Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.01 KB, 8 trang )

Mở đầu
Thế kỷ 21 đang diễn ra trớc mắt chúng ta với nhiều thách thức và cơ hội,
đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với kinh tế nhà nớc ta - một thành phần
kinh tế chủ đạo nói riêng.
Từ năm 1986 đến nay, Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII của Đảng
đều xác định kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, tuy nhiên quan điểm đó đợc xác
định theo t duy mới. Đặc biệt trong thời kì đổi mới ngày nay, đứng trớc cơn gió
hội nhập của khu vực và thế giới thì việc xác định chỗ đứng của TPKT này đang
trở thành vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và cấp bách.
Để tìm hiểu những thành tựu to lớn mà TPKT này đã đạt đợc, cũng nh
những hạn chế còn thiếu sót, những kinh nghiệm quý báu trong việc sắp xếp lại
thành phần - cơ cấu, sự thay đổi phơng thức sản xuất - quản lý, phơng châm chỉ
đạo trong các ngành, các lĩnh vực của kinh tế Nhà nớc, tôi quyết định chọn đề tài
này để nghiên cứu dới góc độ một bài tập lớn.
Nội dung bài viết gồm 2 phần:
Phần I: Quan niệm về Kinh tế Nhà nớc
Phần II: Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nớc.
Nội dung
I-Quan niệm về kinh tế nhà nớc
Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam xác định nớc ta hiện nay
dựa trên 3 hình thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu t
nhân hình thành nên 6 thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh
đa dạng, đan xen hỗn hợp, đó là: Kinh tế Nhà nớc, Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,
tiểu chủ, kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài.
Thành phần kinh tế Nhà nớc là thành phần kinh tế mà vốn và TLSX thuộc
sở hữu nhà nớc; Bao gồm các doanh nghiệp Nhà nớc và các tài sản thuộc sở hữu
nhà nớc nh; đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ, ngân hàng nhà
nớc, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Các doanh nghiệp Nhà nớc là bộ phận quan trọng nhất của kinh tế Nhà n-
ớc, giữ những vị trí then chốt, đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ, nêu cao gơng về năng suất, chất lợng hiệu quả kinh tế- xã hội và


chấp hành pháp luật.
Phân loại doanh nghiệp Nhà nớc
+Các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nhằm đảm bảo
phúc lợi xã hội nh các linh vực sản xuất phục vụ cho quốc phòng, an ninh, y tế,
giáo dục.
+Các doanh nghiệp kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. đóng vai trò quan
trọng trọng góp phần làm tăng trởng và phát triển kinh tế.
1
Chú ý phân biệt kinh tế Nhà nớc với doanh nghiệp nhà nớc. Doanh nghiệp
nhà nớc chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nớc. Còn kinh tế nhà nớc là
đặc trng của một loại hình sở hữu.
Con đờng hình thành kinh tế Nhà nớc:
Nhà nớc đầu t xây dựng mới các doanh nghiệp nhà nớc. Quốc hữu hoá các
doanh nghiệp t bản t nhân hoặc góp vốn cổ phần khống chế với các doanh nghiệp
t nhân.
*Phân biệt kinh tế Nhà nớc ở Việt nam với kinh tế Nhà nớc của CNTB
độc quyền.
Việt nam đang quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB,
nên tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nớc giẽ vai trò
chủ đạo, là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về t liệu sản xuất. Nhà nớc
chuyên chính vô sản đại diện cho nhân dân quản lý nó. Nhà nớc ta là nhà nớc của
dân, vì dân và do dân.
Còn dới CNTB độc quyền, nền kinh tế chịu sự thống trị của các tổ chức độc
quyền, phơng thức sản xuất TBCN dựa trên cơ sở của chế độ t hữu t nhân TBCN
về t liệu sản xuất. Nhà nớc là nhà nớc t sản, phục vụ cho lợi ích của giai cấp t sản,
bản chất của nhà nớc t sản vẫn là bọc lột lao động làm thuê
II-Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc
Thành phần kinh tế nhà nớc giữa vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt nam, là lực lợng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nớc
định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Trong thành phần kinh tế nhà nớc, các doanh nghiệp của nhà nớc giữ những
vị trí then chốt, đi đầu trong việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ,
nêu gơng về năng suất chất lợng sản phẩm, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành
luật pháp.
Biểu hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc
KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên
các mặt:
- Là đòn bày kinh tế quan trọng thúc đẩy tăng trởng quan trọng và giải
quyết những vấn đề xã hội. Nó chiếm giữ các ngành nghề mũi nhọn, then chốt của
nền kinh tế, có khả năng chi phối môi trờng xã hội và đảm bảo tính ổn định của
nền kinh tế.
- KTNN góp phần hết sức quan trọng vào việctạo ra sản phẩm cho xã hội và
nguồn thu ngân sách, tạo ra nguồn lực đáng kể trong tay nhà nớc để điều tiết quá
trình phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, KTNN còn đảm
bảo sức sản xuất và hoạt động của nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ xuất, nhập
khẩu đẩy nhanh tốc độ tăng trởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội nh việc
làm, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trờng, giảm thiểu những tiêu cực
trong đời sống.
Bằng nhiều hình thức hỗ trợ, giúp đỡ các TPKT khác cùng phát triển theo
định hớng XHCN, tính chất này của KTNN xuất phát từ vị trí chiến lợc và khả
2
năng chi phối đến môi trờng kinh tế - xã hội. Có những ngành có vai trò quan
trọng nh là những yếu tố đảm bảo, tác nhân kích thích cho sự phát triển các ngành
khác nh giao thông vận tải, thông tin liên lạc song do tính chất của những ngành
này mà các thành phần kinh tế khác hoặc là không đủ vốn, hoặc là gặp khó khăn
về quản lý trong thu hồi vốn, thu lợi nhuận nên không đầu t. Để khuyến khích mọi
TPKT đầu t sản xuất khu vực KTNN đứng ra tổ chức xây dựng những cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thợng tầng, tạo môi trờng hoạt động kinh doanh có hiệu quả. ở
đây vai trò chủ đạo của KTNN đợc thể hiện nh là yếu tố mở đờng, kích thích sự
phát triển toàn bộ theo định hớng nhất định.

