Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.77 KB, 25 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
LỜI MỞ ĐẦU
Một con thuyền nhỏ bé mỏng manh đang lênh đênh trên đại dương bao la,
rộng lớn. Một con thuyền đang mất phương hướng giữa đại dương trong một
không gian mịt mù không một ánh đèn, chỉ có những tia sáng nhỏ ánh lên từ mắt
của những người thủy thủ và một luồng sáng rực rỡ phát ra từ đôi mắt sâu thẳm
của vị thuyền trưởng. Số phận của đất nước Việt Nam trong những ngày tháng
nô lệ ấy chẳng khác nào con thuyền đang lênh đênh trên đại dương bao la không
xác định được phương hướng. Tuy nhiên “thất bại chưa thua, đầu hàng mới
thua”,”còn nước còn tát”. Trong thời điểm đen tối ấy vẫn có rất nhiều những
người con anh hùng của đất nước An Nam nhỏ bé đi tìm đường cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc người anh hùng Nghệ An, một người An Nam nhỏ bé nhưng
đã làm chấn động cả thế giới với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị thuyền trưởng đã đưa con thuyền cách mạng Việt
Nam đến với bến bờ thành công, đất nước Việt Nam đến với bến bờ độc lập, tự
do, hạnh phúc- đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở để sáng tạo nên tư tưởng
của chính mình: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. Tư tưởng Hồ Chí Minh là chiếc
“la bàn” đã đưa cách mạng Việt Nam đến bến bờ thành công và hơn thế nữa.
Với tư tưởng đúng đắn sáng tạo- tư tưởng Hồ Chí Minh- đã đưa xã hội Việt
Nam đến bến bờ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, một vùng đất mà ở đó mọi người dân
đều làm chủ, mọi tài sản đều là của chung, một xã hội không có giai cấp, không
có bóc lột, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên mặc dù chúng
ta đang ở trên bến bờ xã hội chủ nghĩa nhưng một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh thì vẫn đang là mục tiêu phấn đấu của Đảng và dân ta.
Trên cơ sở đó mà nhóm chúng em đã chọn và tiến hành nghiên cứu “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam”, em mong rằng đề tài sẽ giúp người đọc biết rõ hơn về con
đường mà chúng ta đang đi và nhận thức về nó sâu sắc hơn, từ đó sẽ xác định
được những nhiệm vụ mà chúng ta cần phải làm trong tương lai. Đề tài nhóm
em nghiên cứu có kết cấu như sau:
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ


1
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội .
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Ở bài báo cáo này nhóm em sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh,
phân tích… Trong quá trình làm bài, chúng em đã rất cố gắng nhưng do trình độ
và sự hiểu biết về lĩnh vực này còn hạn chế, vì vậy bài viết này chắc chắn sẽ
không tránh được những thiếu sót hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự
đóng góp, hướng dẫn thêm của các cô.
Chúng em cũng xin chân thành cám ơn cô Phan Thị Thanh Lý đã tận tình
hỗ trợ, giảng dạy, chỉ dẫn nhóm em nói riêng và các bạn sinh viên nói chung
trong quá trình học, cũng như thực hiện bài báo cáo này.
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
2
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI:
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam:
Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về chủ nghĩa xã hội từ phương diện
kinh tế.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, vận dụng sáng tạo và đưa ra nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam.
Người khẳng định vai trò quyết định của sức sản xuất đối với sự phát triển của
xã hội cũng như đối với sự chuyển biến từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trên cơ sở
nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các giá trị đặc thù
mang tính nhân bản thấm sâu vào các quan hệ xã hội. Bác cũng khẳng định, trong

