Phần mở đầu vào bài.
I. Tìm hiểu về đạo đức cách mạng.
Đạo đức là gì?
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội,
nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong quan
hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm quan hệ lợi ích của cá
nhân và cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Đạo
đức nảy sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và hình thức biểu
hiện là nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực này định hướng, đánh giá điều chỉnh hành vi của con
người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội nhất định, góp phần bảo vệ kỷ
cương xã hội. Bất cứ một chế độ xã hội nào cũng đặt ra việc điều chỉnh
hành vi con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, đạo đức được
xem là tiến bộ khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ của xã hội.
Đạo đức cách mạng là gì?
Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra
thuật ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa
khái niệm đạo đức cách mạng, phân tích nội dung bản chất của đạo đức
cách mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của đạo đức truyền
thống Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục
vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách
mạng của con người Việt Nam mới.
1. Quan niệm về vai trò đạo đức Cách Mạng.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách
mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. người không để lại
những tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về
đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt
rất cô đọng hàm súc theeo phong cách phương Đông, rất quen thuộc
với on người Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất và
nhiều nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói,
lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được
thế giới biết đến và ghi nhận.
2. Nguồn gốc tư tưởng đaoh đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong thời kì lịch sử, đồng
thời kế thừa tư tưởng đạo đức Phương Đông, những tinh hoa đạo đức
của nhân loại, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của
Mác- Lenin, cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà ông
kể lại.
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng
quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, đưa vào đó những nội dung
mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức mới
của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa
nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi
người dân Việt Nam đều cảm thấy gần gũi. Việc tiếp thu những tinh hoa
nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được
đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam
trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng
nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những
giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
3. Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Nhưng vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minhxem xét một cách toàn
diện:
- Đối với mọi đối tượng – từ công nhân nông dân đến trí thức, văn
nghệ sĩ, từ các cụ phụ lão đến thanh thiếu niên nhi đồng, đồng bào
các dân tộc, tôn giáo… Cùng với việc đề cập đạo đức công dân,
Người đặc biệt quan tâm đến đạo đức của các cán bộ Đảng viên.
- Trên mọi lĩnh vực hoạt động của Người- từ đời tư đến đời công,
cũng như sinh hoạt học tập lao động, chiến đấu lãnh đạo quản lý…
- Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng- từ gia đình đến xã hội, từ giai
cấp đến dân tộc, từ các vùng miền địa phương đến cả nước, từ
quốc gia đến quốc tế.
4. Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới theo quan điểm Hồ Chí Minh.
a, Trung với nước hiếu với dân.
Trung - Hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống
Việt Nam và Phương Đông, khái niệm này ăn sâu bám rễ trong tâm hồn
ngưới Việt Nam.
+Trung là trung với Vua, Khổng Tử đưa ra một cặp mệnh đề
“Vua Minh, Tôi Trung” nói lên quan hệ hai chiều và tác động lẫn nhau,
đến Đổng Trọng Thư thời nhà Hán với chế độ phong kiến TW tập quyền
thì Trung với vua là một yêu cầu vô điều kiện, “Quân xử thần tử thần bất
tử bất trung” vua có tàn bạo thì vẫn phải nghe lệnh.Đạo đức phong kiến
trong thời này nhằm bảo vệ tôn ti trật tự của nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền.
Trong lịch sử Việt Nam,tư tưởng Trung quân cũng tồn tại như ở
những nước Phương Đông chiụ ảnh hưởng của Nho giáo , song tư tưởng
Trung Quân của Việt nam gắn bó rất chặt chẽ với tư tưởng Ái Quốc (vì
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị cao nhất trong bảng thang các giá
trị, nếu như vua hèn, vua Rước Voi Giày Mả Tổ ,Vua “cõng rắn cắn gà
nhà” thì lòng trung quân sẽ tan vỡ, đó cũng là một đặc điểm của tư tưởng
trung quân ở Việt Nam.“Dãy Trường Sơn thăm thẳmNước Đại Hải đại
ngàn .Vua An Nam theo giặc .Cho dân tình cơ hàn”.(Vè Nghệ Tĩnh),
Kế thừa khái niệm Trung của phương Đông nói chung và Việt
Nam nói riêng. Hồ Chí Minh đã nâng lên tầm nội dung của khái niệm
này “Trung với nước” – Trung với nước được coi là phẩm chất cao nhất
của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới.