Tăng cờng sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nớc thực hiện có hiệu lực
chức năng điều tiết cơ chế thị trờng. KTNN không những định hớng sản xuất, mà
còn chi phối các chính sách xã hội kiềm chế đợc khuynh hớng độc quyền và tự
phát của kinh tế thị trờng, bởi lẽ trong kinh tế thị trờng tồn tại nhiều thành phần
kinh tế khác nhau vừa có những tích cực đồng thời có cả những hạn chế tiêu cực,
do đó cần phải có một "bàn tay" can thiệp chỉ đạo và hạn chế khắc phục những
tiêu cực đó. ở đây chúng ta nói đến TPKT chủ đạo đảm nhận vai trò này - nó phải
có một sức mạnh vật chất đủ lớn mới có thể thực hiện tốt nhất. Với những đặc
điểm nh đã nói trên đây, chúng ta nhận thấy rằng KTNN có đủ khả năng để hoàn
thành nhiệm vụ đó, với sản lợng giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng tơng đối
lớn tạo ra đem lại khả năng chi phối đợc giá cả thị trờng, dẫn dắt và định hớng thị
trờng bằng chính chất lợng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp.
KTNN tạo dần nền tảng kinh tế - xã hội cho đời sống. Trong điều kiện nền
kinh tế nớc ta, thu nhập của dân c thấp kém, tích luỹ nhỏ nên việc đầu t lớn chỉ có
thể thực hiện đợc bằng vốn NN. Mặt khác, KTNN thông qua việc cung cấp hàng
hoá tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy lu thông phân phối giữa
các ngành và các khu vực, góp phần đảm bảo việc xoá đói giảm nghèo, tiến hành
các biện pháp trợ cấp thờng xuyên, đột xuất, cho vay vốn để phát triển sản xuất,
góp phần khắc phục sự khác biệt giữa các vùng và qua đó làm tăng tinh thần hoà
hợp cộng đồng và ý thức đoàn kết dân tộc.
III-Những giải pháp cơ bản phát huy vai trò chủ đạo
của Kinh tế Nhà nớc
1. Những thành tựu mà KTNN đã đạt đợc trong những năm qua
Thực tiễn cho thấy đến nay KTNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế
quốc dân ở nớc ta, nhất là các ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, bu chính viễn
thông, đờng sắt, hàng không KTNN cũng đóng góp một phần đáng kể vào tỉ
trọng GDP trên 40% hàng năm và là lực lợng chủ yếu cung cấp tài chính cho ngân
sách nhà nớc 60%.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, KTNN đang từng bớc đổi mới. Về cơ cấu
kinh tế đã có thay đổi lớn, tổng sản phẩm xã hội của KTNN giảm từ 37% năm