lịch sử loài người có 5 hình thức quan hệ sản xuất chính, và nhấn mạnh “ không
phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các bước phát triển tuần tự như vậy”.
Bác sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về chủ nghĩa xã hội từ khát vọng giải
phóng dân tộc, nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để và xu hướng
phát triển của thời đại.
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
3
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là tìm
một ý thức hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. (Bậc cách mạng tiền bối hoặc là
có ý thức giành độc lập dân tộc lại không có ý thức canh tân đất nước; hoặc là
có ý thức canh tân đất nước lại kém ý thức chống Pháp). Cách mạng Việt Nam
đòi hỏi có một giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư
tưởng độc lập, có ý thức tổ chức và trở thành giai cấp tự giác đứng lên làm cách
mạng. Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy phong trào yêu nước Việt Nam đang rơi vào
khủng hoảng về đường lối, vì vậy cách mạng chưa đem lại giải phóng dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Cách mạng tháng mười Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện
thực cho giải phóng dân tộc ở phương Đông: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng CNXH trong dân.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức,
hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn mác- xít. Chủ nghĩa xã hội là đối lập
với chủ nghĩa cá nhân.
Giải quyết tốt quan hệ cá nhân và xã hội theo quan điểm của C. Mác và
Ph. Ăngghen trong bản tuyên ngôn của Đảng Cộng sản mà hai ông công bố
tháng 2/ 1848: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển

tự do của tất cả mỗi người.
Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về từ tr chủ nghĩa xã hội truyền
thống lịch sử, văn hoá và con người Việt Nam.
Qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng là quá trình xây
dựng một nền văn hóa mà trong đó kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị
truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng nghìn năm của dân tộc ta, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Từ đặc điểm lịch sử dân tộc: Nước ta không trải qua thời kỳ chiếm hữu nô
lệ, mang đậm dấu ấn phong kiến phương Đông, mâu thuẫn giai cấp không gay
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
4
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
gắt, quyết liệt, kéo dài, như ở phương Tây, do đó hình thành Quốc gia dân tộc từ
sớm; Ngay từ buổi đầu dựng nước, chúng ta liên tục phải đấu tranh chống ngoại
xâm, hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống; Là nước nông nghiệp, lấy đất
và nước làm nền tảng với chế độ công điền hình thành cộng đồng thêm bền chặt.
Tất cả điều này là giá trị cơ bản của tinh thần và tư tưởng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam: Tinh thần yêu nước, yêu thương đùm bọc trong hoạn nạn đấu tranh,
cố kết cộng đồng Quốc gia dân tộc.
Từ truyền thống văn hoá lâu đời, bản sắc riêng: đó là nền văn hoá lấy
nhân nghĩa làm gốc, trừ độc, trừ tham, trọng đạo lý; nền văn hoá mang tính dân
chủ; có tính chất khoan dung; một dân tộc trọng hiền tài; hiếu học...Hồ Chí
Minh quan niệm, chủ nghĩa xã hội là thống nhất với văn hoá, “chủ nghĩa xã hội
là giai đoạn phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và giải
phóng con người”.
Từ tư duy triết học phương Đông: coi trọng hoà đồng, đạo đức nhân
nghĩa. Về phương diện đạo đức, Người cho rằng: chủ nghĩa xã hội đối lập với
chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh nhận thức về chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động tổng hợp
của các nhân tố: truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị,

đạo đức, văn hoá. Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận về chủ
nghĩa xã hội, đóng góp vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội từ tư duy độc lập, sáng tạo, tự
chủ.
Đặc điểm của định hướng tư duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ
sở thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học và
tình cảm cách mạng. Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hoá.
 Hồ Chí Minh nhận thức tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội
là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện đại; dân
tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hoá.
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
5
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội:
 Quan điểm của các nhà kinh điển.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thì chủ nghĩa xã hội
không phải là một hình thái kinh tế -xã hội mà chỉ là một giai đoạn, một trình độ
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lênin viết: “Xã hội
cộng sản, đó là một xã hội trong đó tất cả là của chung: ruộng đất, nhà máy, lao
động chung của mọi người”. Tuy nhiên, khi gọi chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa
cộng sản thì Lênin đã khẳng định rằng đó chưa phải là chủ nghĩa cộng sản phát
triển trên những cơ sở của chính nó, chưa phải là chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn.
Mà trái lại, đó mới chỉ là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Khi giải thích những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin viết:
“... Về mặt khoa học, thì sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản thật là rõ ràng. Cái mà người thường gọi là chủ nghĩa xã hội, thì C.Mác gọi
là giai đoạn “đầu” hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa xã
hội với tư cách là một giai đoạn, một nấc thang của xã hội mới, là xã hội trực
tiếp phát sinh ra từ chủ nghĩa tư bản thì nó không chỉ đối lập một cách chung