+ Hiếu:
Hiếu là một phẩm chất đạo đức quan trọng được hình thành trong
gia đình ở mối quan hệ giữa cha mẹ – con cái, nêu lên nghĩa vụ của con
cái đối với cha mẹ. Hiếu là điều kiện để duy trì mối quan hệ gia đình.Cha
mẹ nào ở bất kỳ thời đại nào cũng cần những người con có hiếu, Khổng
Tử có cặp mệnh đề: “Phụ tử – Tử hiếu” (Cha hiền – con hiếu thảo) -
cũng nói lên mối quan hệ hai chiều giữa cha – con. Đến Đổng Trọng Thư
– thời nhà Hán – quan hệ cha – con trong đạo tam cương được hiểu một
chiều khắc khe ‘Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”. Trong lịch sử
Việt Nam chưa có nghe thấy, chưa có trường hợp nào ghi nhận, cha bắt
con chết vì ý thích vô lý của cha và cũng chưa thấy con nào bằng lòng
chết vì mong muốn vô lý của cha. Quan hệ của cha con Việt Nam gắn
kết hài hòa giữa nhân nghĩa với hiếu để.
Hồ Chí Minh kế thừa, khái niệm Hiếu và phát triển lên với nội
dung mới “ Hiếu với dân”.Hiếu với cha mẹ mình và hiếu với cha mẹ cùa
tất cả mọi người.
Thế nào là Trung với nước, Hiếu với dân?
Trung với nước là trung với sự nghiệp xây dựng nước và giũ nước,
nước ở đây là nước với dân, nhân dân là chủ của đất nước, Hiếu với dân
là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ. Cán bộ đảng viên phải là
người đầy tớ trung thành với nhân dân. phẩm chất “trung với nước, hiếu
với dân” là phẩm chất bao trùm và quan trọng nhất chi phối các phẩm
chất khác. Hồ Chí Minh yêu cầu cao phẩm chất này ở tất cả các đối
tượng.
Chữ Trung chữ Hiếu là những chữ ăn sâu bám rễ vào tâm hồn
con người Việt Nam. Hồ Chí Minh sử dụng từ này và nâng lên một nội
dung mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới vừa thể hiện tốt truyền
thống, vừa thể hiện tính cách mạng,dễ hiểu, dễ nghe, dễ tiếp nhận.
b, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
(đối với người dân và đối với người cán bộ có những nội dung khác
nhau)
Đối với người dân , Người giải thích:
Cần: “Là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai… Tục ngữ ta có
câu: “Nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ. Dao siêng mài thì sắc bén,
Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt… Mọi người điều phải cần, cả nước đều
phải cần.” [T5-234]Song người cũng lưu ý.Cần không có nghĩa cần là “
làm cố sống, cố chết trong một ngày, một tuần, một tháng đến nổi sinh
ốm đau, phải bỏ việc như vậy không phải là cần” [T6-226]như vậy quan
niệm của Hồ Chí Minh về chữ cần là bao hàm cả cái trí,nghĩa là phải lao
động có kế hoạch,sáng tạo và có năng xuất cao.
Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm
tiền của của nhân dân,của nước và của bản thân mình.“tiết kiệm là không
xa xí, không hoang phí bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn… Việc
đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là kiệm”.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ kiệm là bao hàm cả cái trí,tiết
kiệm một cách khôn ngoan hợp lý.
Quan hệ giữa cần và kiệm ,Người viết “Cần với kiệm phải đi đôi với
nhau như hai chân của một con người. Cần không kiệm thì làm chừng
nào xào chừng ấy cũng như cái thùng không đáy, nước đổ vô chừng nào,
chảy ra hết chừng ấy, không lại hòan không … Kiệm mà không cần …
như cái thùng chỉ đựng một ít nước không tiếp tục đổ thêm vào lâu ngày
chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến khi khô kiệt” [T5-238]
“Liêm: Liêm trong liêm khiết là trong sạch, không tham lam …
Ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục
khoét dân thì gọi là Liêm. Chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp … Ngày nay,
nước ta là dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người
đều phải Liêm. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm
phải đi đôi với chữ cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham
lam” [T5-243]
( HCM từng nhắc một câu nói của Khổng tử: Người không Liêm không
bằng súc vật”)
“Chính, nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn … cần
kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có
nhành lá, hoa, quả, mới là cây hòan tòan. Một người phải cần, kiệm, liêm
nhưng còn phải chính mới là hoàn toàn”.
