện về cuộc đời một con người trở thành câu chuyện
một thời, một đất nước. Như vậy, câu chuyện về cuộc đời Tnú đã mang ý nghĩa cuộc đời một dân tộc. Nhân vật sử thi của
Nguyễn Trung Thành gánh trên vai sứ mệnh lịch sử to lớn.
3. Vai trò của các nhân vật: cụ Mết, Mai, Dít, Heng:
+ Cụ Mết, Mai, Dít, bé Heng là sự tiếp nối các thế hệ làm nổi bật tinh thần bất khuất của làng Xô-Man nói riêng, của Tây
Nguyên nói chung.
+ Cụ Mết "quắc thước như một cây xà nu lớn" là hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh tập
hợp để nổi dậy đồng khởi.
+ Mai, Dít là thế hệ hiện tại. Trong Dít có Mai của thời trước và có Dít của hôm nay. Vẻ đẹp của Dít là vẻ đẹp của sự
kiên định, vững vàng trong bão táp chiến tranh.
+ Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng.
=>Dường như cuộc chiến khốc liệt này đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải có sức trỗi dậy của một Phù Đổng Thiên
Vương.
Luyện tập:
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
9
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Đề :“Rừng Xà nu” là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh chống
Mĩ cứu nước. Hãy phân tích tác phẩm “Rừng Xà nu”của nhà văn Nguyễn Trung Thành để làm sáng tỏ nhận
định trên.
Gợi ý bài làm:
1. Tìm hiểu đề:
- Nội dung yêu cầu nghị luận: phân tích tác phẩm “Rừng Xà nu”(của Nguyễn Trung Thành) để thấy được đó là bản
anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước.
- Các thao tác nghị luận: phân tích, chứng minh, bình luận.
- Phạm vi tư liệu: tác phẩm “Rừng Xà nu”(của Nguyễn Trung Thành)

2. Lập dàn ý:
a. Mở bài:
Giới thiệu ngắn gọn những đặc điểm nổi bật về: tác giả, tác phẩm, đối tượng nghị luận.( Nguyễn Trung Thành am
hiểu sâu sắc về đời sống của con người và vùng đất Tây Nguyên, đặc biệt là phẩm chất anh hùng của nhân dân Tây
Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ; sáng tác mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn; “ Rừng xà nu là bản
anh hùng ca.về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước”)
b.Thân bài:
* Sơ lược cốt truyện
* Ấn tượng đầu tiên đối với bạn đọc là hình tượng cây xà nu:
- Trong tầm đại bác của đồn giặc
- Trong đời sống hàng ngày của dân làng Xô Man.
- Tham dự vào những sự kiện trọng đại của làng.
->Rừng xà nu bạt ngàn, bất tận.
->Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình tượng rừng xà nu: thể hiện sức sống mãnh liệt, bạt ngàn đồng thời là biểu tượng
trọn vẹn cho nỗi đau, phẩm chất, sức mạnh của dân làng Xô Man, nhân dân Tây Nguyên, của cả dân tộc, gợi ra ý nghĩa của
tác phẩm.
* Hình ảnh con người: Dân làng Xô Man:
- Cụ Mết- già làng cách mạng: được xem là cây xà nu lâu năm vững chãi; là linh hồn, chiếc gạch nối giữa Đảng và
dân làng.
+ Ngoại hình.
+ Ngôn ngữ.
+ Tính cách.
=>Tiếng nói của cụ là tiếng nói thiêng liêng của dân tộc với những kinh nghiệm xương máu.
- Chị Dít ( tiếp nối từ Mai): hiện tại là bí thư chi bộ của dân làng Xô Man.
+ Ngoại hình.
+ Tính cách ( khi còn bé, lúc lớn lên )
=>Có thể nói, Dít là cây xà nu mà đại bác quân thù không giết nổi: gan lì, dũng cảm, trưởng thành nhanh chóng, kế
thừa và gánh vác sự nghiệp cha anh một cách vững vàng.
- Bé Heng: Như một cây xà nu con, nhanh nhẹn, hiểu biết, đầy lòng tự tin; hứa hẹn sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương
lai.

* Câu chuyện anh hùng của Tnú- nhân vật sử thi điển hình: đó là câu chuyện của một đời người nhưng được kể trong
một đêm.
+ Hoàn cảnh: mồ côi cha mẹ, được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dưỡng. Sau đó làm liên lạc cho anh Quyết, bị
giặc bắt, vượt ngục trở về lãnh đạo dân làng. Anh đã vượt qua những bi kịch cá nhân để cầm súng.
+ Khi còn nhỏ: xuất hiện trong tính cách anh hùng, sớm tỏ ra thông minh, gan dạ, quả cảm.
+ Khi lớn lên lãnh đạo dân làng: anh đã biết vượt qua đau đớn, bi kịch cá nhân để chiến đấu ( bất lực khi nhìn cảnh
vợ con bị tra tấn, chịu đựng ngọn lửa tra tấn; yêu thương, gắn bó sâu nặng với buôn làng, quê hương )
Chú ý: Nêu dẫn chứng phải tiêu biểu, đầy đủ, nhất là những chi tiết nghệ thuật: bàn tay Tnú, tiếng chày giã gạo của
người Strá
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
10
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
c. Kết luận: Nhận xét, đánh giá chung về tác phẩm:.
- Đặc sắc về nghệ thuật: cốt truyện hấp dẫn, cách kể chuyện sinh động, khéo léo; giọng điệu, ngôn ngữ, nhân vật đậm
chất sử thi
- Qua cách khắc hoạ những phẩm chất anh hùng của tập thể dân làng Xô Man, truyện ngắn “Rừng xà nu” được xem
là bài ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. /.
Câu 1: Trình bày vài nét về đặc điểm sáng tác của Nguyễn Thi?
Đặc điểm sáng tác:
- Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ.
- Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung "rất Nguyễn Thi". Đó là:
- Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô
cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao- những con người dường như sinh ra để đánh giặc.
- Tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa.
Câu 2: Nêu xuất xứ, hoàn cảnh ra đời và tóm tắt truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (Nguyễn Thi)
1) Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời : Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách
là một nhà văn-chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng (tháng 2 năm 1966). Sau được in trong Truyện và kí - NXB
Văn học Giải phóng, 1978.
2) Tóm tắt cốt truyện theo nhân vật chính:
Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ-nguỵ: ông nội và

bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe doạ, hạch sách của bọn
giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm, và một người chị nuôi đi
lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình và những đau thương mất mát nặng nề do tội ác của Mĩ-
Nguỵ gây ra đối với gia đình Việt đều được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình.
Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi thân mật là cậu Tư. Anh rất gắn bó với đơn vị,
đặc biệt là với tiểu đội trưởng Tánh, như tình ruột thịt. Ở anh luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, quyết lập được nhiều
chiến công để cùng chị Chiến trả thù cho ba má.
Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng
và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh trở về với những kỉ niệm thân thiết
đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh,
Lần thứ tư tỉnh dậy, trong đầu anh còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ. Tiếng súng rộ lên đã đưa anh bò lên phía
trước. Anh hồi tưởng lại ngày má chết rồi, hai chị em đã tranh nhau ghi tên tòng quân, được chú Năm nói hộ cả hai chị em
đều được tòng quân một lần.
Đêm trước ngày lên đường, hai chị em bàn bạc thu xếp việc nhà. Chị Chiến thể hiện sự chu đáo sắp đặt việc nhà “in má
vậy”. Rồi Việt lại ngất đi.
Tánh cùng tiểu đội đi suốt ba ngày mới tìm được Việt trong một lùm cây rậm và suýt nữa thì bị ăn đạn của “cậu Tư”,
bởi dù đã kiệt sức không bò đi được nữa nhưng một ngón tay Việt vẫn đang đặt ở cò súng, đạn đã lên nòng và anh tưởng là
quân địch tới. Nếu Tánh không lên tiếng ngay, có lẽ Việt đã nổ súng.
Việt được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến, sức khoẻ dần hồi phục. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến
kể lại chiến công của mình. Việt nhớ chị Chiến, muốn viết thư nhưng không biết viết sao. Việt cũng không muốn kể chiến
công của mình vì tự thấy chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và những ước mong của má.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
11
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (trích)
-Nguyễn Thi-
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Câu 3: Nêu tình huống đặc sắc của truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi?
Đây là câu chuyện của gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Nhân vật này rơi vào một tình huống đặc biệt: trong một
trận đánh, bị thương nặng phải nằm lại giữa chiến trường. Anh nhiều lần ngất đi tỉnh lại, tỉnh rồi lại ngất. Truyện được kể
theo dòng nội tâm của nhân vật khi đứt (ngất đi) khi nối (tỉnh lại).

Tóm lại: Tình huống truyện dẫn đến một cách trần thuật riêng của thiên truyện theo dòng ý thức của nhân vật.
Câu 4 : Ý nghĩa của văn bản “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi
Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao
khát chiến đấu, son sắt với cách mạng. Tác giả khẳng định: Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa
truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc VN
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Câu 5: Chất sử thi của thiên truyện “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi?
- Thể hiện qua cuốn sổ của gia đình với truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương. Cuốn
sổ là lịch sử gia đình mà qua đó thấy lịch sử của một đất nước, một dân tộc trong cuộc chiến chống Mĩ.
- Số phận của những đứa con, những thành viên trong gia đình cũng là số phận của nhân dân miền Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ khốc liệt.
- Mỗi nhân vật trong truyện đều tiêu biểu cho truyền thống, đều gánh vác trên vai trách nhiệm với gia đình, với Tổ
quốc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
- Truyện về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh
ra từ những đau thương.
Luyện tập:
Đề : Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi có nêu lên quan niệm: Chuyện gia đình cũng dài
như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, "mà biển thì rộng
lắm […], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".
Chứng minh rằng, trong thiên truyện của Nguyễn Thi, quả đã có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy
từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt.
Gợi ý:
Bài viết cần có những ý cơ bản sau:
1. Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc.
Có thể hiểu:
+ Chỉ được coi là con của gia đình những ai đã ghi được, làm được "khúc" của mình trong dòng sông truyền
thống. Con không chỉ là sự tiếp nối huyết thống mà phải là sự tiếp nối truyền thống của cha.
+ Không thể hiểu khúc sau của một dòng sông nếu không hiểu ngọn nguồn đã sinh ra nó. Cũng như vậy, ta chỉ có
thể hiểu những đứa con (Chiến, Việt) khi hiểu truyền thống gia đình đã sinh ra những đứa con ấy.
Chứng minh:

+ Truyền thống ấy chảy từ các thế hệ ông bà, cha mẹ, cô chú đến những đứa con, mà kết tinh ở hình tượng chú
Năm:
- Chú Năm không chỉ ham sông biển mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người chú Năm phảng phất cái tinh
thần Nguyễn Đình Chiểu xa xưa.
- Chú Năm là một cuốn gia phả sống luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, đại diện cho truyền
thống và lưu giữ truyền thống (trong những câu hò, trong cuốn sổ gia đình).
+ Hình tượng người mẹ cũng là hiện thân của truyền thống:
- Một con người sinh ra để chống chọi với gian nguy, khó nhọc "cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, tấm áo bà ba
đẫm mồ hôi"; "người sực mùi lúa gạo" - thứ mùi của đồng áng, của cần cù mưa nắng.
- Ấn tượng sâu đậm nhất là khả năng ghìm nén đau thương để sống, để che chở cho đàn con và tranh đấu.
- Người mẹ không biết sợ, không chùn bước, kiên cường và cao cả.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
12
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
+ Những đứa con - sự tiếp nối truyền thống:
- Chiến mang dáng vóc của mẹ, cách nói giống hệt mẹ (in như má).
So với thế hệ mẹ thì Chiến là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy xa hơn khúc sông trước.
Người mẹ mang nỗi đau mất chồng nhưng chưa có dịp cầm súng, còn Chiến mạnh mẽ quyết liệt, ghi tên đi bộ đội cầm
súng trả thù cho ba má.
- Việt, chàng trai mới lớn, lộc ngộc, vô tư.
Chất anh hùng ở Việt: không bao giờ biết khuất phục; bị thương chỉ có một mình vẫn quyết tâm sống mái với
kẻ thù.
Việt đi xa hơn dòng sông truyền thống: không chỉ lập chiến công mà ngay cả khi bị thương vẫn là người đi
tìm giặc. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.
2. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, "mà biển thì rộng lắm […], rộng bằng cả nước ta
và ra ngoài cả nước ta".
+ Điều đó có nghĩa là: từ một dòng sông gia đình, nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả, đến đại dương của nhân dân
và nhân loại.
+ Chuyện gia đình cũng là chuyện của cả dân tộc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau
thương./.