chung với chủ nghĩa tư bản mà nó còn là một xã hội phát triển cao hơn, tốt đẹp
hơn so với chủ nghĩa tư bản. Điều này được thể hiện ở chỗ, chủ nghĩa xã hội sẽ
tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản bởi mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là vì con người.
Trên cơ sở đó, chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định rằng, xét cho đến
cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, quyết định nhất cho thắng lợi
của chế độ mới. Chủ nghĩa tư bản đã lật đổ được chế độ phong kiến bởi nó đã
tạo ra một năng suất lao động cao hơn chưa từng thấy so với chế độ phong kiến.
Do đó, chủ nghĩa tư bản cũng có thể bị lật đổ, bởi chủ nghĩa xã hội tạo ra một
năng suất lao động mới, cao hơn nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Và một điều nữa
là, khác với chủ nghĩa tư bản, những sản phẩm của chủ nghĩa xã hội được làm ra
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
6
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
là nhằm đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của mọi thành viên trong xã hội
chứ không nhằm nô dịch con người.
Và để phân biệt sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản,
Lênin đã đưa ra một số phác thảo về chủ nghĩa xã hội, được thể hiện ở những
điểm sau:
Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí.
Lênin đánh giá rất cao vai trò to lớn của nền đại công nghiệp cơ khí đối với chủ
nghĩa xã hội. Trong đó, ông đặc biệt chú ý đến vai trò của điện lực đối với công
cuộc xây dựng xã hội mới. Bởi, ông coi điện lực chính là cơ sở kỹ thuật mới để
xây dựng kinh tế, là cơ sở để xây dựng nền sản xuất hiện đại. Do đó, không phải
ngẫu nhiên mà Lênin đã viết rằng: Chủ nghĩa cộng sản là Chính quyền xô- viết
cộng với điện khí hóa toàn quốc. Và nếu nước Nga được bao phủ bằng một
mạng lưới dày đặc các trạm phát điện thì công cuộc xây dựng kinh tế cộng sản
chủ nghĩa ở Nga sẽ trở thành kiểu mẫu cho châu Âu và châu Á xã hội chủ nghĩa
trong tương lai.
Như vậy, Lênin đã cụ thể hóa về cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là

nền đại công nghiệp cơ khí. Nhưng theo Lênin, bản thân nền đại công nghiệp
hiện đại không dung hợp với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa; nó đòi hỏi phải thủ
tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất.
Hai là, chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới.
Trong những luận giải của mình về chủ nghĩa xã hội, Lênin còn nêu thêm
nguyên nhân chủ nghĩa xã hội đã tạo ra được một năng suất lao động cao hơn so
với chủ nghĩa tư bản là do những yếu tố vốn có của chủ nghĩa xã hội, yếu tố này
không thể có được trong lòng chủ nghĩa tư bản. Đó là cách tổ chức lao động và
kỷ luật lao động mới.
Lênin khẳng định kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là kỷ luật
roi vọt; kỷ luật của chủ nghĩa tư bản là kỷ luật đói; còn kỷ luật của chủ nghĩa xã
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
7
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
hội là kỷ luật tự giác. Theo ông, kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa xã
hội sở dĩ cao hơn so với kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa tư bản là vì
nó dựa vào một kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao
động. Song, theo Lênin, để có được cách tổ chức lao động mới thì cần phải thực
hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát toàn dân.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ
nghĩa tư bản nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới. Hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động đó được thực hiện trên cơ
sở của sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối sản
phẩm.
Ba là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Theo Lênin, phân phối theo lao động là cách thức phân phối trong giai
đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách thức phân phối theo lao động là
thích hợp nhất với chủ nghĩa xã hội, bởi vì nó được dựa trên chế độ công hữu về