1998 xuống 34,5% năm 1990; thu nhập quốc dân giảm từ 28% xuống 27%; tổng
sản phẩm công nghiệp lại tăng từ 56,6% lên 57%; khối lợng vận chuyển hàng hoá
tăng từ 68% lên 72%. Trong việc thực hiện cơ chế mới, một số cơ sở KTNN đã
chủ động xác định và thay đổi phơng thức kinh doanh, tìm thị trờng đầu ra, tạo
3
thêm nguồn vốn đi vay, trình độ kỹ thuật công nghệ đã đợc đổi mới Nhờ đó, các
cơ sở KTNN vẫn phát triển và kinh doanh có lãi.
Do yêu cầu của thời kỳ đổi mới, từ năm 1989 thực hiện chủ trơng sắp xếp
lại doanh nghiệp Nhà nớc chúng ta đã mạnh dạn cắt giảm một lợng đáng kể doanh
nghiệp hoạt động trong KTNN nhng không đem lại hiệu quả kinh tế từ khoảng
12.000 năm 1990 xuống còn 5340 vào tháng 8 năm 2000. Nhờ đó, quy mô vốn tự
có và vốn ngân sách cấp cho các cơ sở doanh nghiệp tăng lên; các doanh nghiệp
có thêm vốn đầu t, hiện đại hoá máy móc thiết bị, giúp cho năng suất lao động
nâng cao đem lại hiệu quả kinh tế. Đồng thời, sau khi sắp xếp lại tổ chức sản xuất,
đổi mới cơ chế quản lý nhiều doanh nghiệp đã chủ động sáng tạo tiếp cận thị trờng
xã hội và đã đứng vững, sản xuất kinh doanh có lãi, nguồn thu nộp ngân sách nhà
nớc chiếm 61%.
(1)
2. Những hạn chế, vớng mắc trong quá trình phát triển
Trớc hết, do chủ quan, duy ý chí và nóng vội đi lên CNXH nên trớc năm
1986 chúng ta xoá bỏ mọi thành phần kinh tế mà chỉ tập trung phát triển kinh tế
nhà nớc.
Hiện nay, trên thực tế đã có một số cơ sở kinh tế quốc doanh phải ngừng sản
xuất vì chất lợng sản phẩm và hiệu quả kinh tế quá thấp không đáp ứng yêu cầu
của thị trờng, thậm chí có loại không có nhu cầu sử dụng.
Một biểu hiện tiêu cực của KTNN là nền tài chính xí nghiệp tồi tệ, do quy
mô nhỏ nên nhìn chung các DNNN đang đối mặt với tình trạng thiếu vốn để sản
xuất - kinh doanh. Thực tế vốn chỉ hoạt động khoảng 80%, số còn lại ở trong tình
trạng nằm chết. Tình trạng thiếu vốn làm cho DNNN không có khả năng đầu t, đổi
mới công nghệ, thiết bị, nên hàng hoá sản xuất ra kém tính cạnh tranh.

Bộ phận đội ngũ cán bộ trong các DNNN đa số từ cơ chế cũ chuyển sang
điều hành xí nghiệp trong cơ chế mới nên thiếu tác phong công nghiệp, thiếu kinh
nghiệm quản lý cũng nh kiến thức, trình độ năng lực của một nhà doanh nghiệp
giỏi.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Những nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của KTNN có thể khái quát
nh sau:
Nhà nớc ít vốn, song lại đầu t dàn trải, chủ yếu là giữ cho doanh nghiệp tồn
tại, chứ cha đủ sức phát triển và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng.
Chế độ phân phối trong xí nghiệp của KTNN không phù hợp với kết quả sản
xuất kinh doanh, không có sự gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích vật chất và trách nhiệm
vật chất với năng suất lao động do đó không khuyến khích đợc sản xuất.
Tuy chính phủ là ngời chủ sở hữu những t liệu sản xuất chủ yếu nhng sự
nắm bắt tình hình, điều hành quản lý không có hiệu quả cao, không có sự chăm lo
bảo toàn và phát triển vốn và không có ai chịu trách nhiệm trực tiếp khi mất mát,
thua lỗ.
Cán bộ quản lý chủ chốt thiếu tiêu chuẩn lãnh đạo, thiếu trách nhiệm trớc
tập thể cũng nh trớc cơ quan Nhà nớc.
(1)
Báo cáo của Bộ Tài chính về các chỉ tiêu chủ yếu, tháng 3-1993.
4
Nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh của các DNNN,
hiệu quả sản xuất không cao là do sự ỷ lại vào Nhà nớc, toàn bộ nguồn vốn, kế
hoạch phát triển không cao là do sự ỷ lại vào Nhà nớc, toàn bộ nguồn vốn, kế
hoạch phát triển do nhà nớc đặt ra nên sự sáng tạo, năng động của doanh nghiệp
mất hẳn. Bên cạnh đó vị trí độc quyền đã làm mất đi động lực quảntọng trong việc
nâng cao hiệu ủa hoạt động kinh doanh của các xí nghiệp nhà nớc. Sự độc quyền
đã làm khu vực KTNN trở nên trì trệ, kém năng động trong việc cải tiến, đổi mới
thiết bị, công nghệ và sản phẩm, tự nó trở thành nhân tố kìm hãm hoạt động của xí
nghiệp.