Câu 1: Trình bày vài nét về Nguyễn Minh Châu và đặc điểm sáng tác của ông sau năm 1975?
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay"
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
13
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (trích)
-Nguyễn Minh Châu-_
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá, trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những
nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức-thế sự. Tâm điểm những
khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn
thiện nhân cách.
Câu 2: Nêu xuất xứ, hoàn cảnh ra đời và tóm tắt truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu ?
Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện
ngắn (in năm 1987).
Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế
sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
Tóm tắt tác phẩm :
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.
Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án toà án huyện, Phùng đi tới một vùng
biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Phùng đã “phục kích” mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh
nào. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu
lưới vào lúc bình minh. Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích.
Nhưng anh không ngờ chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài và lão
đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của mình.Phùng chưa kịp xông ra can ngăn thì thằng Phác,
con lão, đã kịp tới để che chở người mẹ đáng thương. Biết Phùng chứng kiến sự tàn bạo của cha mình, thằng bé Phác đâm
ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái
tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Không thể nén chịu hơn được nữa, Phùng

xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế
của toà án huyện.
Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu
được người đàn bà ấy dù bị đánh đập tàn bạo đến mấy vẫn cần có chồng, cần một người đàn ông sức vóc trên chiếc
thuyền ngoài biển khơi để kiếm sống nuôi đàn con. Phùng thấm thía: không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện
tượng của cuộc đời.
Câu 3: Cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”có nét gì
độc đáo?
Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến một “cảnh “đắt” trời cho” làm người nghệ sĩ rung động, say mê
trước vẻ đẹp huyền ảo- thơ mộng của thuyền, biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, anh lại
phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con thuyền “thơ mộng”, đó là cảnh lão đàn ông đánh vợ một
cách tàn bạo.
Tình huống đó được lặp lại lần nữa-bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn
được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, tr người nghệ sĩ đã có sự
thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình hàngchài, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị
em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.
Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử,
thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống
truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống
Câu 4 : Trình bày suy nghĩ về nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyền Minh Châu?
“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đặt cho truyện ngắn nhan đề
“Chiếc thuyền ngoài xa” thật sâu sắc, một nhan đề đa nghĩa:
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
14
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Đây là hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện trong phần mở đầu truyện ngắn, theo nghệ sĩ Phùng, đó là một cảnh “đắt”
trời cho, là vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”, khiến cho Phùng cảm động, tưởng như chính mình “vừa khám phá thấy cái
chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Như vậy “Chiếc thuyền ngoài xa” là
biểu tượng về nghệ thuật, là vẻ đẹp cuộc sống.
Theo diễn biến truyện: Chiếc thuyền ngoài xa vào gần bờ, một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền.

Người đàn bà đi vào bãi xe tăng hỏng chờ đợi, người chồng đến và đánh vợ một cách tàn bạo, người vợ nhận đòn với vẻ
cam chịu đầy nhẫn nhục Người đàn bà được mời đến toà án huyện để giải quyết. Thật ngạc nhiên, người đàn bà “lạy quí
toà” và van xin: “bắt tội”, “bỏ tù” cũng được nhưng “đừng bắt con bỏ nó”. Sự thật được giải đáp khi người đàn bà kể lại
câu chuyện về cuộc đời mình. Người đàn bà chấp nhận những trận đòn một cách “tự nguyện” là bởi ở thuyền “phải có
người đàn ông để chèo chống khi phong ba”, bởi đàn bà ở thuyền “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
Như vậy, “Chiếc thuyền ngoài xa” còn là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh tồn của gia
đình hàng chài với cuộc sống bấp bênh, đầy khó khăn, bất trắc.
Nếu chiếc thuyền ấy không vào gần bờ, không có câu chuyện của người đàn bà trên thuyền kể lại, chỉ nhìn “chiếc
thuyền” khi nó ở “ngoài xa” thì làm sao thấu hiểu sự thật? Đây chính là tư tưởng cốt lõi của truyện ngắn: thấy được xa và
gần, bên ngoài và thẳm sâu, mới là cái nhìn toàn diện về cuộc sống, cần có một cái nhìn nhiều chiều như thế mới phát
hiện ra bản chất thật của cuộc sống và con người.
“Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành tấm ảnh đẹp, treo ở nhiều nơi, nhất là ở trong các gia đình sành nghệ thuật,
nhưng có ai hiểu được câu chuyện con người trên chiếc thuyền ấy. Chỉ có nghệ sĩ Phùng, mỗi khi ngắm nhìn tấm ảnh bao
giờ cũng “thấy người đàn bà ấy dang bước ra khỏi tấm ảnh”, một người đàn bà lam lũ, cam chịu, giàu tình thương, lòng
vị tha. Đó cũng là thông điệp của tác giả gửi tới người đọc: nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời
Câu 5 : Ý nghĩa của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ?
Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời:
- Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời;
- Người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện, sâu sắc;
- Rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó.
Luyện tập:
Đề : Cảm nhận của anh chị về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
1) Mở bài:

Nguyễn Minh Châu –người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.Những tác phẩm
của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa”viết vào những năm đầu thời kì đổi mới.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một
cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.Đồng thời tác phẩm in đậm

phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu:với cách khắc họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.
2) Thân bài:
Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý,trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp
bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu,người bạn chiến đấu năm xưa,giờ
đang là chánh án huyện,Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà
anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào.Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền
ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ
hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữ có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng gười lớn
lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn
qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi ”. Bức ảnh “Chiếc
thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: “Trong giây phút bối
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
15
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần
của tâm hồn”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp
nghệ thuật.
Tác phẩm không dừng lại ở đó, nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt
mĩ “Chiếc thuyền ngoài xa”: Bước ra là một người đàn bà mệt mỏi,cam chịu và một lão đàn ông dữ dằn,ác độc,coi việc
đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ,mặt đỏ gay,lão rút trong
người ra một chiếc thắt lưng…lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn
bà, lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két ”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ
trêu, cay đắng nữa: Cha con lão Hàng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch,sự giận dữ căng thẳng…lập tức
nhảy xổ vào cái lão đàn ông.liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Nghệ sĩ
Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái,bi kịch trong gia đình hàng chài kia như là thứ thuốc rửa quái đản làm
những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật xót xa của
cuộc sống. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng
có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật
không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao)
Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình, tốt đẹp. Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn

còn những góc khuất. Đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện.Bề ngoài,đó là một người đàn bà
nhẫn nhục, cam chịu,bị chồng thường xuyên hành hạ,đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận
nặng”, nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa Quý tòa bắt tội con cũng
được,phạt tù con cũng được,đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những
đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm
ăn nuôi nấng, phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền
Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.Qua câu
chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Người đàn bà hàng chài không có tên, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong
người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh. Người đàn bà ấy
thật đáng chia sẻ cảm thông. Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng
độc ác.Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân
của mình. Làm thế nào để khôi phục cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trong một gia đình như gia đình vợ chồng
làng chài, những đứa trẻ như cậu bé Phác và chị nó, lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như
Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?! Đó chính là những vấn
đề mà tác giả hằng trăn trở và đặt ra cho người đọc để cùng suy gẫm và hành động.
Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo.Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ
lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người. Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì
chính trong đó lại chứa những cái xấu, cái ác. Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ
lão. Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không hề đơn giản, không dễ gì
khám phá. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.
Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào n/vật Phùng đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo. Lời kể trở nên khách
quan, chân thật giàu sức thuyết phục.Ngôn ngữ n/v phù hợp với đ.điểm tính cách của từng người: giọng lão đàn ông thô bỉ, lời
người đàn bà xót xa, cam chịu…Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đã góp phần khắc sâu hơn chủ đề tư tưởng của TP
3) Kết bài:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nêu lên một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi
người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần có một
cách nhìn đa diện đối với cuộc sống, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã phản ánh những nội dung ngồn ngộn hơi thở hiện thực ấy bằng một phong cách tự sự-triết lí rất riêng.
Có thể khẳng định Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá

sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như
lời của nhà văn đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản,và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản
chất con người vào các tầng sâu lịch sử”./.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
16
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Lưu Quang Vũ (1948- 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ, trong một gia đình trí thức.
+ Từ 1965 đến 1970: Lưu Quang Vũ vào bộ đội và được biết đến với tư cách một nhà thơ tài năng đầy hứa hẹn.
+ Từ 1970 đến 1978: ông xuất ngũ, làm nhiều nghề để mưu sinh.
+ Từ 1978 đến 1988: biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân
khấu kịch trường những năm 80(TK trước) với những vở đặc sắc như: Sống mãi tuổi 17, Hẹn ngày trở lại, Lời thề thứ 9,
khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta, Hai ngàn ngày oan trái, Hồn Trương Ba, da hàng thịt,…
->Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận,… nhưng thành công nhất là kịch.
Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại
->Lưu Quang Vũ được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
Câu 2: Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác; Tóm tắt nội dung của vở kịch và đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
của Lưu Quang Vũ?
1) Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác :
+ Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ. Vở
kịch được viết từ năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới bắt đầu ra mắt công chúng. Nhanh chóng tạo được nhiều thiện cảm
cho người xem, Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã được công diễn nhiều lần trên các sân khấu trong và ngoài nước.
+ Đoạn trích lấy từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng vô cùng cao
thượng của hồn Trương Ba.
-> Khám phá, phát hiện những mâu thuẫn, xung đột -> diễn đạt bằng hành động và ngôn ngữ độc thoại, đối thoại.
-> Quá trình vận động: Thắt nút-> phát triển-> cao trào->mở nút.
2) Tóm tắt nội dung vở kịch: Gồm 7 cảnh :
1.Trên thiên đình Nam Tào làm việc cẩu thả gạch nhầm tên người chết là Trương Ba
2. Đế Thích kết thân với Trương Ba-một cao cờ ở hạ giới. Trương Ba đột ngột qua đời
3. Nam Tào sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt để sống lại
4. Xác hàng thịt đòi về nhà Trương Ba. Mọi người ngỡ ngàng song đành phải chấp nhận

5. Lý trưởng sách nhiễu. Trương Ba phải ở nhà hàng thịt đến đêm mới được về nhà
6. Bị thể xác xui khiến, Trương Ba định xuôi theo ở lại với vợ hàng thịt
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
Câu 1: Trình bày những nét cơ bản về tiểu sử sự nghiệp của tác giả Lưu Quang Vũ?
17
HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT (trích)
_ -Lưu Quang Vũ-_
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
7. Trương Ba bắt đầu thay đổi tâm tính khiến mọi người trong gia đình, bạn bè, xa lánh chán ghét, bản thân vô cùng
đau khổ. N/v quyết định giải thoát: chấp nhận chết hẳn, hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây cỏ.
* Truyện cổ dân gian:
Ngày xưa có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất giỏi. Nước cờ của anh dễ
thường thiên hạ không có người nào địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn
vang khắp nước, sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy ở Trung Quốc có ông Kị Như cũng nổi tiếng cờ cao. Khi nghe tiếng
Trương Ba, Kị Như liền xách khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai người đọ tài nhau trong mấy ván vẫn không
phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kị Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba
kiêu hãnh bảo: Nước cờ dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.
Bấy giờ Đế Thích là tiên cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba, liền cưỡi mây xuống trần để
cho y biết tay. Trương Ba và Kị Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi bên cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh
mách cho Kị Như mấy nước, Kị Như chuyển bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến
làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng khi nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xoá, mặt mũi không có vẻ là người trần tục, chợt
hiểu, liền sụp xuống lạy và rằng: Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi. Đế Thích
cười bảo: Ta nghe như nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu,
giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp nhưng cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học
nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh: Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một nén hương này, mỗi lần cần
đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống. Nói đoạn, cưỡi mây bay về trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm
Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa. Thấy có nén hương
giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, tiên Đế Thích nhận được mùi hương
liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: Trương Ba đâu ? Vợ Trương Ba sụt sịt: Nhà tôi chết