Đối với những người trong các công sở Hồ Chí Minh giải thích
nội dung của Cần - kiệm - liêm - chính như sau:
“Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho
chóng – cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày
mai. Phải nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta
trong những thì giờ đó, ai lười biếng tức là lường gạt dân.”
“Kiệm - giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của chính phủ, tức là của
dân, ta cần phải tiết kiệm … Nhờ các công sở tiết kiệm mà lợi cho dân
rất nhiều.
“Liêm – những người ở các công sở, từ làng cho đến chính phủ
trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của chính phủ, hoặc
đục khoét nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt mất hết cả danh giá, mà của
phi nghĩa đó không được hưởng. Vì vậy, những người trong công sở phải
lấy chữ Liêm làm đầu.”
“Chính – mình là người làm việc công, phải có công tâm, công
đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc
công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư
huệ, hoặc tư thù tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những
người có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào
chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn
mình, phải trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm
quan cách mạng”{t4-336}
. Những người trong các công sở tức trong bộ máy nhà nước “tức đều có
nhiều hoặc ít quyền hành nếu không gữi đúng cần, kiệm, liêm, chính dễ
trở nên hủ bại, biến thành sâu mọi của dân” [T4-326]
Cần kiệm liêm chính là thước đo văn minh tiến bộ của một dân
tộc. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vất
chất, mạnh mẽ tinh thần là một dân tộc văn minh tiến bộ, là đặc điểm của
một xã hội hưng thịnh, trái lại là đặc điểm của một xã hội suy tàn.
Chí công vô tư
Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn “mọi người vì mình”
mà không biết “mình vì mọi người” nó là một thứ nội xâm, còn nguy
hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất
độc, đẻ ra hàng trăm thứ nguy hiểm khác: quan liêu, bè phái, tham ô,
lãng phí, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chính
quyền.
Tuy nhiên cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân đâu là lợi
ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng
sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân của mỗi gia đình. Nếu
những lợi ích cá nhân đó không không trái với lợi ích của tập thể thì
không phải là xấu. Mỗi người hãy phát huy sở trường và tính cách riêng
của mình
Cần kiệm liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư, ngược lại đã chí
công vô tư một lòng vì nước vì dân, vì Đảng, không nghĩ đến bản thân
trước “thì nhất định sẽ thực hiện được cần kiêm liêm chính và có nhiều
tính tốt khác. “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà
những tính tot như sau ngày càng thêm … Nói tóm tắt, tính tốt ấy có 5
điều: Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm” [T5-251].
c, Yêu thương con người, sống có tình nghĩa.
Yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp mà Hồ Chí Minh
đòi hỏi phải có trong đạo đức cách mạng. Nếu không có tình yêu thương
con người thì không thể nói đến cách mạng,càng không thể nói đến
CNXH hayCNCS.Con người ở đây là những người cùng khổ, bạn bè,
đồng chí, những người lầm đường lạc lối đã hối cãi, tù binh chiến tranh
… Năm 1946, trước khi đi Pháp, Hồ Chí Minh viết thư căn dặn các chiến
sĩ và nhân dân Nam bộ rằng “Đối với những người lính Pháp bị bắt, phải
chú ý hai điều: một là phải canh phòng cẩn mật, hai là phải đối xử nhân
đạo với họ, để cho nhân dân Pháp hiểu rằng dân tộc Việt Nam là một dân
tộc văn minh, văn minh gấp trăm lần bọn xâm lược nước ta”.
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của
nhân loại chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con
người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã
hội.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại
đa số nhân dân, nhưng người lao động bình thường trong xã hội, những
người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi
việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu đạt cho
được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với chính mình thì chặt
chẽ, nghiêm khắc với người thì khoan dung, đọ lượng, rộng rãi, nâng con
người lên, kể cả với những người lầm đường lạc lối, mắc sai lầm, khuyết
điểm. Cùng giúp đỡ nhau để ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Lòng yêu thương quý trọng con người được thể hiện trong các
quan hệ hàng ngày với mọi người ,chẳng những đòi hỏi ứng xử với con
người theo tinh thần “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” mà còn đòi hỏi mọi
người phải nghiêm khắc chặt chẽ với mình, rộng rãi , độ lượng với người
khác , đòi hỏi phải nâng phẩm giá con người lên, phát huy cái tốt để đi
đến hạn chế cái xấu. Không được hạ thấp ,kìm hãm khả năng vươn lên
chân thiện mỹ của con người.Sự yêu thương con người trong đạo đức