Nhà nớc cha có chính sách phù hợp trong đào tạo nhân công kỹ thuật tay
nghề cao trong các lĩnh vực các ngành nghề cần chuyên môn, mà chỉ chăm lo cho
bộ máy quản lý, dẫn đến tình trạng "nhiều thầy ít thợ". Đặc biệt cha có kế hoạch
đào tạo bồi dỡng các nhà doanh nghiệp về luật pháp, về kiến thức kinh doanh.
Trình độ trang bị cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ sản xuất của khu vực
KTNN nói chung là lạc hậu, chắp vá, công suất sử dụng máy móc thiết bị không
cao, năng suất và chất lợng sản phẩm thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trờng
thế giới.
Trong nhiều năm, KTNN đã đợc bao cấp. Trong hầu hết các lĩnh vực của
nền kinh tế, lực lợng KTNN giữ vị trí độc quyền, không có một lực lợng kinh tế
khác cạnh tranh, do đó khi chuyển sang cơ chế mới thì nhiều cơ sở KTNN không
thích nghi đợc với điều kiện mới. Đó cũng là một trong những nguyên nhân quan
trọng làm cho KTNN của nớc ta trì trệ và kém hiệu quả.
3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò chủ đạo của KTNN
Để tạo khả năng tăng trởng nhanh và có hiệu quả, các ngành KTNN cần tập
trung nguồn lực thích đáng để xây dựng các ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn
(công nghiệp năng, điện tử và tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới ). Những
ngành này phải đợc đầu t về vốn, lao động, kỹ thuật và công nghệ để tạo ra sự tăng
trởng và phát triển với tốc độ nhanh, đủ sức chiếm lĩnh trên thị trờng khu vực và
thị trờng quốc tế.
Chúng ta tiến hành cổ phần hoá một số DNNN nhằm thu hút vốn đầu t phát
triển chiều sâu cho công ty dựa trên các tiêu chí: Hiệu quả, đảm bảo xã hội, giữ
định hớng, khả năng về vốn tái đầu t của Nhà nớc Tuy nhiên cũng cần phân
định quá trình cổ phần hoá DNNN không phải là quá trình t nhân hoá KTNN mà
là thị trờng hoá nền kinh tế, không bao cấp, bù lỗ tràn lan, chúng ta chấp nhận
cạnh tranh và tiến hành cổ phần hoá những doanh nghiệp làm ăn kém hiệuquả.
Một mặt thông qua thị trờng sắp xếp lại KTNN. Mặt khác, Nhà nớc chủ động có
biện pháp thu hẹp những DNNN làm ăn thua lỗ kém hiệu quả.
Tiến hành đổi mới cơ chế quản lý, tăng cờng quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, chúng ta cắt giảm tất cả những gì mang tính chất bao

cấp, loại bỏ dần tình trạng nợ nần dây da, chiếm dụng vốn lẫn nhau, lời giả, lỗ
thật. Bên cạnh việc đảm bảo phân phối theo lao động trong các DNNN, đảm bảo
lợi ích ngời lao động kết hợp chế độ phúc lợi với tăng cờng khuyến khích bằng vật
chất, tiền lơng. Thông qua quan hệ giữa ngời lao động và doanh nghiệp kích thích
5

×