đã gần một tháng nay rồi ! - Chết rồi ! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta xuống ngay để đến bây giờ làm thế nào được nữa.
Suy nghĩ một chút, Đế Thích lại hỏi thêm: Trong xóm hiện nay có ai mới chết không ? Vợ Trương Ba đáp: Có một người
hàng thịt mới chết tối hôm qua. Tiên Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người hàng thịt mà bảo: Ta sẽ kiếm cách làm
cho chồng nhà ngươi sống lại. Nói xong, tiên hoá phép trở về trời.
Nói chuyện nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm lại linh sàng khóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi
nhổm dậy. Hắn ta vứt tất cả mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương
Ba thấy người hàng thịt biết là Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ và đón vào. Giữa lúc đó, vợ người hàng
thịt cũng chạy theo níu lấy chồng, nhưng không những bị vợ Trương Ba giằng lại mà ngay chính chồng mình cũng nhất
định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao,
đành đem việc đó lên quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh hàng thịt. Chỉ vợ Trương Ba
nhất định nhận là chồng mình. Quan hỏi rằng: Chồng chị ngày thường hay làm gì ? Thị đáp: Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ
mà thôi. Quan lại hỏi người hàng thịt: Chồng chị ngày thường hay làm nghề gì ? Thị đáp: Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn.
Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng túng không biết làm
thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi những nước cờ rất
cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba. Vì thế mới có câu: Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
Câu 3 : Nêu nội dung chính của vở kịch và đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ? Phân
tích đoạn trích.
1) Nội dung chính:
a) Tác phẩm:
+ Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch
nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và
nhân văn sâu sắc.
+ Truyện dân gian gây kịch tính sau khi Hồn Trương Ba nhập vào xác
anh hàng thịt dẫn tới "vụ tranh chấp" chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử,
bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác
tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích
truyện dân gian: Khi hồn Trương Ba được sống
"hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự
càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau

khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không
chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được
chết hẳn.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
18
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA

b) Đoạn trích là phần lớn cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh
điểm: Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo", nhân vật Hồn Trương Ba
ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi
nghịch cảnh trớ trêu. Nhân vật quyết định giải thoát: chấp nhận chết hẳn. Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh
cây cỏ.
2) Phân tích đoạn trích: (Trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch. Thuộc phần cao trào và mở nút)
a) Ý nghĩa ẩn dụ đoạn đối thoại Hồn Trương Ba - Xác hàng thịt:

- Trước hết đó là hoạt động kịch đã đầy ><, xung đột kịch tới cao trào. Xác anh hàng thịt tỏ ra lấn át hồn Trương Ba ->
sỉ nhục hồn Trương Ba -> hồn Trương Ba đau khổ đến cực độ -> không thể chịu được nữa.
- Ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại:
+ Xác anh hàng thịt: ẩn dụ về thể xác của con người.
+ Hồn Trương Ba: ẩn dụ về linh hồn của con người -> cuộc đối thoại đó là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn
trong một con người.
-> Đó là hai thực thể có quan hệ hữu cơ với nhau.
+ Thể xác có tính độc lập tương đối, có tiếng nói, có khả năng tác động vào linh hồn.
+ Linh hồn phải đấu tranh với những đòi hỏi không chính đáng của thể xác -> để hoàn thiện nhân cách.
b) Đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và gia đình:
Trong đoạn đối thoại đó, tính cách Trương Ba đã có sự thay đổi:
-> trở nên thô vụng hơn: làm gãy cây, gẫy diều .
-> trở nên xa lạ hơn với người thân: vợ, con, cháu không muốn gần gũi vì tính tình của Trương Ba đã thay đổi.
Trước sự đổi thay đó, hồn Trương Ba đó nhận ra: ông cảm thấy không thể sống như vậy được nữa, không thể khuất phục
trước thể xác, bởi như thế là tự đánh mất mình.

c) Thái độ của Trương Ba khi Đế Thích có ý định cho nhập vào Cu Tị - một em bé hàng xóm vừa chết:
- Trước hết, Trương Ba rất thương yêu Cu Tị - một em bé hàng xóm vừa chết, bạn của cháu nội yêu quý của ông.
- Ông không thể chấp nhận sự tái chiến bi kịch sống trong thân xác của người khác: “Không thể bên trong một đằng
bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn" -> Hồn Trương Ba đã xin cho Cu Tị được sống, còn mình thì xin
được chết hẳn -> Hành động đó chứng minh cho ý thức về sự hợp nhất giữa linh hồn và thể xác.
d. Đoạn kết:
Thể hiện rõ nhất quan niệm sống của Trương Ba đồng thời cũng khẳng định được nhân cách cao thượng của ông và tư
tưởng nhân văn cao cả của tác phẩm.
“Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp
về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực”.
* Nghệ thuật: Đặc sắc trên nhiều phương diện:
- Sự sáng tạo từ VH dân gian; ngôn ngữ kịch linh hoạt
- Sự kết hợp giữa tính hiện đại và truyền thống
- Sức phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
19
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Câu 4: Ý nghĩa của văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ?
Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng
định : Được sống làm người quý giá thật, nhưng được
sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và
tâm hồn còn quý giá hơn. Con người phải luôn luôn đấu
tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung
tục để hoàn thiện nhân cách./.
(TS. Nguyễn Kiều Tâm)
Câu 1: Hãy cho biết tiểu sử và sự nghiệp sáng tác thơ văn của Lỗ Tấn?
1) Tiểu sử - cuộc đời:
Lỗ Tấn tên thật là Chu Chương Thọ sau đổi thành Chu Thụ Nhân, tên chữ là Dự Tài. Sinh ngày 25.6.1881 tại
huyện Thiệu Hưng, Tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, trong một gia đình quan lại sa sút. Cha là Chu Bá Nghi ,đậu tú tài. Mẹ
Lỗ Thuỵ, một phụ nữ nông dân trung hậu kiên nghị, phẩm chất của bà có ảnh hưởng rất lớn đến Lỗ Tấn.