tư liệu sản xuất. Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi người làm được
bao nhiêu sản phẩm thì được hưởng hết bấy nhiêu. Trái lại, tổng sản phẩm do
lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu dùng cá nhân, cho cả
tích lũy tái sản xuất mở rộng và cho cả tiêu dùng công cộng của xã hội. Tiêu
dùng cá nhân chỉ là một phần trong tổng sản phẩm do lao động của người công
nhân làm ra. Tuy nhiên, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên
thực tế, những phần không phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân những
người công nhân vẫn thuộc về họ, vẫn nhằm đảm bảo lợi ích cơ bản, lâu dài,
chung cho mọi thành viên trong xã hội.
Lênin chỉ rõ cách phân phối sản phẩm theo lao động được dựa trên hai
nguyên tắc: “người nào không làm thì không ăn”; “số lượng lao động ngang
nhau thì hưởng số sản phẩm ngang nhau”.
Do đó, Lênin cho rằng xã hội cần phải kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt
mức độ lao động và mức độ tiêu dùng của từng người bởi dưới chủ nghĩa xã hội
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
8
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
vẫn còn nhiều người trốn tránh lao động, muốn làm ít hưởng nhiều, tránh việc
nặng tìm việc nhẹ…
Bốn là, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Lênin đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa. Bởi, ông cho rằng chính chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là
nguyên nhân gây ra mọi đau khổ của quần chúng nhân dân lao động. Do đó, để
giải phóng người lao động thì cần phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Lênin khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc
cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã

hội chủ nghĩa...”. Đồng thời, Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa xã hội không hề
xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của mọi công dân mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở
hữu của bọn địa chủ và tư bản.
Như vậy, Lênin cũng coi một trong những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
xóa bỏ chế độ tư hữu, nhưng không phải chế độ tư hữu nói chung mà là chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở
hữu của quần chúng nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc
lột, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện..
Tiếp thu những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong các tác phẩm
của mình, Lênin đã khẳng định sự áp bức, bóc lột là tai họa lớn đối với người
lao động. Sự thay thế của các xã hội trước chủ nghĩa xã hội chẳng qua cũng chỉ
là sự thay thế của các hình thức áp bức, bóc lột đối với người lao động mà thôi.
Chỉ đến chủ nghĩa xã hội thì con người mới có khả năng được giải phóng khỏi
các hình thức áp bức và bóc lột đó khỏi tình trạng dân tộc này thống trị dân tộc
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
9
Tư tưởng Hồ Chí Minh Lớp: DA08KTD
khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự gần gũi và sự hợp nhất
giữa các dân tộc.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội thực hiện sự bình đẳng xã hội.
Lênin khẳng định rằng cơ sở của mọi sự bất bình đẳng xã hội và bất bình
đẳng chính trị là do sự phân chia xã hội thành giai cấp gây ra. Do đó, để xóa bỏ
mọi bất bình đẳng xã hội và bất bình đẳng chính trị thì cần phải xóa bỏ sự phân
chia xã hội thành giai cấp; và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được vấn
đề đó. Sở dĩ Lênin khẳng định như vậy là vì dưới chủ nghĩa tư bản nền kinh tế
thị trường không những còn tồn tại mà quyền lực của đồng tiền và sức mạnh của
tư bản còn được giữ vững. Khi quyền lực của đồng tiền còn được giữ vững thì
không thể nói đến sự bình đẳng được. Từ đó, ông đã chỉ ra rằng không những
ruộng đất, mà cả lao động của con người, bản thân con người, lương tâm, tình

yêu và khoa học, tất cả nhất định đều để bán chừng nào còn quyền lực của tư
bản.
Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề bình đẳng dưới chủ nghĩa xã hội thì điều
đó không có nghĩa là sự ngang bằng nhau về mọi phương diện. Bởi, chủ nghĩa
xã hội không thể thực hiện được sự bình đẳng hoàn toàn về mọi mặt, đặc biệt là
sự bình đẳng về thể lực và trí lực của các cá nhân. Trái lại, khi nói tới bình đẳng
trong chủ nghĩa xã hội thì phải luôn hiểu rằng đó là sự bình đẳng xã hội, bình
đẳng về địa vị xã hội của con người.
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thực hiện sự bình đẳng hoàn toàn,
sự bình đẳng về mọi phương diện, bởi vì dưới chủ nghĩa xã hội vẫn thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động, vẫn còn sự khác biệt giữa các giai cấp, sự
khác biệt giữa nông thôn và thành thị, v.v... Những khác biệt đó cho thấy còn
tồn tại những bất bình đẳng xã hội. Mặc dù vậy, chủ nghĩa xã hội vẫn là xã hội
bình đẳng hơn so với chủ nghĩa tư bản. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự
bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Quá trình phát triển
của chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá trình khắc phục và xoá bỏ dần những bất
bình đẳng trong xã hội.
GVHD: PHAN THỊ THANH LÝ
10

×