Năm 18 tuổi lên Nam Kinh học trường Thủy sư học (hàng hải)
Hai năm sau bỏ học thi lại vào trường Khoáng lộ học đường (kỹ sư mỏ)
Năm 1902 đỗ tốt nghiệp, được cử sang Nhật học vào ngành Y.
Năm 1909 giã từ nước Nhật trở về dạy học nuôi mẹ, nuôi em.
Thời thanh niên Lỗ Tấn sục sôi nhiệt huyết, có lòng yêu nước sâu xa, có tinh thần tiếp thu mạnh mẽ. Ông đã đổi
nghề 4 lần: Hàng hải -> Khoảng lộ (mỏ) -> Y -> viết văn. => là người yêu nước, thương dân muốn cứu nước cứu dân.
Con đường gian nan để chọn ngành nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại,
vừa nói lên tâm huyết của một người con ưu tú của dân tộc.
Ngòi bút Lỗ Tấn mang tính văn chương đích thực bởi vì ông đã đề cập đến sứ mệnh thiêng liêng nhất của văn học
là góp phần cứu nước cứu dân. Ông đã phát huy được một trong những chức năng đích thực của văn chương là chữa bệnh
tinh thần cho quốc dân đồng bào.
Ông là nhà văn mà Bác Hồ thích đọc ngay từ thời trẻ, khi bôn ba hoạt động cách mạng. Năm 1936, Lỗ Tấn mất
2) Sự nghiệp văn chương:
Để lại một khối lượng tác phẩm khổng lồ 20 tập (mỗi tập 600 trang) đủ các thể loại
Tác phẩm chính:
- AQ chính truyện (Kiệt tác của văn học hiện đại Trung Quốc và thế giới),
- 3 tập truyện ngắn, tiêu biểu : Gào thét(1923), Bàng hoàng(1926), Chuyện cũ viết theo lối mới(1936).
- 17 tạp văn: Nấm mồ, Cỏ dại, Gió nóng, Hai lòng
=> Nhà văn hiện đại Trung Quốc, danh nhân văn hóa thế giới
Câu 2: Trước khi trở thành nhà văn Lỗ Tấn đã học những nghề nào? Tại sao cuối cùng ông chuyển sang
là văn nghệ? Nêu tên 3 tác phẩm của ông.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
20
LỖ TẤN VỚI TRUYỆN NGẮN
“THUỐC”
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Trước khi trở thành nhà văn Lỗ Tấn đã học những nghề:
- Hàng hải: với ước mong mở rộng tầm mắt - học nghề khai thác mỏ với nguyện vọng làm giàu cho Tổ quốc
- Khoáng lộ học đường (kỹ sư mỏ)->khai tác tài nguyên, làm giàu cho đất nước.
- Nghề y: để chữa bệnh cho người nghèo như bố ông.

- Đang học y khoa ở Tiên Đài (Nhật Bản), ông đột ngột đổi nghề vì: Một lần xem phim, ông thấy người Trung
Quốc khoẻ mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém người Trung Quốc làm gián điệp cho Nga (chiến tranh Nga-Nhật), ông
giật mình, nghĩ rằng chữa bệnh thể xác không bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân và chuyển sang viết văn. Ông chủ
trương dùng ngòi bút để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương chữa trị.
Tác phẩm: Gào thét, Bàng hoàng, Nấm mồ
Câu 3: Tóm tắt truyện ngăn”Thuốc” của nhà văn Lỗ Tấn?
Thằng bé Thuyên bị bệnh lao. Bố mẹ nó được lão cả Khang bày cho bài thuốc ăn bánh bao tẩm máu người bị
chết chém sẽ khỏi bệnh. Nhân có chiến sĩ cách mạng Hạ Du bị chém đầu, bố mẹ thằng bé Thuyên mua được cái bánh bao
tẩm máu Hạ Du cho nó ăn. Ăn xong nó vẫn bị chết. Mộ nó chôn cạnh mộ Hạ Du.
Mùa xuân năm sau, hai bà mẹ ra thăm mộ con, gặp nhau tại nghĩa trang họ đều xót xa cho cái chết của con
mình. Trên mộ Hạ Du có một vòng hoa hồng hoa trắng, tuy không nhiều nhưng chỉnh tề, hai bà mẹ đều ngạc nhiên tự hỏi
“thế này là thế nào?”
Câu 4: Nêu ý nghĩa nhan đề và chủ đề truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn
Giá trị nôi dung và nghệ thuật của truyện?
1) Nêu ý nghĩa nhan đề :Tên truyện: “Thuốc”
- Đó là thuốc chữa bệnh lao của người dân u mê lạc hậu về khoa học(lấy máu người để chữa bệnh.)
- Đó là thuốc chữa bệnh lạc hậu về chính trị của nhân dân Trung Quốc
- Đó là thuốc chữa bệnh xa rời quần chúng của các chiến sĩ cách mạng.
->Lỗ Tấn vạch ra các căn bệnh của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ để tìm phương thuốc chữa trị
2) Chủ đề:
Thuốc tập trung vào hai chủ đề, đó là sự tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong. Sự gắn
bó của hai chủ đề ấy đã làm nổi bật lên tư tưởng của tác phẩm: Làm thế nào để tìm ra phương thuốc chữa bệnh đớn hèn,
ngu muội của dân tộc. Tác phẩm đặt ra câu hỏi, chưa có câu trả lời nhưng thực ra câu trả lời nằm trong hình tượng. Lời giải
đáp cho câu hỏi đầy day dứt mà tác giả đặt ra ấy là phải làm một cuộc cách mạng thực sự - một cuộc cách mạng của quần
chúng và vì quần chúng.
3) Giá trị nôi dung và nghệ thuật của truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn:
+ Phê phán những căn bệnh tinh thần của người Trung Quốc đầu thế kỉ XX:
- Bệnh u mê lạc hậu của người dân.
- Bệnh xa rời quần chúng của những người cách mạng tiên phong.
+ Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm:

- Cốt truyện đơn giản nhưng hàm súc.
- Các chi tiết, hình ảnh đều giàu ý nghĩa tượng trựng. Đặc biệt là hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu, hình ảnh con
đường, hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du,
- Không gian, thời gian của truyện là một tín hiệu nghệ thuật có ý nghĩa ./.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
21
SÔLÔKHÔP VÀ
“SỐ PHẬN CON NGƯỜI”
(trích)

_
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Câu 1: Hãy cho biết tiểu sử và sự nghiệp sáng tác thơ văn của Sô-lô-khôp
1) Tiểu sử:
Mi-kha-in A-lêch-xan-đrô-vích Sô-lô-khôp (1905-1984), sinh ra trong một gia đình nông dân, vùng thảo nguyên
sông Đông, thuộc tỉnh Rôxtốp của Liên Xô cũ.
Thời nội chiến: nghỉ học, tham gia cách mạng và bắt đầu viết văn. Năm 1923, Sôlôkhốp quyết tâm lên Max-cơ-
va, tại đây ông làm đủ nghề để kiếm sống và thực hiện giấc mộng viết văn.
Năm 1925 vì cảm thấy “thiếu quê hương” nên ông trở về quê và bắt tay vào sự nghiệp sáng tác “Sông Đông êm
đềm” .
Thời kỳ chiến tranh vệ quốc (1941-1945), ông khoác áo lính, làm phóng viên chiến trường, xông pha trên nhiều
mặt trận, nhiều bài ký sự, chính luận, truyện ngắn nổi tiếng được ra đời
2) Sự nghiệp sáng tác:
a) Tác phẩm:
- Tập truyện “Truyện sông Đông” (1926)
- Bộ tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm” bắt đầu sáng tác năm 1925 hoàn thành năm 1940, được tặng giải thưởng
Nôben về văn học năm 1965.
- “Đất vỡ hoang” (1932-1959)
b) Đề tài:
+ Sô-lô-khốp sinh ra và lớn lên ở vùng Sông Đông. Cuộc sống của ông gắn bó máu thịt với con người và cảnh

vật quê hương trong những bước chuyển mình đau đớn và phức tạp của lịch sử. Chính vì thế những tác phẩm của ông
thấm đẫm hơi thở và linh hồn của cuộc sống vùng sông Đông.
+ Là người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ông thấu hiểu được những vinh quang và nỗi đau
khổ của những số phận con người trong cuộc chiến tranh cũng như sau cuộc chiến đó. Cảm hứng về chiến tranh đã tạo ra
một bước ngoặt mới trong sáng tác của ông
=> Năm 1965, Sô-lô-khốp được tặng giải thưởng Nô-ben về văn học, ông là nhà văn vĩ đại của nền văn học
Xô-viết và thế giới.
Câu 2: Tóm tắt tác phẩm “Số phận con người” của Sô-lô-khốp?
An-đrây Xô-cô-lốp là chiến sĩ Hồng quân Liên Xô đã tham gia chống phát xít trong thế chiến thứ hai và đã phải
gánh chịu nhiều mất mát , đau thương: bản thân bị tù đày, bị thương, vợ và hai con chết vì bom đạn, con trai hy sinh đúng
vào ngày chiến thắng phát xít, khi tiến công vào Bec-lin. Xô-cô-lôp giải ngũ, không còn nơi nương tựa, ông phải đến ở nhờ
nhà bạn và làm lái xe chở hàng.
Tại đây ông gặp Va-ni-a, chú bé mồ côi cha mẹ vì chiến tranh, cũng đang lang thang, đói rách. Xô-cô-lôp nhận
bé làm con nuôi. Bên nhau, hai cha con sống thật hạnh phúc. Nhưng số phận vẫn chưa buông tha hai cha con. Trong một
chuyến chở hàng, Xô-cô-lôp gặp rủi ro, bị tước bằng lái xe. Thế là mất việc, hai bố con dắt nhau đi lang thang “khắp nẻo
đường nước Nga” để kiếm sống nhưng vẫn có một niềm tin vào cuộc sống, vào sức mạnh con người và Xô-cô-lôp vẫn
giấu không cho bé Va-ni-a biết nỗi đau khổ riêng tư của mình.
Câu 3: Giá trị nội dung và nghệ thuật qua đoạn trích “Số phận con người” của Sô-lô-khốp?
I/ Nội dung:
1) Giá trị hiện thực:
- Tố cáo chiến tranh;
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
22
SÔLÔKHÔP VÀ
“SỐ PHẬN CON NGƯỜI”
(trích)

_
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
- Phản ánh số phận, tính cách kiên cường và trung hậu của con người Nga trong và sau chiến tranh.

2) Giá trị nhân đạo:
+ Quan tâm số phận nghiệt ngã của con người; niềm cảm thương, trân trọng ý chí con người.
+ Niềm cảm phục của tác giả về sự hy sinh của thế hệ đi trước để tạo niềm tin cuộc sống cho thế hệ kế tiếp.
=> Ý nghĩa tư tưởng:
Khám phá và ca ngợi tính cách Nga, đó là sự cứng rắn ý chí kiên cường có niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống và
tâm hồn nhân hậu sâu sắc.
Số phận con người của Sô-lô-khốp đã khiến ta suy nghĩ nhiều hơn đến số phận của từng con người cụ thể sau
chiến tranh. Tác phẩm đã khẳng định một cách viết mới về chiến tranh: không né tránh mất mát, không say với chiến thắng
mà biết cảm nhận chia sẻ những đau khổ tột cùng của con người sau chiến tranh. Từ đó mà tin yêu hơn đối với con người.
Số phận con người khẳng định sức mạnh của lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm, nghị lực con người. Tất cả những điều đó
sẽ nâng đỡ con người vượt lên số phận
II/ Đặc sắc nghệ thuật :
- Kiểu truyện lồng truyện, hai người kể chuyện (tác giả và nhân vật). Nhờ đó, đảm bảo tính chân thực, tạo ra một
phương thức miêu tả lịch sử mới: lịch sử trong mối quan hệ mật thiết với số phận cá nhân.
- Sáng tạo nhiều tình huống nghệ thuật, nhiều chi tiết, tình tiết để khám phá chiều sâu tính cách nhân vật.
Số phận con người có sức rung cảm vô hạn của chất trữ tình sâu lắng. Nhà văn đã sáng tạo ra hình thức tự sự độc đáo,
sự xen kẽ nhịp nhàng giọng điệu của người kể chuyện (tác giả và nhân vật chính). Sự hoà quyện chặt chẽ chất trữ tình của
tác giả và chất trữ tình của nhân vật đã mở rộng, tăng cường đến tối đa cảm xúc, nghĩ suy và những liên tưởng phong phú
cho người đọc.
Câu 4: Nêu chủ đề của truyện ngắn “Số phận con người” (Sô-lô-khốp)
Số phận con người tập trung khám phá nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh. Song, tuy viết về nhưng đau
thương, mất mát mà chiến tranh gây ra, tác giả vẫn giữ vững niềm tin ở tính cách Nga kiên cường cũng như lòng tin ở cuộc
sống bao dung./.
HAI BỐ CON XÔ-CÔ-LỐP VÀ VA-NI-A
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
23
Ơ-nit Hê-minh-uê
và “ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ” (trích)

NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA

Câu 1: Hãy cho biết tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Hê-minh-uê?
1) Tiểu sử: Ơ-nit Hê-minh-uê (1899- 1961):
- Sinh trưởng trong gia đình khá giả tại một thành phố
nhỏ ngoại vi Chi cagô nước Mỹ.
- Ông yêu thích thiên nhiên hoang dại: thuở nhỏ
thường theo cha tới vùng núi rừng, thích phiêu lưu mạo
hiểm.
- Từng nhập ngũ trong Thế chiến I, Thế chiến II.
- 18 tuổi bước vào nghề phóng viên, từng có mặt ở
chiến trường Ý, Tây Ban Nha, Pháp, làm phóng viên
mặt trận, dựng phim, viết kịch.
- Ông chủ yếu sống ở Cu-ba, quen nếp sống giản dị
của người dân chất phác.
- Mất năm 1961 tại đây.
=> Nhà văn Mĩ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn
xuôi hiện đại phương Tây và góp phần đổi mới lối viết
truyện, tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới.
2) Sự nghiệp sáng tác:
Tác phẩm chính:
+ Tiểu thuyết nổi tiếng của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn
mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai
(1940). Ông già và biển cả (1952)
+ Truyện ngắn của Hê-minh-uê được đánh giá là
những tác phẩm mang phong vị độc đáo hiếm thấy. Mục
đích của nhà văn là "Viết một áng văn xuôi đơn giản và
trung thực về con người".
+ Ông là người đề xướng nguyên lý “tảng băng trôi”
(bảy phần chìm, một phần nổi) trong tác phẩm văn học:
nhà văn không công khai phát ngôn ý tưởng của mình mà
xây dựng hình tượng có sức gợi để người đọc rút ra phần ẩn

ý. Một trong những biểu hiện của nguyên lý trên là độc thoại
nội tâm, dùng ẩn dụ, biểu tượng
+ Hê-minh-uê được tặng Giải Pu-lit-dơ (1953)-giải
thưởng văn chương cao nhất của Hoa Kì và Giải
thươngNô-ben về văn học (1954)
Câu 2: Nêu xuất xứ, hoàn cảnh ra đời và tóm tắt tác
phẩm “Ông già và biển cả” của Hê-minh-uê?
1) Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời:
+ Năm 1952, sau gần 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê
cho ra đời tác phẩm “Ông già và biển cả”. Bối cảnh của tác
phẩm là ngôi làng chài yên ả bên cảng La-ha-ba-na. Phu-en-
téc, một thuỷ thủ trên con tàu của ông, được xem là
nguyên mẫu của Xan-ti-a-gô. Trước khi được in
thành sách, truyện đã được đăng trên tạp chí Đời
sống.
+ Tác phẩm gây tiếng vang lớn và hai năm sau
Hê-minh-uê được trao giải Nô-ben.
2) Tóm tắt tác phẩm :
Chuyện kể về ông lão đánh cá vùng nhiệt
lưu tên là Xan-ti-a-gô, tám mươi bốn ngày liền
không kiếm được con cá nào. Thế rồi lão một mình
ra khơi và một con cá kiếm lớn mắc câu. Sau cuộc
vật lộn ba ngày hai đêm cực kỳ căng thẳng và nguy
hiểm, lão bị nó quẫy mạnh ngã vập cả mặt, máu
chảy đầy cả má, hai bàn tay bị dây câu cứa nát ứa
máu. Cuối cùng lão cũng giết được con cá kiếm.
Nhưng lúc quay vào bờ, từng đàn các mập hung dữ
theo rỉa thịt con cá. Lão phải đơn độc chiến đẫu đến
kiệt sức với lũ cá mập. Tuy vậy, lão vẫn nghĩ “không
một ai cô đơn nơi biển cả”. Khi vào đến bờ, con cá

kiếm “dài hơn chiếc thuyền có tới sáu bảy tấc” chỉ
còn trơ bộ xương. Ông rã rời trở về lều, nằm trên
giường ông nghĩ: “chẳng là gì cả, ta đã đi quá xa”,
trong giấc ngủ lại “mơ về những con sư tử”.
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
24
NGUYENVANSINH TRUONGPTCAP2-3ĐAKIA
Câu 3: Nêu chủ đề truyện ngắn “Ông già và biển cả”
của Hê-minh-uê?
Thông qua hình ảnh ông lão Xan-ti-a-gô quật cường,
người chiến thắng con cá kiếm bằng kĩ năng nghề nghiệp
điêu luyện, Hê-minh-uê gửi gắm một thông điệp: trong bất
cứ hoàn cảnh nào “con người có thể bị huỷ diệt nhưng
không hề bị đánh bại”.
Câu 4: Nêu vị trí xuất xứ, tóm tắt đoạn trích, Ý nghĩa
biểu tượng trong đoạn trích Ông già và biển cả của
Hê-minh-uê Ngữ văn 12?
1) Xuất xứ- vị trí đoạn trích:
+ Đoạn trích nằm ở cuối truyện.
+ Đoạn trích kể về việc ông lão Xan-ti-a-gô rượt đuổi và
khuất phục được con cá kiếm
+ Đoạn văn tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của Hê-
minh-uê: luôn đặt con người đơn độc trước thử thách. Con
người phải vượt qua thử thách vượt qua giới hạn của chính
mình để luôn vươn tới đạt được mước mơ khát vọng của
mình. Hai hình tượng ông lão và con cá kiếm đều mang ý
nghĩa biểu tượng gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm.
Đoạn văn tiêu biểu cho nguyên lý “Tảng băng trôii”của
Hê-minh-uê.
2) Ý nghĩa biểu tượng trong đoạn trích Ông già và biển

cả của Hê-minh-uê:
+ Ông lão và con cá kiếm. Hai hình tượng mang một vẻ
đẹp song song tương đồng trong một tình huống căng thẳng
đối lập.
+ Ông lão tượng trưng cho vẻ đẹp của con người trong
việc theo đuổi ước mơ giản dị nhưng rất to lớn của đời
mình.
+ Con cá kiếm là đại diện cho tính chất kiêu hùng
vĩ đại của tự nhiên.
+ Trong mối quan hệ phức tạp của thiên nhiên với
con người không phải lúc nào thiên nhiên cũng là kẻ
thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa
là đối thủ. Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ
vừa bình thường giản dị nhưng đồng thời cũng rất
khác thường, cao cả mà con người ít nhất từng theo
đuổi một lần trong ./.
Câu 1. Nêu vài nét về tác giả Trần Đình Hượu?
a) Tiểu sử:
- Trần Đình Hượu (1926- 1995)
- Quê: xã Võ Liệt – Thanh Chương- Nghệ An.
- Là nhà nghiên cứu lịch sử, văn học Việt Nam trung cận đại
- Là một chuyên gia về các vấn đề văn hóa, tư tưởng Việt Nam.
- Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, tư tưởng có giá trị.
b) Các tác phẩm chính:
+ Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900- 1930.
+ Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại(1995)
ONTAPNGUVAN12-HKII NAMHOC 2009-2010
25
NHÌN VỀ VỐN VĂN HÓA DÂN TỘC (trích)
-Trần Đình Hượu-

×